“Vỡ trận quy hoạch” thủy điện nhỏ ở các tỉnh miền núi phía Bắc – 5 bài

***

“Vỡ trận quy hoạch” thủy điện nhỏ ở các tỉnh miền núi phía Bắc

Sau 10 năm quay hoạch phát triển thủy điện ồ ạt, các tỉnh Hà Giang, Cao Bằng đã phải hứng chịu hàng loạt hệ lụy như thủy điện gây mất rừng, sông suối cạn trơ đáy, ảnh hưởng tới danh lam thắng cảnh…

Hùng Võ (Vietnam+)  

“Vo tran quy hoach

Sông Miện tại tỉnh Hà Giang bị các nhà máy thủy điện thắt lại, ngăn thành những hồ đập lớn. (Ảnh: Hùng Võ/Vietnam+)

Với lợi thế về địa hình, số lượng sông suối nhiều, độ dốc cao… từ năm 2005 đến nay, nhiều tỉnh miền núi đã coi phát triển thủy điện nhỏ là “con gà đẻ trứng vàng.” Từ đó khởi nguồn cho phong trào phát triển ồ ạt nhằm khai thác tối đa nguồn “vàng trắng” giàu tiềm năng.

Vậy nhưng, sau gần chục năm trải thảm đỏ thu hút đầu tư, giờ đây, một số tỉnh đi đầu trong “phong trào phát triển năng lượng” ở miền Bắc như Hà Giang, Cao Bằng đã phải hứng chịu hàng loạt hệ lụy: Gây mất rừng, dự án xây dựng dở dang, sông suối cạn trơ đáy, suy giảm lượng phù sa, ảnh hưởng nghiêm trọng tới danh lam thắng cảnh…

Và đằng sau đó là cả những câu chuyện “bi hài” đang gây nhiều tranh cãi do công tác lập, thẩm định và phê duyệt dự án chưa sát với thực tế, chưa khoa học dẫn đến việc phải thường xuyên điều chỉnh và loại bỏ nhiều dự án ra khỏi quy hoạch.

Bài 1: Tỉnh nghèo cuốn theo “cơn lốc” phát triển thủy điện nhỏ

Trong vòng 10 năm qua, tỉnh Hà Giang và Cao Bằng đã được quy hoạch trên 100 dự án thủy điện với tổng công suất lắp máy khi quy hoạch lên đến hơn 1.000MW. Đến nay, mặc dù hai tỉnh này đã loạt bỏ 37 dự án yếu kém, nhưng trung bình mỗi dòng sông vẫn phải “cõng” từ 3-6 nhà máy thủy điện.

Thực trạng phát triển một cách ồ ạt các công trình thủy điện và thiếu kiểm soát, gây tranh chấp kéo dài trong suốt nhiều năm… đã khiến hai tỉnh có tiềm năng về phát triển năng lượng sạch ở miền Bắc phải chịu những hệ lụy khi chủ đầu tư quay lưng để lại.

Thủy điện nhỏ “mọc” tràn lan

Chỉ tính riêng tại tỉnh Cao Bằng, mặc dù, địa phương này đã loại bỏ 11 dự án khỏi quy hoạch vào năm 2011 nhưng hiện vẫn còn 40 dự án thủy điện nằm trong quy hoạch với tổng công suất lắp máy hơn 350 MW. Trong đó, 24 dự án được tỉnh phê duyệt năm 2007; Bộ Công Thương phê duyệt, bổ sung điều chỉnh 10 dự án; và 6 dự án được tỉnh phê duyệt bổ sung.

Theo thông tin từ Sở Công Thương tỉnh Cao Bằng, hiện trên địa bàn tỉnh có 12 nhà máy thủy điện đã đi vào hoạt động với tổng công suất lắp máy hơn 70,6 MW; thủy điện công suất lớn nhất là 30 MW, còn lại chủ yếu là thủy điện nhỏ được xây dựng trên hệ thống các con sông chính như sông Gâm, sông Bằng Giang, sông Quây Sơn…

Trong đó, riêng hệ thống sông Gâm (dài khoảng 60km, chảy qua hai huyện Bảo Lâm, Bảo Lạc) theo quy hoạch sẽ phải “cõng” 6 dự án thủy điện. Hiện tại, thủy điện Bảo Lâm 1 với công suất 30 MW đã đi vào vận hành, thủy điện Bảo Lâm 3 và 3A đang được thi công, thủy điện Bảo Lâm 4 chuẩn bị thi công. Cả 4 thủy điện này được đầu tư bởi Công ty cổ phần xây lắp điện 1.

Còn tại tỉnh Hà Giang, từ năm 2005 đến nay, địa phương này đã được quy hoạch 72 dự án thủy điện với tổng công suất lắp máy khi quy hoạch là 768,8MW. Trong giai đoạn đầu, từ năm 2005-2010 và xét đến năm 2015 tại Quyết định 216/QĐ-UBND ngày 19/5/2005 của Ủy ban Nhân dân tỉnh Hà Giang, trên địa bàn tỉnh này được quy hoạch 26 dự án, với tổng công suất lắp máy 474,9MW.

Cũng trong giai đoạn này, Bộ Công nghiệp (nay là Bộ Công Thương) đã phê duyệt một dự án thủy điện trên sông Gâm, với công suất 45MW.

Trong khi đó, tại Quyết định số 2737/QĐ-UBND ngày 22/8/2008 của Ủy ban Nhân dân tỉnh Hà Giang về việc phê duyệt quy hoạch phát triển thủy điện vừa và nhỏ, thì số lượng dự án thủy điện nhỏ trong giai đoạn hai được điều chỉnh thêm… 34 dự án. Vì đây chủ yếu là thủy điện nhỏ nên tổng công suất lắp máy của 34 dự án chỉ có 80MW.

[Tỉnh Đắk Lắk quyết định loại bỏ 17 dự án thủy điện vừa và nhỏ]

Những tưởng với hệ thống thủy điện dày đặc được quy hoạch trên hầu hết các con sông ở Hà Giang sẽ dừng lại ở đó. Tuy nhiên, trong khoảng thời gian 2 năm (từ cuối 2009-2011), Hà Giang tiếp tục quy hoạch thêm 11 thủy điện trên hệ thống sông Lô, sông Chảy, sông Gâm với tổng công suất lắp máy hơn 160MW.

Mãi đến tháng 4/2013, sau khi cùng Bộ Công Thương rà soát các dự án thủy điện, Ủy ban Nhân dân tỉnh Hà Giang mới loại bỏ 27 trong tổng số 72 dự án ra khỏi quy hoạch vì năng lực yếu, không khả thi như: Thủy điện Sông Miện 2, Thanh Thủy 1A, Lũng Phìn, Cốc Rế, Sông Con 1, Ngòi Thàn, Ngòi Hít, Nậm Mu 1A, Nậm Khiêu…

Vậy nguyên nhân từ đâu mà tỉnh Hà Giang phải mạnh tay loại bỏ hàng chục dự án thủy điện đã được tỉnh đưa vào quy hoạch như vậy?

Lý giải cho thực trạng trên, ông Hoàng Văn Nhu – Giám đốc Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Hà Giang cho rằng: Trước đây công tác lập, thẩm định, phê duyệt quy hoạch dự án thủy điện chưa sát với thực tế, thiếu sàng lọc ngay từ khi kêu gọi. Vì thế, không ít chủ đầu tư thiếu năng lực và kinh nghiệm đã nhảy vào đầu tư, dẫn đến việc phải thường xuyên điều chỉnh, loại bỏ nhiều dự án khỏi quy hoạch.

Bên cạnh đó, việc đầu tư phát triển thủy điện ở Hà Giang cũng xuất hiện những bất cập như chiếm dụng đất đai (đất nông nghiệp, đất rừng), đồng ruộng để làm hồ chứa. Thủy điện hình thành các bậc thang từ thượng nguồn làm thay đổi dòng chảy, chế độ thủy văn, ảnh hưởng môi trường sinh thái, tiềm ẩn nguy cơ gây thảm họa cho con người.

Cho đến nay, mặc dù đã bị loại bớt dự án (chỉ còn lại hơn 40 dự án với tổng công suất lắp máy gần 800 MW) nhưng mỗi con sông ở Hà Giang vẫn phải “cõng” từ 3 – 6 thủy điện. Đơn cử, dù chỉ là một phụ lưu của sông Lô, nhưng sông Miện hiện đang phải “cõng” 6 thủy điện là: Sông Miện 5, Sông Miện 5A, Thái An, Sông Miện (Bát Đại Sơn), Sông Miện 6, và Thuận Hòa.

Trên sông Nho Quế (dòng sông giải khát cho người dân vùng cao) chảy qua địa phận huyện Mèo Vạc, hiện cũng đã được quy hoạch ít nhất 3 nhà máy thủy điện bậc thang. Trong đó, thủy điện Nho Quế 3 đã vận hành từ năm 2012, thủy điện Nho Quế 2 đã phát điện hồi tháng 8/2016. Còn thủy điện Nho Quế 1 đang trong quá trình thi công.

“Vo tran quy hoachNgười dân đổ xô xuống sông Gâm bắt cá ngay trước cửa xả nhà máy thủy điện Bảo Lâm 1. (Ảnh: Hùng Võ/Vietnam+)


Phớt lờ quy định dòng chảy tối thiểu

Hà Giang vốn được biết đến là vùng cao nguyên hùng vĩ, với những dòng sông uốn lượn chẳng khác gì những “con rồng xanh” luồn qua vực thẳm. Sông cứ thế chảy miết đến tận cùng, nhưng bây giờ nhiều con sông đã bị “thắt cổ,” và bị ngăn thành những hồ đập, nằm im lìm bất động.

Một ví dụ điển hình như tại huyện Vị Xuyên, theo quy hoạch có 17 dự án thủy điện, hiện 7 dự án đã phát điện, 3 dự án đang thi công. Trong đó, riêng dòng sông Miện có tới 6 thủy điện (4 thủy điện đã vận hành, 2 dự án đang thi công). Thực trạng này đã làm biến dạng dòng chảy, dòng sông bị ngăn thành những hồ đập khổng lồ, trong khi phía dưới lúc nào cũng ở trong tình trạng “đói” nước.

Nếu di chuyển từ thành phố Hà Giang, chúng ta sẽ đến thủy điện Sông Miện 5A đầu tiên, đây là thủy điện nhỏ với công suất lắp máy 5MW. Thủy điện này đã phát điện từ năm 2015, nhưng đến nay vẫn chưa có giấy phép khai thác sử dụng nước mặt. Ngoài ra, thủy điện này cũng chưa bảo đảm duy trì dòng chảy tối thiểu theo quy định, song vẫn không bị cơ quan chức năng xem xét xử lý.

Ghi nhận của phóng viên cho thấy, đập dâng của thủy điện Sông Miện 5A cách thân đập của thủy điện Sông Miện 5 (hai thủy điện cùng chủ đầu tư) chỉ một cánh đồng. Tại khu vực này, sông bị ngăn lại thành hồ đập khổng lồ, đầy ắp nước. Trong khi, phía thượng nguồn dòng sông Miện 5A cũng bị ngăn đập làm thủy điện khiến dòng sông này gần như không chảy.

Theo quy định của Nghị định 112/2008/NĐ-CP thì các công trình khai thác sử dụng nước như hồ chứa, đập dâng thủy lợi thủy điện khi tích và điều tiết nước đều phải xả trả lại sông lượng dòng chảy tối thiểu để bảo đảm nước cho hệ sinh thái, duy trì môi trường sống và bảo đảm nhu cầu nước cho sử dụng ở đoạn sông hạ lưu.

Vậy nhưng, sáng ngày 26/4/2017 có mặt tại nhà máy thủy điện Sông Miện 5A, chúng tôi phát hiện nhà máy này không xả nước duy trì dòng chảy tối thiểu. Các cửa xả của nhà máy đóng kín đã khiến hạ lưu sông Miện bị cạn trơ đáy. Nhiều người dân thấy sông cạn đã xuống mò ốc, bắt cá ngay trước cửa xả của thủy điện này.

Trao đổi với phóng viên VietnamPlus vào ngày 27/4/2017, ông Nguyễn Văn Sơn, Chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh Hà Giang thừa nhận, có việc một số thủy điện, như thủy điện sông Miện 5A tích nước không bảo đảm dòng chảy để tăng lợi ích khi sản xuất điện. Và, lỗi này là do phía doanh nghiệp.

“Trong việc này, địa phương quản lý quy trình vận hành của các Nhà máy cũng rất khó vì không phải lúc nào các cơ quan chức năng cũng có thể tổ chức kiểm tra được. Mặt khác, các thủy điện thường ở các khu vực xa, hẻo lánh cũng khó cho công tác kiểm tra xử lý,” ông Sơn chia sẻ.

Thủy điện phớt lờ dòng chảy tối thiểu, đe dọa tính mạng người dân. (Video: Hùng Võ/Vietnam+)

Cùng chung cảnh quá tải thủy điện, tại sông Gâm, tỉnh Cao Bằng theo kế hoạch cũng phải “cõng” 6 thủy điện. Hiện một số thủy điện đã đi vào vận hành như thủy điện Bảo Lâm 1 với công suất lắp máy 30MW. Tuy nhiên, trong quá trình vận hành, thủy điện này cũng không duy trì dòng chảy tối thiểu như quy định.

Theo ghi nhận của phóng viên, vào khoảng 13 giờ 30 phút trưa 23/4/2017, sông Gâm đoạn qua xã Lý Bôn, huyện Bảo Lâm đã bị cạn trơ đáy. Hàng trăm người dân lao xuống đánh bắt cá ngay phía dưới nhà máy, họ bắt cá giữa dòng sông Gâm mà như bắt cá trong ao nhà mình, người quăng chài, kẻ thả lưới.

Một số người dân địa phương cho biết, hàng ngày, vào khoảng 10 giờ sáng hoặc 12 giờ trưa là thủy điện tích nước cho đến khoảng 14 giờ hoặc 16 giờ chiều là thủy điện xả nước. Do đã nắm được thời gian đóng xả của thủy điện nhiều người ăn nằm luôn dưới gầm cầu Lý Bôn để đánh bắt cá.

Nghe xong câu chuyện, chúng tôi vào gần khu vực nhà máy thủy điện Bảo Lâm 1, do là thời gian thủy điện tích nước nên dòng chảy phía hạ du đã bị cạn kiệt, tất cả các cửa xả của nhà máy đóng kín, một số người dân liều lĩnh vào rất gần cửa xả để bắt cá.

Ngay sau khi tiếp cận và quay phim sự việc, khoảng 14 giờ 30 ngày 23/4 chúng tôi đã liên hệ với Ban lãnh đạo thủy điện Bảo Lâm 1 qua điện thoại nhưng không ai nghe máy. Phải đến khi chúng tôi báo cáo câu chuyện với lãnh đạo Sở Công Thương thì Ban quản lý thủy điện Bảo Lâm 1 mới liên lạc lại và hẹn làm việc lúc 13 giờ chiều ngày 24/4.

Trước thời điểm vào làm việc khoảng 15 phút, chúng tôi có mặt tại khu vực nhà máy thủy điện Bảo Lâm 1, nhưng điều bất thường là thủy điện này lại xả nước với lưu lượng khá lớn, bất chấp việc phía hạ du người dân vẫn đang đánh bắt cá, lượng nước chảy về gây nguy hiểm đến tính mạng của nhiều người.

Tại buổi làm việc với ông Vũ Văn Long, Quản đốc nhà máy thủy điện Bảo Lâm 1, ông Long cho biết: “Về nguyên tắc, nhà máy tuân thủ theo điều kiện phối hợp vận hành, điều tiết ngày đêm, nếu có nước thì đề nghị xin phát, nhưng mình phải xả dần để tránh sạt lở. Theo quy định nếu không phát điện mình phai xả đúng lưu lượng.”

Giải thích về dòng sông “chết” bất thường ngày 23 và 24/4, ông Long cho hay, Nhà máy phát điện 9 giờ, tầm 11 đến 12 giờ trưa, do bên chuyên gia Trung Quốc nói cửa van không điều khiển từ xa được nên đóng lại để sửa. Hoặc hôm nào đó mới phát điện xong, lưu lượng nước phía hạ du lớn nên nhà máy không thể xả thêm được…

Trong khi đó, nhìn nhận từ góc độ địa phương, ông Vũ Ngọc Lưu, Chủ tịch Ủy ban Nhân dân huyện Bảo Lâm cho biết: “Việc tích, xả nước của thủy điện rất phức tạp. Trước đây từng có lúc nhà máy tích nước đóng kín, nước không chảy về phía hạ du, bà con phản ánh sông cạn nước đã hơn 45 phút, tôi buộc phải gọi điện cho lãnh đạo nhà máy xả nước.”

Ông Lưu cho biết thêm, thủy điện Bảo Lâm 1 khi đóng xả nước còn gây sạt lở bờ sông, một số hộ dân vẫn chưa được đền bù. Ngoài ra, việc tích nước đã làm nứt hai đầu cầu treo đường đi xã Đức Hạnh và cầu Km22 và nguy cơ sạt lở 200m đường giao thông nông thôn và dọc quốc lộ 4C. Tuy nhiên, việc này doanh nghiệp vẫn chưa triển khai./.

Hùng Võ (Vietnam+)
***
Bài 2: Thủy điện chồng lấn mốc giới, gây tranh chấp gần 10 năm
Việc quy hoạch phát triển thủy điện như nấm mọc sau mưa đã gây phát sinh nhiều hệ lụy ảnh hưởng đến môi trường, tranh chấp mực nước và hành lang bảo vệ giữa các thủy điện trong gần chục năm.
Hùng Võ (Vietnam+) 
Bai 2: Thuy dien chong lan moc gioi, gay tranh chap gan 10 nam hinh anh 1Tranh chấp nguồn nước giữa thủy điện Sông Miện 5 và thủy điện Thuận Hòa. (Ảnh: Hùng Võ/Vietnam+)

Không chỉ quy hoạch phát triển tràn lan thủy điện nhỏ, việc lập, thẩm định, phê duyệt và triển khai một số dự án thủy điện tại nhiều tỉnh phía Bắc cũng còn thiếu khả thi, gây phát sinh nhiều hệ lụy, ảnh hưởng đến môi trường, an ninh nguồn nước và tính mạng của người dân.

Hệ lụy từ việc quy hoạch ồ ạt trên là tình trạng tranh chấp mức nước và hành lang bảo vệ giữa các nhà máy thủy điện kéo dài suốt gần chục năm trời, nhưng đến nay vẫn chưa được giải quyết ổn thỏa, khiến nhiều đoạn sông dường như bị “chết” do thủy điện “uống” cạn nước.

Tự ý dâng nước, gây chết người

Xưa nay, việc các nhà máy thủy điện xây dựng trên cùng một dòng sông, “uống” chung dòng nước là lẽ thường tình. Vậy nhưng, gần đây, một chuyện không hay đã xảy ra, cuốn hai doanh nghiệp lớn về thủy điện ở Hà Giang vào “tâm bão,” gây nhiều tranh cãi trong suốt nhiều năm qua.

Đó là việc tranh chấp mực nước, sử dụng hành lang bảo​ vệ giữa ​Công ty Cổ phần Thủy điện Thuận Hòa (chủ đầu tư Nhà máy thủy điện Thuận Hòa) và Công ty Cổ phần Thủy điện Sông Miện 5 (chủ đầu tư Nhà máy thủy điện Sông Miện 5). Đây là hai thủy điện cùng “mọc” trên sông Miện (phụ lưu của sông Lô).

Trong một văn bản gửi lãnh đạo Ủy ban Nhân dân tỉnh Hà Giang, Công ty Cổ phần Thủy điện Thuận Hòa đã “tố” thủy điện Sông Miện 5 không tuân thủ mực nước dâng bình thường theo quy hoạch. Đại diện Công ty Cổ phần Thủy điện Thuận Hòa cho biết, dự án này được Ủy ban Nhân dân tỉnh Hà Giang phê duyệt quy hoạch bổ sung ngày 31/1/2013 với công suất thiết kế 38MW.

Theo quyết định phê duyệt này, mực nước hạ lưu Nhà máy thủy điện Thuận Hòa là 154,5m/157,5m. Còn mực nước dâng bình thường của Nhà máy thủy điện Sông Miện 5 là 155m. Với các thông số mực nước dâng bình thường của hai dự án, nếu các bên tuân thủ đúng sẽ khai thác hài hòa, tối ưu thủy năng trên dòng sông, không ảnh hưởng đến nhau.

Tuy nhiên, ​​Nhà máy thủy điện Sông Miện 5 đã tự ý dâng nước tại lòng hồ thủy điện lên 157-158m khiến mực nước dâng bình thường tại hạ lưu Nhà máy thủy điện Thuận Hòa lên mức 162-163m.

Trong khi đó, đại diện Công ty Cổ phần Thủy điện Sông Miện 5 cho rằng ​Công ty Cổ phần Thủy điện Thuận Hòa và Sở Công Thương tỉnh Hà Giang đã lập, thẩm định, chấp thuận, phê duyệt, đầu tư tăng quy mô, công suất nhà máy lên gấp 3 lần khi chưa được Bộ Công Thương chấp thuận, gây chồng lấn, ảnh hưởng nghiêm trọng đến các dự án xung quanh.

Cũng theo lập luận của Công ty Cổ phần Thủy điện Sông Miện 5, thì dự án thủy điện Thuận Hòa có công suất 13,5MW theo văn bản thẩm định 255/CV-NLDK ngày 14/1/2005 của Bộ Công Thương, Quyết định phê duyệt số 216/QĐ-UB ngày 19/1/2005 của Ủy ban Nhân dân tỉnh Hà Giang.

Đến năm 2011, ​Công ty Cổ phần Thủy điện Thuận Hòa và Sở Công Thương tỉnh Hà Giang trình hồ sơ đề nghị điều chỉnh tăng công suất. Sau đó, Bộ Công Thương yêu cầu phải kiểm tra sự phù hợp của dự án với quy hoạch các dự án thủy điện khác và mỏ sắt Tùng Bá đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt; cần cập nhật các mực nước thiết kế hồ chứa thủy điện Sông Miện 5 phía dưới hạ lưu đang vận hành… Tuy nhiên, Sở Công Thương đã thẩm định, chấp thuận toàn bộ hồ sơ thiết kế của chủ đầu tư, điều chỉnh tăng công suất lên 38MW.

[Bài 1: Tỉnh nghèo cuốn theo “cơn lốc” phát triển thủy điện nhỏ]

Theo nội dung Quyết định số 976/QĐ-UBND ngày 2/6/2015 của Ủy ban Nhân dân tỉnh Hà Giang, Nhà máy thủy điện Sông Miện 5 có cao trình mực nước dâng bình thường là 155m, cao trình mực nước dềnh 159,8m. Ranh giới hành lang bảo vệ lòng hồ được duyệt theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp năm 2010 là 163m.

Tuy nhiên, trong quá trình tranh chấp, Nhà máy thủy điện Sông Miện 5 chưa tiến hành cắm mốc, căng dây mốc ranh giới hành lang bảo vệ lòng hồ. Thực tế này dẫn đến việc Nhà máy thủy điện Thuận Hòa khi khảo sát, điều chỉnh thiết kế lên 38MW đã chồng lên vùng lòng hồ thủy điện Sông Miện 5, gây ô nhiễm môi trường và gây tai nạn nghiêm trọng làm ba người chết.

Để giải quyết việc tranh chấp mực nước và hành lang bảo vệ hồ giữa Công ty Cổ phần Thủy điện Thuận Hòa và ​Công ty Cổ phần Thủy điện Sông Miện 5, từ năm 2014 đến nay, lãnh đạo Ủy ban Nhân dân tỉnh Hà Giang đã nhiều lần đứng ra làm “trọng tài” hòa giải, nhưng việc tranh chấp vẫn chưa được xử lý triệt để.

Trao đổi với phóng viên về việc giải quyết tranh chấp trên, ông Nguyễn Văn Sơn, Chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh Hà Giang cho biết: Xảy việc khiếu kiện giữa hai công ty trên là do quá trình đầu tư xây dựng đã có tác động đến môi trường, dự án chưa tuân thủ nghiêm túc quy trình vận hành hồ chứa đã được Bộ Công Thương phê duyệt.

Trước thực trạng ​này, ngày 3/8/2015, tại Tỉnh ủy Hà Giang, đồng chí Triệu Tài Vinh, Bí thư Tỉnh ủy cùng Thường trực Ủy ban Nhân dân tỉnh đã có buổi làm việc với lãnh đạo của hai công ty. Qua đó, hai bên thỏa thuận duy trì mực nước dâng bình thường (mực nước vận hành) của Nhà máy thủy điện Sông Miện 5 (bậc dưới) ở mức 158m, mực nước dềnh là 161m.

Vậy nhưng, tại buổi làm việc với phóng viên VietnamPlus vào ngày 26/4/2017, ông Nguyễn Thanh Hải, đại diện Công ty Cổ phần thủy điện Thuận Hòa khẳng định, các nội dung liên quan đến việc tranh chấp vẫn chưa đi tới “hồi kết.” Lý do là mực nước dâng tại khu vực lòng hồ thủy điện Sông Miện 5 vẫn cao hơn so với thiết kế cơ sở được phê duyệt hơn 6m; gây khó khăn cho việc thi công Nhà máy thủy điện Thuận Hòa.

“Theo kế hoạch, đến đầu tháng 4/2017 sẽ hoàn thành việc thi công nhà máy, nhưng do tranh chấp nên cơ quan chức năng đã gia hạn thêm sáu tháng. Hiện tại, bậc dưới (khu vực lòng hồ thủy điện Sông Miện 5) đang tích nước cao hơn so phê duyệt. Việc tự ý tích nước, xây cao trình đập lên cao không đúng thiết kế, sai trắng trợn nhưng đến nay vẫn tồn tại,” ông Hải nói.

Trước băn khoăn của phóng viên về kết quả giải quyết tranh chấp, ông Nguyễn Văn Sơn, Chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh Hà Giang khẳng định, trong việc giải quyết tranh chấp, khiếu kiện giữa các chủ đầu tư Nhà máy thủy điện Thuận Hòa và Sông Miện 5, tỉnh cũng… rất đau đầu.

“Để giải quyết việc này, mới đây, tôi đã trực tiếp giao đồng chí Hạnh (Phó Chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh Hà Giang) đi vào kiểm tra, nhưng khi kiểm tra Nhà máy thủy điện Sông Miện 5 lại tích nước đảm bảo mực nước dâng. Thế nhưng, khi đoàn kiểm tra rút lui, mực nước lại được tích cao hơn. Đây cũng là vì lợi ích của doanh nghiệp,” ông Sơn nói.

Bai 2: Thuy dien chong lan moc gioi, gay tranh chap gan 10 nam hinh anh 2Nhà máy thủy điện Tiên Thành xây dựng trên sông Bằng Giang, tỉnh Cao Bằng. (Ảnh: Hùng Võ/Vietnam+)


“Đổi” 10 năm tranh chấp lấy… 3,7 tỷ đồng

Cùng tham vọng làm giàu từ thủy điện, ngay từ năm 2006, tỉnh Cao Bằng đã có chủ trương xây dựng Nhà máy thủy điện Hòa Thuận (huyện Nguyên Bình) thiết kế với công suất 20 MW và Thủy điện Tiên Thành (huyện Quảng Uyên) với công suất 15 MW, nhằm phát huy tiềm năng tự nhiên và thế mạnh của tỉnh trên sông Bằng Giang.

Tuy nhiên, do tranh chấp nguồn nước trong quá trình thi công, nên hai thuỷ điện này đã phải “dậm chân tại chỗ,” để giải quyết vướng mắc. Nguyên nhân của việc này là, khi xây dựng Nhà máy thủy điện Hòa Thuận và đưa vào vận hành, mực nước dâng của hồ thủy điện này sẽ ngập lên thân đập cũng như Nhà máy thủy điện Tiên Thành.

Để giải quyết sự việc trên, ngày 4/12/2012, Bộ Công Thương có Văn bản số 11687/BCT-TCNL gửi Ủy ban Nhân dân tỉnh Cao Bằng với nội dung điều chỉnh quy hoạch dự án thủy điện Hòa Thuận và yêu cầu nghiêm túc thực hiện triệt để ý kiến chỉ đạo cũng như kiên quyết yêu cầu chủ đầu tư dự án thực hiện đúng nội dung đã cam kết và sớm điều chỉnh quy hoạch các dự án.

Trên cơ sở đó, hai bên đã đi đến thống nhất là Nhà máy thủy điện Hòa Thuận chấp thuận hạ mực nước dâng xuống 3m so thiết kế ban đầu và giảm công suất phát điện từ 20 MW xuống 17,4 MW (đã được Bộ Công Thương phê duyệt) và chủ đầu tư Nhà máy thủy điện Tiên Thành chi trả cho thủy điện Hòa Thuận… 3,7 tỷ đồng tiền bồi thường.

Từ đó đến nay, sau rất nhiều cuộc họp, gặp gỡ giữa các doanh nghiệp do Ủy ban Nhân dân tỉnh Cao Bằng tổ chức, hai thủy điện đã thi công trở lại. Ghi nhận của phóng viên vào những ngày cuối tháng 4/2017 cho thấy, cả hai công trình thủy điện Tiên Thành và Hòa Thuận đều đang gấp rút thi công và dự kiến phát điện vào năm 2018.

[Hệ thống điện quốc gia bước vào giai đoạn vận hành khó khăn]

Tuy nhiên, khi được hỏi về quy trình xây dựng, đại diện Công ty cổ phần sông Đà 7.09 (chủ đầu tư thủy điện Tiên Thành) cho hay do mới mua công trình thủy điện này từ chủ đầu tư cũ nên vẫn thiếu một số giấy tờ theo quy định, đặc biệt Báo cáo đánh giá tác động môi trường vẫn đang trong quá trình thực hiện.

Đáng chú ý là trước đó, Ủy ban Nhân dân tỉnh Cao Bằng đã thành lập đoàn thanh tra đối với hai dự án và kết luận thanh tra tại Văn bản số 337/KL-UBND ngày 12/2/2015 cho thấy: Dự án thủy điện Hòa Thuận vi phạm 14 sai phạm và dự án thủy điện Tiên Thánh 19 sai phạm, trách nhiệm này trước hết thuộc về hai chủ đầu tư.

Đặc biệt, kết luận thanh tra nhấn mạnh việc để xảy ra tình trạng xây dựng dự án nhưng chưa được cấp phép trên địa bàn huyện thì Ủy ban Nhân dân hai huyện có dự án (là Quảng Uyên và Phục Hòa) phải chịu trách nhiệm; việc dự án thủy điện Tiên Thành chưa làm các thủ tục thu hồi đất, giao đất xây dựng công trình nhưng đã triển khai xây dựng, chưa có Báo cáo đánh giá tác động môi trường, trách nhiệm thuộc về chủ đầu tư và Ủy ban Nhân dân cấp huyện.

Mặt khác, Kết luận thanh tra cũng nêu rõ các thông số của dự án chưa phù hợp với quy hoạch như công suất, mực nước dâng bình thường nhưng vẫn cấp giấy chứng nhận đầu tư, thẩm định thiết kế cơ sở, không thực hiện thẩm tra đầu tư đối với dự án thủy điện Tiên Thành, trách nhiệm thuộc về Sở Kế hoạch và Đầu tư và Sở Công Thương../.

Sau một thập kỷ trải thảm đỏ thu hút đầu tư phát triển thủy điện vừa và nhỏ, giờ đây, phần lớn dự án thủy điện nhỏ tại hai tỉnh Hà Giang, Cao Bằng vẫn nằm trên giấy. Hàng loạt dự án khác đã được thi công thì chậm tiến độ, phải tạm dừng xây dựng. Thậm chí, có những dự án được đầu tư hàng trăm tỷ đồng nhưng nhiều năm nay vẫn đang bỏ hoang vì chủ đầu tư có năng lực thuộc loại yếu kém.

Bài 3: Ngổn ngang công trình ánh sáng chậm tiến độ, bỏ hoang giữa rừng

 

Hùng Võ (Vietnam+)
***

Bài 3: Ngổn ngang công trình ánh sáng chậm tiến độ, bỏ hoang giữa rừng

Sau nhiều năm trải thảm đỏ thu hút đầu tư, nhiều dự án thủy điện tại hai tỉnh Hà Giang, Cao Bằng vẫn chỉ nằm trên giấy, thậm chí có dự án được đầu tư hàng trăm tỷ đồng nhưng đến nay vẫn bỏ hoang.
Hùng Võ (Vietnam+)  
Bai 3: Ngon ngang cong trinh anh sang cham tien do, bo hoang giua rung hinh anh 1Nhà máy thủy điện Tiên Thành xây dựng trên dòng sông Bằng Giang, tỉnh Cao Bằng. (Ảnh: Hùng Võ/Vietnam+)

Sau một thập kỷ trải thảm đỏ thu hút đầu tư phát triển thủy điện vừa và nhỏ, giờ đây, phần lớn dự án thủy điện tại hai tỉnh Hà Giang, Cao Bằng vẫn nằm trên giấy. Hàng loạt dự án khác đã được thi công thì chậm tiến độ, phải tạm dừng xây dựng. Thậm chí, có những dự án được đầu tư hàng trăm tỷ đồng nhưng nhiều năm nay vẫn đang bỏ hoang vì chủ đầu tư có năng lực thuộc loại yếu kém.

Chậm vì năng lực yếu kém

Trong quá trình tìm hiểu về việc quy hoạch phát triển trên địa bàn tỉnh Hà Giang, phóng viên VietnamPlus được biết, ngoài 16 thủy điện đã đi vào vận hành, tại địa phương này hiện có 12 dự án đang và sắp thi công xây dựng với tổng công suất lắp máy là 300,7MW; trong đó 7 dự án dự kiến sẽ phát điện trong năm 2017.

Tuy nhiên, một số dự án hiện nay trên thực tế đang chậm tiến độ so giấy chứng nhận đầu tư gần 10 năm, do bị gặp vướng mắc ​trong giải phóng mặt bằng; việc cung cấp vật tư, vật liệu máy móc thiết bị chưa kịp thời do chủ đầu tư phải nhập từ nước ngoài (Trung Quốc); hay có dự án đang phải điều chỉnh quy hoạch.

Một ví dụ điển hình là thủy điện Bản Kiếng công suất 3,6MW (chủ đầu tư là Công ty Cổ phần Đầu tư xây dựng nông lâm Tôn Thọ). Dự án này được khởi công từ năm 2006, tại địa phận xã Tùng Bá, huyện Vị Xuyên. Hiện dự án này đang phải tạm dừng thi công.

Thông tin về việc dự án thủy điện này, ông Nguyễn Văn Sơn, Chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh Hà Giang cho biết, công trình Nhà máy thủy điện Bản Kiếng hiện đang xây dựng dở dang một số hạng mục như: nâng cấp mở mái đường lên hồ đập thủy điện dài khoảng 5km nay đã xuống cấp không sử dụng được; kênh dẫn nước thải nhà máy; công tác đền bù giải phóng mặt bằng…

[“Vỡ trận quy hoạch” thủy điện nhỏ ở các tỉnh miền núi phía Bắc]

Ngoài ra, các hạng mục công trình chính của dự án như đập bêtông trọng lực, đường ống áp lực và nhà máy cơ bản cũng chưa được thi công xây dựng. Toàn bộ các hoạt động thi công xây dựng của dự án thủy điện Bản Kiếng đã bị dừng thi công từ đầu năm 2008 đến nay.

Theo ông Sơn, nguyên nhân khiến dự án thủy điện Bản Kiếng phải dừng hoạt động là do Công ty Cổ phần Đầu tư xây dựng nông lâm Tôn Thọ không có khả năng bố trí được vốn nên dự án dừng thực hiện đầu tư. Ngoài ra, nội bộ của Công ty này cũng không có sự đoàn kết nhất trí, dẫn đến hiện tượng khiếu kiện lẫn nhau giữa các cổ đông.

Đến tháng 7/2016, Công ty Cổ phần Đầu tư xây dựng nông lâm Tôn Thọ kiện toàn lại bộ máy để tiếp tục triển khai dự án. Tuy nhiên, ngày 10/4/2017, Ủy ban Nhân dân tỉnh Hà Giang đã yêu cầu Công ty Cổ phần Đầu tư xây dựng nông lâm Tôn Thọ tạm dừng mọi hoạt động tập kết vật tư, vật liệu xây dựng, dừng thi công công trình để giải quyết dứt điểm việc thanh toán cho các nhà thầu và hoàn thiện các thủ tục theo quy định của luật đầu tư, luật bảo vệ môi trường…

Công trình ánh sáng hàng trăm tỷ đồng bỏ hoang giữa rừng. (Video: Hùng Võ/Vietnam+)

Dù không có tiềm năng về phát triển thủy điện so với tỉnh Hà Giang, nhưng thời gian qua, Cao Bằng cũng được biết đến như một điểm “nóng” về phát triển thủy điện. Tuy nhiên, bức tranh thủy điện nơi đây được vá víu bởi không ít mảng tối với những công trình chậm tiến độ do lỗi quy hoạch, cấp phép; thi công dang dở, ảnh hưởng không nhỏ đến hệ sinh thái và cuộc sống người dân.

Theo Quy hoạch thủy điện nhỏ của Ủy ban Nhân dân tỉnh Cao Bằng đã được phê duyệt tại Quyết định số 2320/QĐ-UBND ngày 16/11/2007, toàn tỉnh có 24 dự án với tổng công suất 120 MW; các dự án được Bộ Công Thương phê duyệt bổ sung điều chỉnh gồm 10 dự án với tổng công suất hơn 206 MW. Hiện nay Sở Công Thương đã đề nghị tỉnh loại 11 dự án ra khỏi quy hoạch.

Còn những thủy điện dù đã được cấp giấy chứng nhận đầu tư và đi vào thi công xây dựng từ hơn 10 năm về trước thì nay vẫn đang chậm tiến độ, thậm chí bỏ hoang, gây thất thoát lớn đến nguồn thu của tỉnh Cao Bằng, ảnh hưởng đến đời sống sinh hoạt của bà con nơi thực hiện dự án.

Đơn cử như Nhà máy thủy điện Tiên Thành (15MW) do Công ty Cổ phần Năng lượng Cao Bằng làm chủ đầu tư, được triển khai từ năm 2008, nhưng đến tháng 5/2010 đã tạm dừng thi công. Đây là bậc thang giữa trong 3 bậc thang (3 thủy điện) được xây dựng trên sông Bằng Giang.

Điều đáng nói là, trong quá trình thi công, chủ đầu tư dự án thủy điện Tiên Thành đã xây dựng công trình khi chưa có quyết định thu hồi đất, chuyển đổi mục đích sử dụng đất, chưa có phương án đền bù giải phóng mặt bằng; chưa lập và phê duyệt phương án cắm mốc giới xác định hành lang bảo vệ hồ chứa và vùng phụ cận…

Sau nhiều năm thi công kiểu“rùa bò,”gần đây, dự án thủy điện Tiên Thành được “bán” lại cho Công ty Cổ phần sông Đà 7.09. Từ cuối năm 2016, dự án này tiếp tục được thi công trở lại, nhưng hiện giờ vẫn chưa có đầy đủ các giấy tờ liên quan như báo cáo đánh giá tác động môi trường.

Lý giải về việc chậm tiến độ trên, đại diện chủ đầu tư dự án thủy điện Tiên Thành cho biết, do mới mua công trình thủy điện này từ chủ đầu tư khác nên hiện nay công trình dù đang xây dựng nhưng vẫn thiếu một số giấy tờ theo quy định, đặc biệt là báo cáo đánh giá tác động môi trường đang trong quá trình thực hiện.

Tương tự, Nhà máy thủy điện Hòa Thuận (20MW) cùng xây dựng trên sông Bằng Giang, do Công ty Cổ phần Thủy điện Hòa Thuận làm chủ đầu tư, được triển khai từ tháng 6/2006. Theo tiến độ, dự án sẽ hoàn thành và đưa vào sử dụng từ tháng 10/2009, nhưng đến tháng 3/2009 đã phải dừng thi công do xảy ra tranh chấp mực nước với dự án Nhà máy thủy điện Tiên Thành. Đến nay, sau hơn 10 năm “ra đời,” dự án vẫn chưa xây dựng xong.

Tại buổi làm việc với phóng viên VietnamPlus vào ngày 22/4/2017, ông Nguyễn Ngọc Tuấn, đại diện Công ty Cổ phần Thủy điện Hòa Thuận thừa nhận: “Hiện tiến độ xây dựng của nhà máy mới đạt 30%. Trong quá trình triển khai, công trình có làm ảnh hưởng đến hơn 120 hộ dân, trong đó 2 hộ dân phản di dời khỏi lòng hồ, diện tích đất nhường cho thủy điện là hơn 100ha (bao gồm đất rừng và lòng sông, suối).”

Bai 3: Ngon ngang cong trinh anh sang cham tien do, bo hoang giua rung hinh anh 2Nhà máy thủy điện Hoa Thám đang bỏ hoang tại tỉnh Cao Bằng. (Ảnh: Hùng Võ/Vietnam+)

Công trình hàng trăm tỷ bỏ hoang

Oái oăm nhất là dự án thủy điện Hoa Thám (5,8MW) tại huyện Nguyên Bình. Dự án này do Công ty Đầu tư và phát triển Năng lượng Đông Bắc làm chủ đầu tư, triển khai từ năm 2007 và tạm dừng thi công từ tháng 11/2011, do chủ đầu tư thiếu vốn. Từ năm 2004 đến nay, Công ty này đã thay đổi 8 lần giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh và nhiều lần thay đổi lãnh đạo, giám đốc…

Trước sự trì trệ của dự án, đầu năm 2015, Ủy ban Nhân dân tỉnh Cao Bằng đã thành lập đoàn kiểm tra, qua đó phát hiện 26 sai phạm. Trong đó, có sai phạm thuộc diện cấm hoạt động xây dựng là chưa được cấp phép xây dựng, xây dựng chưa đúng quy hoạch theo quy định của Luật xây dựng.

Kết luận thanh tra số 2435/KT-UBND ngày 3/9/2015 của Ủy ban Nhân dân tỉnh Cao Bằng nêu rõ: “Đây là lỗi do chủ quan nhà đầu tư, xuất phát từ năng lực yếu kém; còn có sự thiếu sót của công tác quản lý Nhà nước đối với dự án. Bên cạnh đó, việc lập khối lượng các hạng mục công trình thiếu bảng tiên lượng gây khó khăn cho công tác quản lý, kiểm tra, giám sát chất lượng.”

“Đặc biệt, việc thanh toán giải ngân giữa chủ đầu tư với Ngân hàng phát triển Cao Bằng chưa thống nhất về khối lượng thanh toán; thanh toán còn nhiều sai sót, có khối lượng chưa thực hiện nhưng đã nghiệm thu thanh toán. Trách nhiệm này thuộc về chủ đầu tư và Ngân hàng phát triển Cao Bằng…,” kết luận chỉ ra.

Ghi nhận của chúng tôi vào cuối tháng 4/2017 cho thấy, nhiều hạng mục của Nhà máy thủy điện Hoa Thám vẫn còn đang dở dang như đập bờ trái, đập bờ phải, đập tràn, cửa lấy nước,… Việc công trình bị bỏ hoang nhiều năm cũng đã khiến các thanh thép đã bị han gỉ, một số chỗ đã xảy ra có hiện tượng sụt lún, đất đá tràn xuống sông.

Theo phản ánh của người dân thì từ khi triển khai dự án, nhân dân đã chấp hành việc kiểm định áp giá đền bù đồng thời không sản xuất. Tuy nhiên, xã Hoa Thám là xã nghèo, đa số người dân là đồng bào dân tộc thiểu số sống dựa vào trồng rừng và sản xuất hoa màu, chăn nuôi nên sau khi bị thu hồi đất để thực hiện dự án, nhân dân không còn đất sản xuất nữa khiến cuộc sống khó khăn hơn.

“Khu vực dự kiến ngăn đập để phát điện trước đây có rất nhiều người khai thác vàng trái phép, sau này mới thấy thủy điện xuất hiện, nhưng họ xây ào ào được một thời gian ngắn rồi bỏ hoang 3-4 năm nay. Giờ ở đây chỉ có 2 người bảo vệ thôi,” bà Chu Thị Nãi, người dân xã Hoa Thám thông tin thêm.

[Bài 2: Thủy điện chồng lấn mốc giới, gây tranh chấp gần 10 năm]

Trao đổi với phóng viên VietnamPlus, ông Nguyễn Đặng, Giám đốc Sở Công Thương tỉnh Cao Bằng cho biết, dự án thủy điện Hoa Thám dừng thi công từ năm 2011. Từ đó đến nay, công trình “dậm chân tại chỗ,“ không tiếp tục thi công nữa. Theo ông Đặng, nguyên nhân dẫn đến tình trạng dự án chậm tiến độ là một phần cũng là do thiếu vốn.

“Vừa qua, Sở cũng cho rà soát lại xem chủ đầu tư mới có làm được không, nếu không làm được sẽ cho thu hồi dự án. Tuy nhiên, việc thu hồi lại hết sức khó khăn do số tiền nhà đầu tư bỏ ra rất nhiều, nếu thu hồi ai sẽ giải quyết số tiền đó, trong khi 70% số tiền đầu tư xây dựng thủy điện Hoa Thám là nhà đầu tư vay của quỹ Ngân hàng phát triển – VDB,” ông Đặng phân vân.

Còn theo ông Hoàng Xuân Ánh – Chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh Cao Bằng, dự án thủy điện Hoa Thám “dậm chân tại chỗ” là do nhà đầu tư cũ không có năng lực triển khai tiếp nên đã bán lại cho chủ mới, và chủ mới cam kết thực hiện nhưng giờ vẫn chưa thi công.

“Lý do là, họ (chủ đầu tư) viện lý do chỗ xây dựng thủy điện giao thông đi lại khó khăn, giá thành cao, đề nghị được khai thác cát sỏi tại chỗ kết hợp nạo vét lòng hồ để phục vụ cho công trình. Tuy nhiên việc này cần phải xem xét, vì khu vực đó trước tập trung khai thác khoáng sản, cụ thể là khai thác vàng và tỉnh đã cấm.”

“Hơn nữa, đây lại là khu vực đầu nguồn sông Bằng, sông Hiến, nên khai thác sẽ ảnh hưởng đến môi trường và nguồn nước của người dân. Vì thế, nếu có cho phép đơn vị này khai thác thì tỉnh sẽ phải giám sát rất chặt. Tỉnh cũng sẽ có chuyên đề riêng làm việc với Hoa Thám, nếu chủ đầu tư không cam kết xây dựng, tỉnh sẽ thu hồi,” ông Ánh nói./.

“Lạm phát” từ các dự án thủy điện đã và đang dần “giết chết” những con sông vốn là nguồn sinh kế của người dân miền núi. Thậm chí, có thủy điện ở còn “hút kiệt” nguồn nước nội đồng, chậm đền bù thiệt hại, chây ì phí chi trả dịch vụ môi trường rừng, và gây ảnh hưởng đến du lịch…

Bài 4: “Lạm phát” thủy điện: Lợi ích nhỏ, chỉ thấy ảnh hưởng đến dân

Hùng Võ (Vietnam+)
***

Bài 4: “Lạm phát” thủy điện: Lợi ích nhỏ, thiệt hại lớn

“Lạm phát” từ các dự án thủy điện đang dần “giết chết” những con sông vốn là nguồn sinh kế của người dân, thậm chí có thủy điện ở còn “hút kiệt” nguồn nước nội đồng, ít nhiều ảnh hưởng đến du lịch.
Hùng Võ (Vietnam+) 
Bai 4: Nhà máy thủy điện Bản Rạ, tại huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng. (Ảnh: Hùng Võ/Vietnam+)

“Lạm phát” từ các dự án thủy điện đã và đang dần “giết chết” những con sông vốn là nguồn sinh kế của người dân miền núi. Thậm chí, có thủy điện ở còn “hút kiệt” nguồn nước nội đồng, chậm đền bù thiệt hại, chây ì phí chi trả dịch vụ môi trường rừng, và gây ảnh hưởng đến du lịch…

Gây ảnh hưởng, nhưng chậm đền bù

Với bất kỳ ai thích khám phá, khi đến Cao Bằng đều tấm tắc khen Thác Bản Giốc rất đẹp, với những dòng nước chảy êm đềm tung bọt trắng xóa qua từng khe đá mọc đầy rêu xanh. Vậy nhưng, những năm gần đây, thác có lúc đã bị khô cạn, phơi mình giữa lòng “Mẹ thiên nhiên.”

Theo tìm hiểu của phóng viên VietnamPlus, từ đầu năm 2008, Công ty Cổ phần Thủy điện Đông Bắc bắt đầu thi công công trình Nhà máy thủy điện Bản Rạ, với công suất lắp máy là 18MW, tại xã Đàm Thủy, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng. Trước khi thi công, phía doanh nghiệp đã có giấy cam kết không làm ảnh hưởng đến tưới tiêu khu vực lân cận.

“Nếu bị ảnh hưởng, công ty có trách nhiệm đền bù sản lượng cho những hộ đó mỗi năm một vụ lúa với năng suất cao nhất trong vùng,” cam kết do ông Ngôn Trung Tuyến, Tổng giám đốc Công ty Cổ phần Thủy điện Đông Bắc, ký ngày 23/1/2008 nêu rõ.

Vậy nhưng, theo phản ánh của nhân dân xã Đàm Thủy, thì từ khi doanh nghiệp đầu tư xây dựng và vận hành Nhà máy từ năm 2011, cuộc sống của bà con trên địa bàn xã đã bị ảnh hượng nặng nề do thủy điện đào kênh dẫn sâu “hút” hết nước. Trong khi, hạn hán xảy ra với thời gian kéo dài hơn, thường xuyên hơn.

[Bài 1: Tỉnh nghèo cuốn theo “cơn lốc” phát triển thủy điện nhỏ]

Trong câu chuyện với phóng viên, ông Nông Đình Lai (81 tuổi) ở xóm Bản Giốc, xã Đàm Thủy cho biết: “Gia đình tôi là một trong những hộ bị ảnh hưởng không có nước sản xuất nông nghiệp và được xã xác nhận, có tên trong danh sách được đền bù thiệt hại 2012 – 2014 nhưng tới nay mới chỉ nhận được một phần tiền đền bù năm 2012.”

Cùng là “nạn nhân” của thủy điện, bà Mạc Thị Biếc, Bản Mom cho hay, từ ngày thủy điện đi vào vận hành, 80% diện tích đất nông nghiệp của gia đình bà đã không đủ nước sản xuất. Không chỉ riêng gia đình bà, xóm Bản Mom còn 11 hộ gia đình ​cũng chịu chung hoàn cảnh. Ngoài ra, nước sinh hoạt của người dân Bản Mon cũng không đủ do hoạt động của Thủy điện.

“Ngay sau khi nhận được phản ánh của người dân, chúng tôi đã báo cáo với lãnh đạo huyện, yêu cầu phía công ty đền bù cho dân và họ cũng đã có phương án dự toán đền bù cho dân giá trị thiệt hại hoa màu từ năm 2012-2014 là gần 1,3 tỷ đồng. Tuy nhiên, hiện phía công ty mới chỉ trả 444 triệu đồng cho 198 hộ dân của 6 xóm,” ông Nông Đình Trực, Phó chủ tịch Ủy ban Nhân dân xã Đàm Thủy nói.

Trước bức xúc trên, ngày 5/4/2017, người dân các xóm Lũng Phiắc, Nà Đeng-Lũng Nội, Bản Mon (xã Đàm Thủy) đã có đơn thư khiếu nại. Qua đó, Ủy ban Nhân dân tỉnh Cao Bằng đã có Văn bản số 1077/UBND-CN gửi Ủy ban Nhân dân huyện Trùng Khánh và Công ty Cổ phần Thủy điện Đông Bắc yêu cầu xử lý đơn khiếu nạị; đồng thời khắc phục thiệt hại do Nhà máy thủy điện Bản Rạ gây ra.

Theo văn bản, bà Nguyễn Bích Ngọc – Phó Chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh Cao Bằng đã yêu cầu Ủy ban Nhân dân huyện Trùng Khánh và Công ty Cổ phần Đông Bắc thống nhất phương án giải quyết đền bù thiệt hại cho bà con và báo cáo Ủy ban Nhân dân tỉnh trước ngày 18/4/2017.

Vậy nhưng, đến thời điểm cuối tháng 4/2017, khi phóng viên VietnamPlus tìm hiểu về công trình thủy điện Bản Rạ, lãnh đạo Ủy ban Nhân dân huyện Trùng Khánh, lãnh đạo Ủy ban Nhân dân xã Đàm Thủy và người dân đều khẳng định phía công ty vẫn chưa chịu đền bù cho bà con.

[Bài 2: Thủy điện chồng lấn mốc giới, gây tranh chấp gần 10 năm]

Bai 4: Ông Nông Đình Lai ở xóm Bản Giốc, xã Đàm Thủy bức xúc về việc chủ đầu tư Nhà máy thủy điện Bản Rạ chậm đền bù thiệt hại cho dân. (Ảnh: Hùng Võ/Vietnam+)

Từ góc độ chính quyền cơ sở, ông Mông Văn Lục – Chủ tịch Ủy ban Nhân dân huyện Trùng Khánh khẳng định, Nhà máy thủy điện Bản Rạ trong những năm qua có đóng góp kinh tế cho tỉnh. Tuy nhiên, khi thi công và vận hành, thủy điện này đã gây ra nhiều bức xúc về môi trường, gây ảnh hưởng đến nguồn nước tưới tiêu hoa màu của người dân.

“Ngoài ra, việc thi công Nhà máy thủy điện Bản Rạ còn phá dỡ một cây cầu dài 12m đoạn qua Bản Mon thuộc tuyến đường liên xã Đình Phong-Chí Viễn-Đàm Thủy. Đặc biệt, trong quá trình vận hành, thủy điện này có làm ‘giãn đoạn’ nguồn nước đến khu vực Thác Bản Giốc, gây ảnh hưởng đến du lịch,” ông Lục nói.

Trong khi đó, về phía doanh nghiệp, bà Trịnh Huyền Trang, Phó Tổng giám đốc Công ty Cổ phần thủy điện Đông Bắc cho rằng: “Thủy điện của chúng tôi không uống nước, không có hồ chứa. Ở đây, nước qua thủy điện rồi mới đến Thác Bản Giốc, vấn đề là nước đến sớm hay đến muộn thôi. Thế thì bây giờ chỉ có chúng tôi không phát điện nữa thì thác lúc nào cũng có nước thôi.”

Trong việc này, “nói thẳng là Chủ tịch Ủy ban Nhân dân huyện Trùng Khánh trình độ quá kém, không hiểu gì về chuyên môn, nên phát biểu vớ vẩn. Bây giờ bảo thủy điện chúng tôi hút nước, chặn nước thì chặn ở đâu? Thủy điện của chúng tôi có vòi rồng nào để hút nước không?” bà Trang nói, và khẳng định tất cả là do biến đổi khí khậu gây ảnh hưởng đến nguồn nước.

Về việc đền bù thiệt hại cho người dân, bà Trang thừa nhận, trước khi xây dựng thủy điện, lãnh đạo công ty có hứa sẽ xây dựng cho bà con 8 tuyến kênh dẫn nước, đến nay đã xây dựng được 6 tuyến, còn 2 tuyến do chưa có được sự thống nhất với bà con nên chưa xây, vật liệu đã tập kết ở nhà máy.

“Nếu được sự đồng thuận thì trong năm 2017 phía công ty sẽ đầu tư xây dựng nốt hai tuyến kênh đồng thời xây dựng lại cây cầu. Còn tiền đền bù cho bà con sẽ chi trả trong năm 2018. Lý do là, công ty đang gặp nhiều khó khăn về tài chính, các cổ đông không thống nhất, cũng như đang phải vay tiền ngân hàng nên chưa chi trả hết cho dân được,” bà Trang nói.

Thẳng thắn thừa nhận thực trạng nêu trên, ông Hoàng Xuân Ánh – Chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh Cao Bằng cho rằng, thủy điện Bản Rạ đang có vấn đề, nếu tích hết nước thì sẽ ảnh hưởng đến du lịch. Đặc biệt chủ đầu tư chưa thực hiện cam kết đầu tư một số hạ tầng ở địa phương, chưa thực hiện chi trả đền bù, hỗ trợ cho người dân. Hiện tỉnh đã giao các ngành phối hợp giải quyết nhanh các việc đang tồn đọng.

“Ngoài Nhà máy thủy điện Bản Rạ, tỉnh còn có Nhà máy thủy điện Bản Hoàng công suất 0,75 MW, được xây dựng tại xã Trường Hà, huyện Hà Quảng. Vào mùa khô thủy điện tích nước dẫn đến bà con thiếu nước sinh hoạt, và thủy điện này cũng không thực hiện một số cam kết làm đường đã hứa với địa phương. Do đó, tỉnh cũng sẽ có ý kiến,” ông Ánh nói thêm.

Chây ì, coi thường chính quyền sở tại?

Không chỉ gây ảnh hưởng đến nguồn nước canh tác nông nghiệp, chậm đền bù thiệt cho người dân, cũng như gây ảnh hưởng đến khu du lịch Thác Bản Giốc, hiện nay Công ty Cổ phần thủy điện Đông Bắc còn nợ tiền dịch vụ môi trường rừng, khiến người dân và cơ quan chức năng địa phương không khỏi bức xúc.

Theo Nghị định số 99/2010/NÐ-CP ngày 24/9/2010 của Chính phủ, khi xây dựng và phát triển thủy điện, ngoài nghĩa vụ đóng thuế cho nhà nước, chủ đầu tư Nhà máy thủy điện Bản Rạ phải đóng phí chi trả dịch vụ môi trường rừng. Số tiền này sẽ được trả cho những người dân mất đất rừng, đất sản xuất… thuộc lưu vực nhà máy thủy điện. Tuy nhiên, hiện doanh nghiệp này vẫn chây ì không chịu nộp.

Bai 4: Thác Bản Giốc tại huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng. (Ảnh: Hùng Võ/Vietnam+)

Trong buổi làm việc với phóng viên VietnamPlus vào ngày 21/4/2017, ông Bế Xuân Tiến, Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Cao Bằng cho biết, tính đến hết năm 2015, số tiền mà Công ty Cổ phần thủy điện Đông Bắc còn nợ phí dịch vụ môi trường rừng lên đến hơn 2,7 tỷ đồng.

“Trong thời gian qua, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Cao Bằng đã ba lần gửi công văn yêu cầu chủ đầu tư thực hiện chi trả tiền dịch vụ môi trường rừng, nhưng đến nay Sở vẫn chưa nhận được báo cáo và văn bản liên quan nào,” ông Tiến thông tin.

Gần đây nhất, ngày 14/4/2017, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Cao Bằng gửi Công văn số 435/SNN-KHTC về việc đôn đốc báo cáo tình hình thực hiện chi trả tiền dịch vụ môi trường rừng, yêu cầu Công ty Cổ phần thủy điện Đông Bắc nghiêm túc triển khai thực hiện, báo cáo về Sở trước ngày 25/4/2017.

“Tuy nhiên, đến nay, doanh nghiệp này vẫn chưa phản hồi thông tin. Việc này cần phải có giải pháp mạnh chứ không cứ kiểu ‘thả gà ra đuổi’ thế này sẽ rất khó khăn,” ông Tiến giọng buồn rầu nói.

Là người trực tiếp ký công văn yêu cầu chủ đầu tư thực hiện chi trả tiền phí dịch vụ môi trường rừng, ông Đặng Hùng Chương, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Cao Bằng cho biết: “Theo quy định, sau 3 lần thông báo, nếu doanh nghiệp không chấp hành, chúng tôi sẽ mời các bên liên quan trực tiếp làm việc với doanh nghiệp.”

“Sau buồi làm việc này, nếu doanh nghiệp vẫn không chấp hành, chúng tôi sẽ báo cáo lên Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn để Bộ có ý kiến với Tập đoàn Điện lực Việt Nam hoặc đề nghị Sở Công Thương kiên quyết không cho doanh nghiệp này phát điện nữa,” ông Chương nhấn mạnh.

[Bài 3: Ngổn ngang công trình ánh sáng chậm tiến độ, bỏ hoang giữa rừng]

Về phía doanh nghiệp, bà Trịnh Huyền Trang, Phó Tổng giám đốc Công ty Cổ phần thủy điện Đông Bắc lại cho rằng Quỹ bảo vệ và phát triển rừng – Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã thể hiện thái độ rất “ích kỷ” mang tính “thù vặt,” không tạo điều kiện cho doanh nghiệp trực tiếp thuê đơn vị đo đạc, xác định diện tích bị ảnh hưởng để chi trả tiền phí dịch vụ môi trường rừng.

“Vì thế, chúng tôi cũng không làm việc với Quỹ bảo vệ và phát triển rừng, mà chỉ báo cáo trực tiếp với Ủy ban Nhân dân tỉnh (?). Còn việc cơ quan chức năng không hài lòng về công ty là bởi bọn chị đi làm kinh tế cũng quá mệt mỏi ròi. Nếu bây giờ cứ suốt ngày chạy đi ‘quan hệ’ bác này bác kia thì bọn chị cũng mệt lắm!,” bà Trang phân bua.

Còn tại tỉnh Hà Giang, theo lãnh đạo Quỹ bảo vệ và phát triển rừng (Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn), số tiền hiện nay mà các doanh nghiệp thủy điện nợ phí dịch vụ môi trường rừng đã lên đến hàng chục tỷ đồng. Lý do các doanh nghiệp thủy điện chậm nộp tiền đưa ra là họ đang tập trung trả những nguồn vốn vay cho các ngân hàng.

Ðể đôn đốc các doanh nghiệp trả tiền đúng hạn, Ủy ban Nhân dân tỉnh Hà Giang cũng đã có văn bản gửi các doanh nghiệp còn nợ tiền dịch vụ môi trường rừng. Theo đó, nếu các doanh nghiệp không chịu trả, Ủy ban Nhân dân tỉnh sẽ có văn bản báo cáo Bộ Công thương đề nghị thu hồi giấy phép hoạt động./.

“Lạm phát” thủy điện. (Video: Hùng Võ/Vietnam+)

Việc Bộ Công Thương quyết định loại bỏ hàng trăm dự án thủy điện ra khỏi quy hoạch trong vài năm gần đây cho thấy việc quy hoạch rất “có vấn đề.” Vậy việc quy hoạch ồ ạt này lỗi do ai? Và, các địa phương cần phải có giải pháp như thế nào để có thể “gỡ” được hậu quả từ việc đầu tư thủy điện tràn lan, tàn phá môi trường, đời sống người dân hiện nay?

Bài 5: Đừng đánh đổi tài nguyên lấy thủy điện vì lợi ích một số người

Hùng Võ (Vietnam+)
***

Bài 5: Đừng đánh đổi tài nguyên lấy thủy điện vì lợi ích nhỏ

Sau nhiều năm quy hoạch theo kiểu “xôi đỗ,” vừa qua Bộ Công Thương đã quyết định loại bỏ 684 dự án thủy điện ra khỏi quy hoạch, điều này cho thấy việc quy hoạch đã và đang thực sự “có vấn đề.”
Hùng Võ (Vietnam+) 
​Bai 5: Dung danh doi tai nguyen lay thuy dien vi loi ich nho hinh anh 1Nhà máy thủy điện Hoa Thám bỏ hoang giữa rừng. (Ảnh: Hùng Võ/Vietnam+”

Sau nhiều năm quy hoạch theo kiểu “xôi đỗ,” hiện tượng “lạm phát” thủy điện đã làm “nóng” nghị trường Quốc hội, Bộ Công Thương đã quyết định loại bỏ 684 dự án thủy điện ra khỏi quy hoạch. Trong đó có 463 dự án thủy điện nhỏ và 213 dự án không đưa vào diện xem xét quy hoạch.

Việc cắt giảm, loại bỏ hàng trăm dự án thủy điện trên cho thấy việc quy hoạch rất “có vấn đề,” nhất là trong bối cảnh quy hoạch đang có xu hướng chạy theo các dự án để hợp thức hóa, gây ra những hậu quả xấu, ảnh hưởng nặng nề đến môi trường, nguồn nước và sinh kế của người dân.

Quy hoạch theo “cảm hứng” lỗi do ai?

Theo tìm hiểu của phóng viên VietnamPlus, năm 2005, Bộ Công nghiệp (nay là Bộ Công Thương) ký quyết định phê duyệt quy hoạch thủy điện nhỏ trên toàn quốc. Thời điểm ấy, cả nước chỉ có 239 dự án thủy điện nhỏ được đưa vào kế hoạch phát triển. Nhưng đến nay, tổng số thủy điện trong kế hoạch phát triển đã lên đến hàng ngàn.

Vấn đề đáng quan tâm là hầu hết những dự án mới nằm ngoài quy hoạch 2005 đều được Bộ Công Thương thỏa thuận cho các địa phương đưa vào kế hoạch triển khai thực hiện. Trong khi, chính các địa phương như Cao Bằng, Hà Giang lại xem thủy điện là cơ hội để phát triển kinh tế. Thậm chí, phát triển thủy điện còn được đưa vào nghị quyết của Hội đồng Nhân dân và chiến lược phát triển của địa phương.

Theo nhận định của giới chuyên gia, việc xây dựng thủy điện phát triển thành phong trào, trước hết là do lỗi của các địa phương. Bên cạnh đó, các cơ quan quản lý ngành ở Trung ương cũng góp phần không ít, khi dễ dàng chấp nhận đề xuất của địa phương cho bổ sung hàng loạt dự án vào kế hoạch phát triển.

Ngoài ra, chính sách của Nhà nước cũng ít nhiều tạo nên tình trạng phát triển theo phong trào khi đưa ra những chính sách khuyến khích về tài chính, đã tạo cơ hội cho không ít doanh nghiệp nhảy vào chủ đầu tư theo “cảm hứng” bất chập những hệ lụy về rừng và gánh nặng “đè lên vai” người dân nghèo.

Minh chứng rõ thấy nhất là diện tích rừng ngày càng thu hẹp, hệ sinh thái sông ngòi gần như biến mất dù là mùa khô hay mùa lũ, thậm chí tính mạng, tài sản của người dân hiện nay cũng đang bị đe dọa bởi thủy điện là thực trạng tại các lưu vực sông tại miền Bắc. Thế nhưng những đánh giá tác động trước khi đưa vào vận hành một nhà máy thủy điện còn bỏ sót quá nhiều, gây hệ lụy nặng nề.

[Bài 1: Tỉnh nghèo cuốn theo “cơn lốc” phát triển thủy điện nhỏ]

​Bai 5: Dung danh doi tai nguyen lay thuy dien vi loi ich nho hinh anh 2Sông Miện trên địa bàn tỉnh Hà Giang đang phải cõng 6 Nhà máy thủy điện. (Ảnh: Hùng Võ/Vietnam+)

Thẳng thắn chia sẻ về “lỗ hổng” trong quy hoạch phát triển thủy điện, ông Hoàng Xuân Ánh – Chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh Cao Bằng cho hay: “Cách đây hai nhiệm kỳ, Cao Bằng có chương trình phát triển trọng tâm vào lĩnh vực thủy điện. Do vậy, thời điểm năm 2004 – 2005, dựa trên cơ sở những quy hoạch từ năm 1980, tỉnh đã cấp phép khá nhiều dự án, chỗ nào quy hoạch là có nhà đầu tư đến đăng ký.”

Ông Ánh cũng thừa nhận, trước đây tỉnh muốn thu hút đầu tư nên doanh nghiệp nào xin cũng đều được hết; tỉnh cũng không biết năng lực tài chính các chủ đầu tư như thế nào, chuyên ngành lĩnh vực ra sao. Tuy nhiên, từ năm 2005 đến 2010, số dự án hoàn thiện rất ít, chỉ khoảng 3-4 dự án ở Bản Hoàng, Thoong Cót, Bản Rạ. Đa phần những nhà đầu tư còn lại không xây dựng được vì thiếu vốn hoặc là có tranh chấp mực nước dâng do lỗi quy hoạch.

Ông Nguyễn Văn Sơn – Chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh Hà Giang thừa nhận, từ nhiều năm trước, tỉnh này đã xác định phát triển thủy điện là tiềm năng thế mạnh của tỉnh. Mặc dù, tỉnh đã loại 27 dự án ra khỏi quy hoạch, nhưng đến nay vẫn còn 46 dự án thủy điện với tổng công suất lắp máy gần 800 MW.

Cũng theo ông Sơn, mặc dù các dự án thủy điện đem lại hiệu quả kinh tế cao cho các nhà đầu tư, thu hút lao động tại chỗ của địa phương, mang lại lợi ích kinh tế-xã hội, song việc đầu tư phát triển thủy điện cũng xuất hiện nhiều vấn đề tiêu cực như chiếm dụng một phần đất đai, tái định cư, an sinh xã hội và ảnh hưởng tới môi trường…

Cho đến nay, tỉnh Hà Giang đã loại bỏ 27 dự án ra khỏi quy hoạch, một số thủy điện chậm tiến độ so giấy chứng nhận đầu tư, có thủy điện thực hiện việc đóng xả nước không đúng quy trình. Chủ đầu tư xây cao trình đập cao hơn thiết kế, có thủy điện đã phát điện 3 năm, nhưng đến nay vẫn chưa có giấy phép khai thác sử dụng nước mặt.

Kiên quyết loạt bỏ dự án vi phạm

Dù đã loại bỏ hàng loạt dự án thủy điện gây hại, yếu kém, song hậu quả của một thời gian dài làm thủy điện vẫn chưa thể giải quyết. Vậy, các địa phương cần phải có giải pháp như thế nào để có thể “gỡ” được hậu quả từ việc đầu tư thủy điện tràn lan, tàn phá môi trường, đời sống người dân hiện nay?

Trả lời cho câu hỏi trên, Chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh Hà Giang Nguyễn Văn Sơn cho hay, trong việc phát triển thủy điện, tỉnh luôn khuyến khích và tạo điều kiện tốt cho các nhà đầu tư đến đầu tư. Tuy nhiên, tỉnh này sẽ không cấp phép đầu tư đối với các dự án đầu tư có ảnh hưởng tiêu cực đến an sinh xã hội và cảnh quan môi trường.

Trong khi đó, Chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh Cao Bằng Hoàng Xuân Ánh khẳng định, sau một thời gian quy hoạc thủy điện ồ ạt, tỉnh này cũng đã rà soát lại và kiên quyết thu hồi những dự án thủy điện các nhà đầu tư chưa thực hiện đúng cam kết. Còn những thủy điện đã xây dựng nhưng chưa hoàn thành, như thủy điện Hoa Thám thì vẫn phải cho xây tiếp.

“Quan điểm của tỉnh là sẽ không đánh đổi môi trường cho sự phát triển của tỉnh, cố gắng hạn chế thấp nhất ảnh hưởng tới môi trường và phương hướng phát triển trong giai đoạn mới là tập chung tìm các nhà đầu tư giải quyết được những tồn tại trước mắt của các nhà đầu tư cũ,” ông Ánh nhấn mạnh.

[Bài 2: Thủy điện chồng lấn mốc giới, gây tranh chấp gần 10 năm]

​Bai 5: Dung danh doi tai nguyen lay thuy dien vi loi ich nho hinh anh 3Nhà máy thủy điện Thái An xây dựng trên sông Miện, tỉnh Hà Giang. (Ảnh: Hùng Võ/Vietnam+)

Trao đổi với báo chí, từ góc độ chuyên gia, ông Đào Trọng Tứ, Giám đốc Trung tâm Phát triển bền vững tài nguyên nước và thích nghi biến đổi khí hậu nhấn mạnh, Quốc hội và các Bộ, ngành đã có nhiều đánh giá và dừng hàng trăm thủy điện nhỏ. Lý do là khi làm thủy điện, người ta không chú ý đến môi trường, phá rừng đầu nguồn, khai thác gỗ gây hại cho môi trường rất lớn.

Ông Tứ cũng khẳng định, trong quá trình đi thực tế, các địa phương không những không dừng mà vẫn đang tìm kiếm, kêu gọi và doanh nghiệp tranh nhau đầu tư thủy điện bởi lợi nhuận từ đầu tư thủy điện không ít. Việc các tỉnh liên tục bổ sung các dự án thủy điện nhỏ vào quy hoạch là không nên, bởi vì mỗi lần bổ sung đều phải đánh giá lại tác động môi trường và tính toán rất nhiều vấn đề.

“Vì thế, thủy điện nhỏ này phải thân thiện với môi trường thì mới nên làm, còn cứ làm kiểu thủy điện như hiện nay thì có rất nhiều hệ lụy đến môi trường và dân cư. Thủy điện đang làm cho vấn đề môi trường ngày càng trở nên căng thẳng hơn,” ông Tứ nói.

Vị chuyên gia này cũng lưu ý rằng: “Ở rất nhiều thủy điện nhỏ, chúng tôi thấy họ bỏ qua rất nhiều hạng mục, máy móc cũ kĩ, xây dựng bừa bãi. Nên tránh việc lấy thiên nhiên sinh lời cho bản thân một số người”. Theo đó, ông Tứ đề nghị các tỉnh phải nghĩ đến lợi ích chung của môi trường, nghĩ đến rừng đầu nguồn, đến khô hạn, lũ lụt và các hệ lụy khác, trước khi nghĩ đến việc làm ra tiền.

“Các nhà đầu tư được hưởng lợi thủy điện, chứ không phải là người dân, không phải ngành điện cũng không phải môi trường. Vì thế cần đánh giá xem hiện nay việc phát triển của chúng ta cần bao nhiêu điện, có thiếu điện hay không mà phải làm những thủy điện quá nhỏ như thế,” ông Tứ nhấn mạnh.

Có chung quan điểm này, ông Trần Viết Ngãi – Chủ tịch Hiệp hội Năng lượng Việt Nam cũng cho rằng, thủy điện đi đến đâu đều phá rừng. Vấn đề là đã phá rừng rồi thì phải tìm cách trồng lại rừng. Nhưng hầu hết các dự án thủy điện mới đầu tư những năm gần đây do tư nhân làm đều không có tiền. Có dự án thì chây ỳ không chịu làm, làm cho môi trường, đời sống người dân sau dự án thủy điện càng khó khăn.

“Vì thế, chúng ta phải có giải pháp mạnh như đình chỉ, thậm chí đưa ra tòa án thì mới có thể buộc nhiều nhà máy thủy điện tàn phá môi trường thực hiện đúng nghĩa vụ cam kết của họ khi đầu tư xây dựng thủy điện,” ông Ngãi khuyến cáo.

Phát biểu tại Hội nghị “Quản lý, vận hành an toàn, hiệu quả công trình thủy điện” diễn ra mới đây tại Đà Nẵng, Bộ trưởng Bộ Công Thương Trần Tuấn Anh cho biết, sẽ chủ động cùng Bộ Tài nguyên và Môi trường thành lập nhóm công tác liên Bộ làm việc cụ thể với một địa phương có hồ thủy điện lớn, số lượng hồ thủy điện nhiều để thống nhất các giải pháp cụ thể.

Ngoài ra, Bộ Công Thương cũng sẽ làm rõ vai trò các cơ quan quản lý đồng thời theo dõi, xây dựng kế hoạch theo dõi, kiểm tra công tác chấp hành pháp luật liên quan đến hồ, đập thủy điện; chủ động điều chỉnh một số cơ chế chính sách cụ thể để đảm bảo hiệu quả của các hồ thủy điện tham gia phòng chống lụt bão, cũng như đảm bảo hiệu quả hoạt động của thủy điện./.

Theo số liệu từ Bộ Công Thương, hiện cả nước có 330 công trình thủy điện được đưa vào khai thác, sử dụng với tổng công suất lắp đặt 17.615MW; trong đó tập trung chủ yếu ở khu vực phía Bắc và miền Trung – Tây Nguyên. Tổng sản lượng điện phát của các công trình thủy điện năm 2016 là 63.730 triệu kWh so với năm 2012 (48421 triệu kWh), phát tăng thêm 15.309 triệu kWh.

Bên cạnh đó, Việt Nam có khoảng 193 dự án (tương đương 5.662MW) đang thi công xây dựng; 245 dự án (3.006MW) đang nghiên cứu đầu tư.

Hùng Võ (Vietnam+)

Trả lời

Điền thông tin vào ô dưới đây hoặc nhấn vào một biểu tượng để đăng nhập:

WordPress.com Logo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản WordPress.com Đăng xuất /  Thay đổi )

Facebook photo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản Facebook Đăng xuất /  Thay đổi )

Connecting to %s

%d người thích bài này: