Mẹ thiên nhiên và huỷ diệt bởi thủy điện không phải là vấn đề duy nhất của Đồng Bằng Sông Cửu Long

Không có khu vực đồng bằng nào trên thế giới bị đe doạ bởi biến đổi khí hậu trầm trọng như Sông Cửu Long. Liệu Việt Nam có hành động kịp thời để cứu nơi đây?

Loạt bài của Mongabay – Mongabay series

Tiếng Việt
Phần 1 – Liệu biến đổi khí hậu sẽ nhấn chìm Đồng bằng sông Cửu Long?
Phần 2 – Việt Nam cực kỳ lo lắng vì Trung Quốc và Lào xây đập trên Mekong
Phần 3 – Mẹ Thiên nhiên và huỷ diệt bởi thủy điện không phải là vấn đề duy nhất của Đồng bằng sông Cửu Long
Phần 4 – Kế hoạch cứu nguy Đồng bằng sông Cửu Long

English
Part 1 – Will climate change sink the Mekong Delta?
Part 2 – Vietnam sweats bullets as China and Laos dam the Mekong
Part 3 – Mother Nature and a hydropower onslaught aren’t the Mekong Delta’s only problems
Part 4 – A plan to save the Mekong Delta

Biến đổi khí hậu và các đập nước ở thượng nguồn đang đe dọa khu vực quan trọng này và vấn đề trở nên khó kiểm soát được. Nhưng có phải những vấn đề lớn nhất của ĐBSCL đều do chính Việt Nam tạo ra?

Đồng bằng sông Cửu Long của Việt Nam, nơi ở của gần 20 triệu người, là một trong những môi trường nông nghiệp có năng suất cao nhất trên thế giới, nhờ vào mạng lưới kênh rạch, đê, cửa cống và rãnh thoát nước phức tạp.

Về thế mạnh nông nghiệp của ĐBSCL, Việt Nam đã đi từ một nhà nhập khẩu gạo lâu năm và trở thành một nước xuất khẩu lớn. Tuy nhiên, nông dân trong khu vực rất quan tâm đến các chính sách an ninh lương thực của chính phủ, trong đó yêu cầu hầu hết đất đai của ĐBSCL phải được dành cho sản xuất lúa gạo. Và nhiều người trong số họ đang có biện pháp để phá vỡ các quy tắc, theo những cách mà không phải lúc nào cũng thân thiện với môi trường.

Đó chỉ là một ví dụ về cách chính sách sử dụng đất và nước ở đồng bằng đang làm suy yếu các nỗ lực để bảo vệ khu vực dễ bị tổn thương khỏi biến đổi khí hậu và phát triển đập thượng nguồn.

Đây là bài báo thứ ba trong loạt nghiên cứu chuyên sâu, bốn phần về các mối đe doạ đối với đồng bằng sông Cửu Long và cách giải quyết.

Đầu năm nay 2016, nhiều nông dân ở ĐBSCL đã phải chiến đấu chống lại nạn hạn hán tồi tệ nhất kể từ năm 1926. Liệu hạn hán là dấu hiệu báo hiệu sự thay đổi khí hậu? Có lẽ vậy, nhưng chắc chắn đó là một dấu hiệu của El Nino. Hiện tượng ấm lên toàn cầu cuối cùng đã tạo ra những cơn mưa ở California và làm nó chệch hướng khỏi Châu Phi, Ấn Độ và Đông Nam Á. Mùa mưa bão khá nhẹ vào năm 2015 và cũng kết thúc sớm. Tuy nhiên, ngay khi họ thu hoạch mùa thu, các nông dân trồng lúa ở ĐBSCL đã vội vã gieo trồng vụ đông xuân. Họ không ngờ rằng mực nước biển tăng chưa từng có lên tới chín cửa của sông Mekong. Thông thường, sự xâm nhập của nước mặn được dự đoán sẽ kéo dài từ 40 đến 60 km. Tuy nhiên vào năm nay nó chỉ gặp sự phản lại yếu ớt từ dòng chảy sông hiện tại. Với nồng độ mặt chết từ 4 gram muối/lít trở lên, nước sông lạch tiếp tục tăng 50% so với thường lệ, làm rụng lúa ở Sóc Trăng và Bạc Liêu, phá hoại cây ăn quả ở Kiên Hòa và Gò Công. “Hạn hán và muối xâm nhập là cú sốc rất cần thiết “, phóng viên viết blog Đinh Tuyên, người phụ trách mảng nông nghiệp của ĐBSCL cho một trong những tờ báo hàng đầu của Việt Nam cho biết.”Nó cho thấy chúng ta phải thức tỉnh trước sự thay đổi khí hậu và tìm cách để thích ứng với nó.” “Đã có một đợt hạn hán trong năm 2010. Đó là đợt El Niño trước, nhưng không tệ lắm.”

This Delta farmer's winter-spring rice crop was blighted by salt intrusion. Credit Dinh Tuyen, Thanh Nien Daily News.

Vụ lúa đông xuân của nông dân ĐBSCL đã bị hỏng bởi xâm nhập của muối. Nhà báo Đinh Tuyên, Báo Thanh Niên.

Một lĩnh vực kỹ thuật cao

Khi sông Mêkông đến biên giới Việt Nam, cách thủ đô Phnom Penh 115 km về phía hạ lưu, hai dòng hợp lại và sau đó lại phân ra, trên con đường tới Biển Đông cách biển Đông 200 km về phía đông nam, nơi có chín cửa thoát ra hầu hết nước của con sông. Trong trận lũ hàng năm của dòng sông, một phần đáng kể lượng nước của sông Mekong chảy qua các vùng đất ngập nước đến Vịnh Thái Lan 60 km trở lên về phía tây nam. Tại biên giới Việt Nam – Campuchia, con sông này cao 3,5 mét so với mực nước biển. Trừ một vài ngọn đồi granit, vùng đất dường như hoàn toàn bằng phẳng, một vùng đồng bằng rộng lớn, ẩm ướt, được sử dụng chủ yếu để làm vườn.

Waterways and fields are seen from atop a hill in Chau Doc, a Vietnamese town near where the Mekong crosses into the country from Cambodia. Photo by Vyacheslav Argenberg/FlickrQuang cảnh từ trên đỉnh một ngọn đồi ở Châu Đốc, một thị trấn của Việt Nam gần nơi sông Mêkông băng qua Campuchia. Ảnh của Vyacheslav Argenberg / Flickr

Nhìn từ ngôi đền trên đỉnh ngọn núi đá vôi cao 284 m Núi Sam, đường biên rõ ràng. Đất đai của phía Việt Nam được trồng trọt, bao phủ bằng một mạng lưới các kênh rạch, đê, cống và mương thoát nước phức tạp. Phía tây, tại thượng nguồn ở Cămpuchia, cơ sở hạ tầng thủy văn vẫn còn khiêm tốn. Có thể tưởng tượng được một phần của Việt Nam ở vùng châu thổ cách đây 30 hay 50 năm: một vùng được làm giàu bằng ngập nước hàng năm, phù hợp với việc trồng các giống “gạo nổi” có thể phát triển đủ nhanh để giữ lá và hạt giống nổi trên mặt nước lũ.

Lúa nước nổi là loại cây trồng chủ yếu ở đồng bằng sông Cửu Long cho đến khi các nhà nghiên cứu ở Phi-lip-pin phát triển các giống ngắn, thô, có thể sản xuất hạt lớn nếu lượng nước được kiểm soát chặt chẽ. Cái gọi là “phép lạ lúa” được đưa vào ở các vùng của đồng bằng châu thổ dưới sự kiểm soát của chính quyền Sài Gòn vào cuối những năm 1960. Thêm các nguyên liệu đầu vào phân bón và thuốc trừ sâu, nông dân sản xuất nhiều lần thu hoạch nhiều hơn so với khi họ trồng cây lúa nổi truyền thống.

Sau khi Sài Gòn đầu hàng vào năm 1975, các chuyên gia từ miền Bắc Việt Nam đã thay thế các cố vấn nông nghiệp của Hoa Kỳ. Dưới những hướng dẫn khẩn cấp để mở rộng sản xuất lương thực, các quan chức này huy động nông dân đồng bằng để xây dựng các con đê sông. Bằng cách khống chế lũ lụt hàng năm, các con đê đã giúp thu hoạch được hai hoặc thậm chí ba vụ một năm ở những vùng đất ngập nước cũ, đầm phá Đồng Tháp Mười và tầng trũng Tứ giác An Giang. Và khi các ưu đãi thị trường và các lô đất riêng lẻ được tái sử dụng vào năm 1986, đó chính là những gì mà nhiều nông dân đồng bằng đã làm. Những cải cách đã thúc đẩy sự tiến triển của Việt Nam từ nhà nhập khẩu gạo mãn tính sang nước xuất khẩu gạo số 2 thế giới. Từ 4,5 triệu tấn vào năm 1976, sản lượng lúa gạo của ĐBSCL đã đạt gần 25 triệu tấn vào năm 2013.

Left: The Mekong River and its watershed. The river originates in the Tibetan Plateau of China, where it is known as the Lancang River; it then proceeds through Myanmar, Thailand, Laos, Cambodia and Vietnam. Right: The lower Mekong basin. The river empties into the South China Sea. Images courtesy of Wikipedia and Penprapa Wut/Wikimedia CommonsTrái: Sông Mekong và lưu vực sông. Sông bắt nguồn từ Cao nguyên Tây Tạng của Trung Quốc, nơi nó được gọi là sông Lancang; nó sau đó tiến hành thông qua Myanmar, Thái Lan, Lào, Campuchia và Việt Nam. Phải: Lưu vực sông Mê Công. Con sông đổ vào Biển Đông. Hình ảnh của Wikipedia và Penprapa Wut / Wikimedia Commons

Nỗi ám ảnh về an ninh lương thực của Hà Nội

Ngay cả sau khi cải cách thị trường cho phép nông dân sản xuất ra thặng dư gạo khổng lồ, “an ninh lương thực” vẫn là ưu tiên hàng đầu của chế độ cộng sản Việt Nam. Tuy nhiên, khi thu nhập của người dân tăng lên trong thập kỷ 90, lượng tiêu thụ gạo trên đầu người đã giảm. Đến năm 1997, Việt Nam là nước xuất khẩu gạo lớn thứ hai thế giới. Trong năm 2012 – trớ trêu thay một năm sau khi Việt Nam thay thế Thái Lan ở vị trí số 1 – Hà Nội đã tuyên bố rằng để đảm bảo đủ đất trồng lúa trong tương lai gần, khoảng 3,8 triệu héc-ta, 58% diện tích đất canh tác của đất nước, sẽ chỉ được dung sản xuất lúa gạo. Trong số đó, 3,2 triệu hec-ta được sử dụng để trồng xen kép.

Điều này có nghĩa là khoảng một nửa số nông dân của ĐBSCL đã bị khóa vào canh tác lúa gạo, mặc dù lợi nhuận mà họ có thể kiếm được rau quả, hoa quả, cá hoặc tôm lớn hơn rất nhiều. Về nguyên tắc, họ được đảm bảo lợi nhuận khiêm tốn trên mỗi kilôgam lúa, nhưng Tổng công ty Lương thực miền Nam Việt Nam đảm bảo rằng giá cả không bao giờ tăng lên trên mức gây khó khăn cho xuất khẩu gạo.

Liên minh Quốc tế về Bảo tồn Thiên nhiên (IUCN) hoài nghi về sự ám ảnh lâu dài của chính phủ đối với an ninh lương thực. Jake Brunner là điều phối viên dự án Mekong của tổ chức. Ông giải thích, những con đê cao hơn cho phép 3 vụ lúa / năm ngăn không cho lũ lụt lắng xuống trầm tích trên đồng ruộng đồng bằng sông Cửu Long. Việc tự do sử dụng thuốc trừ sâu và thuốc diệt cỏ cũng cần thiết để tối đa hóa sản lượng từ các giống lúa mới tăng trưởng nhanh. Khi tính toán chi phí kỹ thuật và môi trường cho việc thâm canh lúa ở ĐBSCL, theo IUCN tính toán, các công ty xây dựng và duy trì cơ sở hạ tầng và các công ty nhà nước xuất khẩu khối lượng gạo lớn có lợi nhuận tốt. Còn những người nông dân vùng này chỉ có thể sống qua ngày.

Advertisements for a cocktail of pesticides adorn a rice demonstration plot in the Mekong Delta. Photo by David BrownQuảng cáo về một loại thuốc trừ sâu kết hợp với một lô trình diễn lúa gạo ở đồng bằng sông Cửu Long. Ảnh của David Brown

Võ Tòng Xuân – Hiệu trưởng đã nghỉ hưu của Trường Đại học An Giang nổi tiếng ở Việt Nam với biệt danh “Tiến sĩ Gạo” nói: “Xuất khẩu gạo của chúng tôi đã tăng lên nhưng điều này không cải thiện cuộc sống của người dân. Hàng năm, chính phủ chi tiêu hàng tỉ đô la cho xây dựng và nạo vét, nhưng những chi phí này không được tính đến trong chi phí sản xuất lúa gạo.”

Tuy nhiên, một số nông dân đồng bằng sông Cửu Long cảm thấy dễ dự đoán về việc trồng lúa. Giáo sư Nguyễn Ngọc Đệ, Phó giám đốc Sở Phát triển Nông thôn Thành phố Cần Thơ, nói: “Điều đó có thể hiểu được. Việc trồng lúa ít rủi ro hơn nhiều cây trồng, ví dụ như dưa hấu và sau đó chứng kiến ​​mùa màng thất bại do thiếu kiến ​​thức và kinh nghiệm, hoặc sự sụp đổ của thị trường do nguồn cung quá mức.”

Những người nông dân khác nhấn mạnh về áp lực của các giới chức địa phương về số lượng thay vì chất lượng. Trần Minh Hải, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, đã giới thiệu tôi với một nông dân ở huyện nơi có 3 vụ lúa. Người nông dân này cho biết ông và hầu hết hàng xóm của ông thích trồng rau trong mùa khô: “Điều này tốt hơn cho đất, và chúng tôi sẽ có thêm thu nhập, nhưng chính phủ kiểm soát nước của chúng tôi, và đất của chúng tôi không bao giờ khô.”

Người nông dân này tự cho mình là người thích nghi sớm, rất cởi mở với kiến ​​thức mới: “Tôi đã phát triển một loại gạo nếp phát triển tốt ở đây. Tôi đang cố gắng để tìm ra cách để làng này có thể tiếp thị nó như là một sản phẩm đặc biệt. Tôi dường như tôi đã bị bế tắc: tôi không thể tiếp thị nó như là một sản phẩm trừ khi nó được chứng nhận bởi các nhà khoa học và chi phí của việc đó là không tưởng. ”

Tại một huyện khác mà tôi đến thăm cùng Bộ Trưởng Hải, một số nông dân đã đào rãnh và xây dựng những đống gò trong những ruộng lúa cũ. Cá sống trong mương rãnh chứa nước; ngô thì thấp. “Họ kiểm soát nguồn cung cấp nước của họ,” Hải giải thích. “Những gì nông dân đang làm là không hợp lệ về mặt pháp lý, nhưng có lẽ một số quan chức địa phương đã làm ngơ về việc chuyển đổi các cánh đồng”.

Giáo sư Đệ nói: “Thật là ngớ ngẩn khi duy trì mục tiêu sản xuất lúa hàng năm của vùng châu thổ khoảng 25 triệu tấn mỗi năm.”Thị trường Thái Lan ‘gạo thơm’ và thị trường Pakistan ‘gạo basmati’. Họ bán nó gấp đôi giá mà gạo Việt Nam thu mua. ‘Tạo dựng thương hiệu’ gạo của chúng tôi cho lợi nhuận cao hơn là có thể, nhưng không dễ dàng. ”

Hiện đã có thị trường trong nước cho gạo chất lượng cao. Những người tiêu dùng đô thị hợp thời đang đổ xô đi mua gạo hữu cơ Hoa Sữa được đưa ra thị trường bởi công ty Viên Phú ở ĐBSCL. Một giới chức của công ty giải thích: “Vấn đề của chúng tôi là chúng tôi không thể đáp ứng được các yêu cầu về giấy phép xuất khẩu, điều này làm lợi cho các công ty kinh doanh nhằm bán số lượng lớn nhưng không quan tâm đến chất lượng “.
Lợi nhuận nuôi trồng thủy sản thu hẹp do chi phí thức ăn gia tăng

Châu Thi Đà đứng đầu Khoa Nuôi trồng Thủy sản tại Đại học An Giang. Ông nói với tôi rằng các nguồn cá tự nhiên đã vỡ từ năm 1995, khi nông dân bắt đầu nuôi cá da trơn địa phương để xuất khẩu. Da nói rằng ban đầu, các loài cá sông khác được thu hoạch để nuôi cá da trơn, nhưng trong vòng vài năm, chúng đã trở nêm khan hiếm. Tuy nhiên, kinh doanh lại trở nên tốt hơn. Xuất khẩu cá sông của Đồng bằng sông Cửu Long hiện thu được 2 tỷ đô la mỗi năm. Nông dân nuôi cá đánh bắt bằng nuôi cá biển để kiếm thức ăn và đang thử nghiệm với bột viên đậu nành từ Hoa Kỳ.
Vì vậy, Đà nói, ngay cả trước khi việc xây dựng đập bắt đầu ở thượng nguồn ở Lào, các phần của hạ lưu sông Mê Công đã bị hút mất những kho dự trữ “cá trắng” phong phú. Họ cũng không thể phục hồi chúng được. Việc xây dựng đập ở Xayaburi ở Lào ngăn chặn 64 trong số 100 loài cá di cư ở sông Mêkông đến bãi đẻ. Việc đánh bắt cá da trơn của ĐBSCL bây giờ phụ thuộc vào việc nhân giống nhân tạo.

A farmhouse sits on stilts above a flooded rice paddy in the Mekong Delta. Photo by Daniel Hoherd/Flickr
Một căn chòi nằm trên ruộng lúa ngập nước ở đồng bằng sông Cửu Long. Ảnh của Daniel Hoherd / Flickr

Gần biển, thừa muối

Tại Viện nghiên cứu thị trường và nghiên cứu đồng bằng sông Cửu Long (Đại học Cần Thơ), sự xâm nhập mặn được xem như là một bước ngoặt cho ngành nông nghiệp ở ĐBSCL.

Viện trưởng Lê Công Trí cho hay mực nước biển dâng cao 1 mét trong khoảng thời gian từ nay đến năm 2100 sẽ làm cho 38% vùng ĐBSCL ở dưới mực nước biển. Mặc dù Bộ Nông nghiệp Việt Nam đã đề xuất mở rộng và củng cố các tuyến đê biển hiện nay, hầu hết các nhà phân tích tin rằng các vùng biển dâng lên sẽ tới vùng đất cao hơn. Đó là một giả định trung tâm của dự thảo Kế hoạch ĐBSCL đang được chính phủ Việt Nam nghiên cứu.

Trong 30 năm qua, mực nước biển trung bình đã tăng lên ở miền nam Việt Nam gần 6 cm; trong khi đó, lượng bùn sông hàng năm đã giảm mạnh từ 160 triệu tấn năm 1992 còn 75 triệu tấn vào năm 2014.

Báo cáo các nhà khoa học của Đại học Cần Thơ cho thấy mưa ngày càng ít hơn tại đồng bằng châu thổ. Dự báo lần đầu tiên được nhận thấy trong những năm 1980, lượng mưa được dự báo giảm vào năm 2030 xuống 20%.

A NASA satellite image of the Mekong Delta.Một hình ảnh vệ tinh NASA của đồng bằng sông Cửu Long.

Đó chưa phải là tất cả. Khi xâm nhập mặn ngày càng nghiêm trọng, càng giếng sâu được khoan vào tầng nước ngầm cổ đại để đảm bảo nước ngọt. Các con đê cao, cho phép hai hoặc ba vụ lúa hàng năm ngăn cản việc nạp nước của các tầng nước ngầm. Vì vậy, đặc biệt ở Cà Mau, tỉnh cực nam của Việt Nam, đất đang dần sụt giảm, khoảng 2 milimét mỗi năm. Nước muối càng dễ xâm nhập vào các dòng sông, lạch và kênh rạch vào lúc triều cao và tràn lên đê và đê vào ruộng lúa và vườn cây ăn trái.

Kể từ năm 1975, các cửa xả nước đã được ưu tiên phòng ngừa xâm nhập thủy triều; chúng đóng vào mùa khô, khi mực nước sông thấp và mở khi lũ lụt hàng năm làm tăng mực nước sông. Giải pháp để ngăn muối này hiện vẫn đang là vấn đề gây tranh cãi. Khi mùa mưa bắt đầu đến thực sự vào năm nay, tôi lái xe qua khu vực phía Nam Cần Thơ cùng với bạn tôi Hải, người đã dạy tại trường Đại học An Giang trước khi gia nhập Bộ Nông nghiệp. Anh Hải hoài nghi về giá trị của các cửa xả nước. Chúng tôi dừng lại ở một số kênh rạch đã bị chặn không cho ra biển. Tất cả đều ứ đọng và hôi. Chim lục bình xâm lấn đang tràn ngập hoa màu hoa sen.

Tại điểm dừng khác, chúng tôi kiểm tra những vũng nước màu nước sữa. “Đó là nhôm”, Hải giải thích. Đất trong khu vực này của vùng châu thổ có tính axit mạnh. Trong thời hạn hạn hán, đất đã khô và nứt, cho phép quá trình oxy hóa nhôm và sắt. Bây giờ, vào đầu của mùa mưa, các kim loại đã tràn ra đất. Ông nói: “Đây là vùng đất lề, không thể canh tác lúa gạo. Cho đến khi những muối axit này được rửa sạch bởi lũ lụt nước ngọt, không có cách nào để trồng lại nó.”

Tại tỉnh Bến Tre, Hải nói với tôi, cửa khe khổng lồ Ba Lai chặn một trong những cửa sông nhỏ hơn của Mekong. Cửa này đã đưa vào phục vụ vào năm 2004 để “làm ngọt” dòng sông thượng nguồn. Rào cản này thường được coi là một khoản đầu tư nghèo vì nó đã chứng minh là không thể làm sạch ô nhiễm tồn tại gần như cả năm. Vào mùa khô, dòng sông phía trên cửa Ba Lai giờ đã quá mặn để tưới rau hoặc trái cây. Tuy nhiên, bộ trưởng bộ nông nghiệp có một giải pháp: thêm cửa xả. Vấn đề tại Ba Lai, theo lập luận, là ở thượng nguồn của các đê chắn : thấm nước mặn từ các nhánh khác của sông Mê Kông mà chưa có đê chắn.

Quay sang tôm

Shrimp from the Mekong Delta region. Photo by Lam Thuy VoTôm từ vùng đồng bằng sông Cửu Long. Ảnh của Lâm Thúy Võ

Gần bờ biển của Biển Đông ở phía đông và Vịnh Thái Lan về phía tây, ở nhiều làng nước ngầm hiện nay đang là nước lợ. Tại Ba Lai, hàng chục ngàn nông dân đã kết luận rằng lúa không thể trồng tại đây được nữa, nhưng nuôi tôm thì được. Tuy nhiên, nếu theo luật thì đất đai mà nhà nước giao cho họ được gọi là đất lúa và không được phép trồng các loại cây khác. Trừ khi giới chức địa phương sẵn sàng tìm cách khác trong khi nông dân mở cửa xả, dự đoán một sự thay đổi trong chính sách còn chưa biết bao giờ mới thực hiện.

Nuôi tôm là hoạt động kinh doanh lớn trong nhiều năm ở các vùng của Cà Mau, Bạc Liêu, Kiên Giang và các tỉnh ven biển khác. Trong năm 2013-15, Việt Nam đã xuất khẩu 2,7 tỷ USD giá trị tôm sú (Penaeus monodon) và tôm thẻ chân trắng (Litopenaeus vannamei) hàng năm. Khoảng 580.000 ha đất ven biển đã được chuẩn bị cho nuôi tôm. Ở những nơi có đủ lượng mưa để xả muối, tôm được nuôi trong vụ mùa khô và lúa được trồng trong những tháng ẩm ướt.

Nuôi trồng thuỷ sản nước lợ là một việc kinh doanh khá khó khăn so với trồng lúa; nó đòi hỏi phải quản lý cẩn thận về chất lượng nước, độ mặn, hóa chất đất và các đầu vào khác. Và trong khi nhà nước đảm bảo cho nông dân một lợi nhuận nhỏ nhưng đáng tin cậy đối với cây lúa, người nuôi tôm đang ở trong tình trạng dễ bi tổn thương của thị trường.

IUCN: Các vấn đề của ĐBSCL hầu hết là ‘được làm ra tại Việt Nam’

Khi cuộc chiến tranh Việt Nam kết thúc năm 1975, các nhà quy hoạch trung tâm của Hà Nội đã ưu tiên phát triển sản xuất lương thực ở đồng bằng sông Cửu Long. Sau sự đảo chiều ban đầu, họ đã thành công đáng kể. Việc tăng nhanh sản lượng cá, tôm, hoa quả và đặc biệt là gạo là một sự bùng nổ xuất khẩu đã định hình và hỗ trợ sự phát triển rộng lớn hơn của nền kinh tế quốc gia.

Tuy nhiên, những thành công này không phải là không có chi phí lớn. Ngày nay, nó không chỉ là những tác động có thể xảy ra của một loạt các đập nước lớn và có thể là những dòng chảy thượng nguồn về các đại dương và sự thay đổi lượng mưa mà các nhà quy hoạch phải quan sát kĩ càng. Jake Brunner từ IUCN nói: “Đa số các vấn đề của ĐBSCL đang được tạo ra trong Việt Nam”. Những vấn đề này có thể đổ lỗi cho chính sách sử dụng đất và nước ở đồng bằng sông Cửu Long “.

Động lực của Việt Nam để sản xuất thêm từ ĐBSCL đang bế tắc. Các chính sách thực hiện trong 40 năm qua đã đánh thuế độ màu mỡ của đất ĐBSCL và làm suy giảm nghiêm trọng hệ sinh thái của nó. Mực nước biển dâng cao, thay đổi lượng mưa và sự can thiệp của con người ở thượng nguồn đang gây ra những căng thẳng bổ sung cho nền kinh tế trang trại.

Từ xa, Hà Nội đầu năm nay – 2016, chế độ tái khẳng định chính sách an ninh lương thực của Việt Nam về nguyên tắc (3,76 triệu ha trên toàn quốc sẽ tiếp tục được giữ là “đất lúa”) nhưng đã bị rút khỏi thực tiễn (tổng số này là khoảng 400.000 ha lúa bị xâm nhập mặn có thể được trồng trong các cây trồng khác, miễn là “các điều kiện cần thiết cho canh tác lúa gạo được bảo tồn”. Nói một cách đơn giản, chính phủ sẽ cho phép nông dân trồng những cây trồng có lợi nhuận cao hơn trên đất đai vốn đã không còn phù hợp cho việc sản xuất lúa gạo.

Đối với những người tham dự đối thoại ĐBSCL với tôi vào tháng 6.2016, hầu hết là các viện nghiên cứu và một số “nông dân kiểu mẫu”, thì quyết định của Hà Nội được hoan nghênh. Nó báo hiệu rằng các nhà lãnh đạo Việt Nam hiểu rằng thích ứng với những hoàn cảnh thay đổi đã trở nên cấp bách và cần thiết. Nhưng, khi rất nhiều người vẫn đầu tư sâu vào nguyên trạng, thì hành động táo bạo có khả thi không?

Advertisement

Trả lời

Điền thông tin vào ô dưới đây hoặc nhấn vào một biểu tượng để đăng nhập:

WordPress.com Logo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản WordPress.com Đăng xuất /  Thay đổi )

Twitter picture

Bạn đang bình luận bằng tài khoản Twitter Đăng xuất /  Thay đổi )

Facebook photo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản Facebook Đăng xuất /  Thay đổi )

Connecting to %s