Bất cập trong quản lý và khai thác nước ngầm – Bài 1
Ông Nguyễn Đăng Biển (bên phải) ở tổ 4, khu phố Phú Hưng.phường Phú Thịnh, thị xã Bình Long khoan giếng tại ấp Quản Lợi A, xã Tân Lợi (Hớn Quản)
01:33 PM – 05/05/2017
BP – Những năm gần đây, thời tiết diễn biến bất thường dẫn đến khô kiệt nguồn nước, ảnh hưởng sinh hoạt và phát triển sản xuất của người dân. Khi nước mặt cạn kiệt, các hồ chứa trơ đáy, giải pháp khoan để khai thác nước ngầm được cho là hiệu quả nhất, dẫn đến dịch vụ khoan giếng nở rộ và là nguyên nhân chính làm cạn kiệt nguồn nước cục bộ, gia tăng ô nhiễm các tầng chứa nước. Thậm chí làm ô nhiễm mạch nước ngầm do các giếng khoan không gặp nước đã không được trám lấp, về mùa mưa chất bẩn theo dòng nước chảy xuống giếng.
VÀNG THAU LẪN LỘN
Bình Phước là tỉnh có nền kinh tế chủ yếu dựa vào trồng trọt và chăn nuôi nên nhu cầu sử dụng nước phục vụ sản xuất rất lớn. Cùng với xu hướng phát triển kinh tế theo hướng tăng dần tỷ trọng công nghiệp, nhu cầu sử dụng nguồn nước của các doanh nghiệp ngày càng nhiều, kéo theo nghề khoan giếng phát triển. Tuy nhiên, do không được kiểm soát chặt chẽ nên lĩnh vực này đang trong cảnh “vàng thau lẫn lộn”, gây mất công bằng cho những người hành nghề chân chính.
TRĂN TRỞ “VUA KHOAN GIẾNG”
Ông là Nguyễn Đăng Biển ở tổ 4, khu phố Phú Hưng, phường Phú Thịnh (Bình Long). Tôi gọi như vậy bởi ông là chủ cơ sở duy nhất có giấy phép hành nghề khoan giếng trên địa bàn tỉnh. Ý thức được việc bảo vệ tài nguyên nước, ông tự trau dồi kiến thức, tích lũy kinh nghiệm và đáp ứng những yêu cầu khắt khe của nghề khoan giếng nên được cấp phép hành nghề. Vì thế, ông nhiều lần được tiếp xúc với các đoàn chuyên gia thực hiện khoan nước dưới đất và biết quy trình họ làm rất bài bản. Ông Biển cho biết: Trước khi đào giếng họ chụp cắt lớp mặt đất bằng vệ tinh, sau đó phân tích những vị trí có nước rồi mới chọn địa điểm khoan giếng. Mặc dù có sự hỗ trợ của các thiết bị hiện đại nhưng không phải khi nào khoan cũng gặp nước. Về nguyên tắc, nếu giếng không có nước phải lấp, chèn lại để tránh nước thải, nước bẩn rò rỉ, chảy xuống chỗ đã khoan gây ô nhiễm nguồn nước. Khi lấp, chèn phải tuân thủ đúng quy trình mới thể hiện cái tâm của thợ khoan giếng. Hiện đa số cơ sở, cá nhân hành nghề, khi khoan không có nước họ chuyển qua địa điểm mới và “quên” xử lý giếng không có nước. Điều này cho thấy họ chỉ chú trọng khoan có nước lấy tiền, chứ chưa ý thức bảo vệ và giữ gìn nguồn nước lâu dài.
Để bảo vệ nguồn nước, bảo đảm công bằng cho những đơn vị hành nghề hợp pháp, ông Biển cho rằng: “Ngành chức năng cần rà soát, kiểm tra cá nhân, cơ sở hành nghề khoan giếng, phải có giấy phép mới cho hoạt động. Tôi nhận thấy, việc quản lý nghề này còn nhiều bất cập. Bởi năm 2016, tôi chỉ nhận được Thông tư số 40/2014/TT-BTNMT, ban hành ngày 11-7-2014 của Bộ Tài nguyên – Môi trường về quy định hành nghề khoan nước dưới đất do Sở Tài nguyên – Môi trường đưa về và đến nay vẫn không thấy có thêm thông tin gì”.
Theo tìm hiểu của phóng viên, để có giấy phép hành nghề khoan giếng, người thợ phải có đủ thời gian tích lũy kinh nghiệm và đáp ứng những yêu cầu khắt khe theo quy định của Thông tư số 40. Nghề này đang ở tình trạng “cào bằng”, có giấy phép hay không cũng hành nghề như nhau. Thậm chí, các cơ sở, cá nhân không có giấy phép đã phối hợp với cơ sở khác mượn giấy tờ khi bị kiểm tra hay hoàn tất thủ tục thanh toán.
THỰC TRẠNG NGHỀ KHOAN GIẾNG
Hiện không khó để tìm những bảng quảng cáo số điện thoại, tên cơ sở khoan giếng gia dụng, công nghiệp trên địa bàn tỉnh, nhưng lại khó thống kê cụ thể về số lượng đơn vị đang hoạt động trong lĩnh vực này. Chỉ thông qua những người trong nghề lâu năm, chúng tôi mới có được con số áng chừng, khoảng 200 đến 300 máy khoan; bình quân mỗi huyện có khoảng 20 máy khoan, trong đó có những cơ sở “làm ăn lớn” sở hữu 4 đến 5 máy khoan. Tuy nhiên, hiện toàn tỉnh chỉ có 1 hộ kinh doanh được cấp giấy phép hành nghề khoan giếng.
Hầu hết những người hành nghề khoan giếng trên địa bàn tỉnh đều dựa vào kinh nghiệm, không có bằng cấp theo đúng yêu cầu của cơ quan chức năng. Nhiều người thấy khoan giếng có thu nhập nên đầu tư máy móc và thuê thợ về làm. Năm nay mùa mưa kéo dài, nhiều hộ kinh doanh theo kiểu “ăn xổi” rơi vào cảnh “trùm mền” khi chưa kịp hoàn vốn. Các máy khoan trị giá trên 200 triệu đồng nay thanh lý với giá 70-80 triệu đồng nhưng không ai mua. Đó chỉ là những tổn thất về mặt kinh tế mà các hộ tự chịu, nhưng việc hành nghề không có kinh nghiệm, thiếu kiến thức về tài nguyên nước và ý thức bảo vệ môi trường đã, đang gây ra tác hại vô cùng lớn với tài nguyên nước của tỉnh.
Một chủ cơ sở làm nghề khoan giếng tại xã Tân Khai (Hớn Quản) cho biết: Chúng tôi không biết người khoan giếng phải có giấy phép hành nghề, chỉ nghĩ đầu tư máy móc kiếm kế sinh nhai và khi khoan có nước được trả công là mừng rồi. Còn ông Nguyễn Đăng Biển cho rằng: Người dân không cần đơn vị khoan giếng có giấy phép hành nghề hay không, chỉ cần khoan có nước là họ trả tiền. Lợi dụng sự đơn giản của người dân, nhiều người làm nghề cạnh tranh nhau bằng cách phá giá.
Một bảng quảng cáo khoan giếng ở xã Tiến Thành (Đồng Xoài) Ông Nguyễn Đăng Biển (bên phải) ở tổ 4, khu phố Phú Hưng, phường Phú Thịnh, thị xã Bình Long khoan giếng tại ấp Quản Lợi A, xã Tân Lợi (Hớn Quản)
Anh Huỳnh Văn Út, chủ cơ sở khoan giếng Út Lý ở ấp 2, xã Minh Lập (Chơn Thành) làm nghề khoan giếng từ năm 1999 cho biết: Người hành nghề chuyên nghiệp họ biết cách bảo vệ môi trường, hạn chế tối đa tác động xấu đến nguồn nước. Tôi làm nghề này đã lâu, nhưng chưa thấy cơ quan chức năng, người dân nào hỏi đến giấy tờ hành nghề. Làm lâu có kinh nghiệm nên nhiều người biết, khi có nhu cầu họ kêu mình làm thôi. Năm nay thời tiết diễn biến thất thường, ít người khoan giếng nên tôi giảm giá 40%. Nếu tính theo giá hiện tại thì mỗi giếng gia dụng nếu khoan suôn sẻ, gặp nguồn nước, tôi chỉ kiếm được 400 ngàn đồng.
Trong vai người cần tìm đơn vị khoan giếng cho công ty, tôi đến hộ ông B.Đ ở ấp 3, xã Tân Khai đề nghị phải có giấy phép hành nghề khoan giếng để đảm bảo môi trường và phòng khi có kiểm tra, quyết toán kinh phí. Ông B.Đ khẳng định, không bị kiểm tra đâu, nếu có bên chúng tôi sẽ lo. Cần đầy đủ giấy tờ để quyết toán nếu phía công ty tự lo được thì thôi, còn tôi lo sẽ phải mất phần trăm(!?).
Thực tế, có những công ty khi khoan giếng phục vụ chế biến, sản xuất – kinh doanh đã gặp không ít khó khăn trong việc tìm đơn vị đủ năng lực nhằm đảm bảo đúng quy trình, bảo vệ môi trường cũng như trong thanh quyết toán. Về lâu dài, nếu nhu cầu khoan giếng của người dân vẫn cao, số lượng người làm nghề khoan giếng đông sẽ gây ra nhiều bất cập khi không đáp ứng điều kiện của Thông tư số 40. Ông Nguyễn Hữu Thương, Trưởng phòng Tài nguyên nước (Sở Tài nguyên – Môi trường) cho hay: Thời gian khoan 1 giếng từ 3-5 ngày nên những thợ khoan luôn di chuyển, rất ít cơ sở cố định, trong khi việc kiểm tra phải có đầy đủ thủ tục và đúng quy trình nên công tác kiểm tra gặp khó khăn.
Để bảo vệ nguồn nước, năm 2017, Sở Tài nguyên – Môi trường sẽ khảo sát đánh giá lập danh mục vùng cấm, vùng hạn chế, vùng đăng ký khai thác nước dưới đất và lập bản đồ phân vùng khai thác nước dưới đất. Còn việc cấp giấy phép hành nghề khoan giếng, ngành đang cố gắng liên lạc tìm đơn vị đầy đủ trình độ, năng lực để đào tạo và cấp giấy phép hành nghề cho các cá nhân, cơ sở hành nghề này trên địa bàn tỉnh. |
Ngọc Bích
***
Bất cập trong quản lý và khai thác nước ngầm – Bài cuối
BP – Để trả lời câu hỏi đâu là giải pháp sử dụng nguồn nước bền vững và giúp người dân hiểu, nâng cao ý thức trong bảo vệ nguồn nước, phóng viên Báo Bình Phước đã phỏng vấn ông Nguyễn Phú Quới, Giám đốc Sở Tài nguyên và Môi trường (TN-MT) về những biện pháp quản lý tài nguyên nước, người hành nghề khoan giếng và việc cấp giấy phép hành nghề khoan nước dưới đất (KNDĐ) trên địa bàn tỉnh hiện nay.
GIẢI PHÁP BẢO VỆ TÀI NGUYÊN NƯỚC BỀN VỮNG
Xin ông cho biết điều kiện để được cấp phép hành nghề khoan giếng? Hiện trong tỉnh có bao nhiêu cá nhân, cơ sở được cấp phép hành nghề KNDĐ, thưa ông?
ÔNG NGUYỄN PHÚ QUỚI: Để được cấp giấy phép hành nghề KNDĐ, các tổ chức, cá nhân thi công công trình thăm dò nước dưới đất phải đáp ứng các điều kiện về hành nghề KNDĐ do Bộ TN-MT quy định, được chia làm 3 quy mô nhỏ, vừa và lớn. Đối với hành nghề KNDĐ quy mô nhỏ được khoan và lắp đặt các giếng KNDĐ có đường kính ống chống hoặc ống vách nhỏ hơn 110mm, thuộc công trình có lưu lượng nhỏ hơn 200m3/ngày đêm. Quy mô vừa là hành nghề khoan và lắp đặt các giếng KNDĐ có đường kính ống chống hoặc ống vách nhỏ hơn 250mm và thuộc công trình có lưu lượng từ 200m3 đến dưới 3.000m3/ngày đêm. Quy mô lớn thuộc các công trình có lưu lượng từ 3.000m3/ngày đêm trở lên. Tại Điều 11, Thông tư số 40/2014/TT-BTNMT, ngày 11-7-2014 của Bộ TN-MT, đối với giấy phép hành nghề KNDĐ quy mô lớn do Bộ TN-MT cấp, gia hạn, điều chỉnh nội dung, cấp lại, đình chỉ hiệu lực, thu hồi giấy phép. Đối với giấy phép hành nghề KNDĐ quy mô vừa và nhỏ do UBND tỉnh cấp, gia hạn, điều chỉnh nội dung, cấp lại, đình chỉ hiệu lực, thu hồi.
Công nhân làm việc cho hộ kinh doanh Nguyễn Đăng Biển ở tổ 4, khu phố Phú Hưng, phường Phú Thịnh (Bình Long) chuẩn bị khoan nước dưới đất
Các đơn vị, cá nhân ngoài giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh có nội dung hoạt động liên quan đến ngành nghề KNDĐ, người chịu trách nhiệm chính về kỹ thuật phải am hiểu quy định của pháp luật về bảo vệ nguồn nước dưới đất. Đối với hành nghề KNDĐ quy mô nhỏ, người chịu trách nhiệm về kỹ thuật phải có trình độ chuyên môn tốt nghiệp trung cấp trở lên thuộc các ngành địa chất, khoan; có ít nhất 2 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực hành nghề hoặc công nhân khoan có tay nghề bậc 3/7 và có ít nhất 4 năm kinh nghiệm liên tục trong lĩnh vực hành nghề… Đối với nghề KNDĐ quy mô vừa, phải có trình độ chuyên môn tốt nghiệp đại học trở lên thuộc các ngành địa chất, khoan và có ít nhất 3 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực hành nghề hoặc trung cấp trở lên thuộc các ngành địa chất, khoan và có ít nhất 5 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực hành nghề; đã trực tiếp tham gia lập đề án, báo cáo thăm dò, thiết kế hệ thống giếng khai thác hoặc chỉ đạo thi công ít nhất 5 công trình KNDĐ có lưu lượng từ 200m3/ngày đêm trở lên. Đối với hành nghề KNDĐ quy mô lớn phải có trình độ chuyên môn tốt nghiệp đại học trở lên thuộc các ngành địa chất, khoan và có ít nhất 7 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực hành nghề; đã trực tiếp tham gia lập đề án, báo cáo thăm dò, thiết kế hệ thống giếng khai thác hoặc chỉ đạo thi công ít nhất 3 công trình KNDĐ có lưu lượng từ 3.000m3/ngày đêm trở lên.
Thời gian qua, sở đã tham mưu UBND tỉnh cấp 3 giấy phép hành nghề KNDĐ cho các tổ chức, cá nhân. Trong đó, Công ty TNHH Xây dựng DT, phường Tân Phú (Đồng Xoài) có Giấy phép số 11/GP-UBND, quy mô vừa và nhỏ, cấp ngày 31-5-2006 và đã hết hạn. Doanh nghiệp tư nhân Nam Thịnh Phát ở xã Đức Liễu (Bù Đăng), Giấy phép số 18/GP-UBND với quy mô nhỏ, cấp ngày 10-6-2008 đã hết hạn ngày 10-6-2013. Chỉ còn hộ kinh doanh Nguyễn Đăng Biển ở tổ 4, khu phố Phú Hưng, phường Phú Thịnh (Bình Long), Giấy phép số 41/GP-UBND, quy mô nhỏ, cấp ngày 7-10-2015, hạn đến ngày 7-10-2020.
Tình trạng khoan giếng tràn lan sẽ ảnh hưởng đến tài nguyên nước như thế nào và ngành có giải pháp gì để ngăn chặn, thưa ông?
ÔNG NGUYỄN PHÚ QUỚI: Sở đã lập quy hoạch tài nguyên nước tỉnh đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030, hiện UBND tỉnh đã phê duyệt tại Quyết định số 47/QĐ-UBND ngày 11-1-2016. Đây là căn cứ để ngành tham mưu UBND tỉnh về công tác quản lý tài nguyên nước, cấp giấy phép tài nguyên nước… Quy hoạch tài nguyên nước đã đưa ra 16 dự án cần thực hiện trong thời gian tới với các phân kỳ thực hiện tùy vào mức độ ưu tiên khác nhau. Do đó, Sở TN-MT đã có giải pháp cơ bản phục vụ việc quản lý KNDĐ. Cụ thể, năm 2016, sở đã đề nghị UBND tỉnh chấp thuận triển khai Dự án “Điều tra, đánh giá lập danh mục vùng cấm, vùng hạn chế, vùng đăng ký khai thác nước và lập bản đồ phân vùng khai thác nước dưới đất trên địa bàn tỉnh Bình Phước”. Dự án đã được UBND tỉnh phân bổ dự toán kinh phí sự nghiệp môi trường năm 2017 thực hiện tại Quyết định số 848/QĐ-UBND ngày 11-4-2017. Đối với các dự án cho cơ sở: Sở TN-MT, UBND các huyện, thị xã (phòng TN-MT) quản lý tài nguyên nước dưới đất và hướng dẫn về mặt chuyên môn khi các tổ chức, cá nhân có nhu cầu khoan giếng khai thác nước dưới đất tại khu vực không có nước hoặc nước dưới đất thuộc vùng khan hiếm sẽ khuyến cáo để người dân biết, không đào hay khoan giếng, tránh tốn chi phí đầu tư không hiệu quả…
Hiện vẫn có không ít cá nhân, tổ chức hành nghề khoan giếng cố tình hoặc không biết phải có giấy phép hành nghề mới được phép KNDĐ. Vậy ngành đã có giải pháp gì để ngăn chặn, xử lý những trường hợp này, thưa ông?
ÔNG NGUYỄN PHÚ QUỚI: Năm 2016, Sở TN-MT đề nghị Phân viện Khoa học địa chất và khoáng sản phía Nam – Viện Khoa học địa chất và khoáng sản – Bộ TN-MT phối hợp mở lớp tập huấn tại tỉnh với chuyên đề “Quản lý tài nguyên nước – kỹ thuật thăm dò khai thác nước dưới đất” và cấp giấy chứng nhận. Phân viện đã chấp thuận mở lớp, nhưng khi yêu cầu nộp hồ sơ năng lực làm căn cứ xây dựng đề án mở lớp chuyên đề gửi Sở Nội vụ trình UBND tỉnh phê duyệt theo quy định tại Quyết định số 54/2013/QĐ-UBND ngày 4-12-2013, thì đơn vị này không được cấp giấy chứng nhận cho học viên lớp chuyên đề.
Năm 2017, sở sẽ liên hệ với đơn vị khác mở lớp chuyên đề “Quản lý tài nguyên nước – kỹ thuật thăm dò khai thác nước dưới đất” để các tổ chức, hộ kinh doanh, cá nhân đáp ứng quy định được cấp giấy phép hành nghề KNDĐ với quy mô nhỏ. Trước mắt, sở sẽ có văn bản đôn đốc, yêu cầu UBND và phòng TN-MT các huyện, thị xã; UBND xã, phường, thị trấn đề nghị cá nhân, tổ chức hành nghề KNDĐ lập thủ tục cấp giấy phép hành nghề đúng quy định pháp luật.
Ngọc Bích