Dân ca Dân nhạc VN – Dân ca Hrê (H’rê)

Đọc các bài cùng chuỗi, xin click vào đây.

Chào các bạn,

Tiếp theo Dân ca Hoa, mình giới thiệu đến các bạn Dân ca Hrê.

Dân tộc Hrê còn có tên gọi khác là Chăm Rê, Chom Krẹ, Lùy. Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Môn – Khơ Me, ngữ hệ Nam Á.

Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người Hrê ở Việt Nam có dân số 127.420 người, cư trú tại 51 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố. Người Hrê cư trú tập trung tại các tỉnh: Quảng Ngãi (115.268 người, chiếm 90,5% tổng số người Hrê tại Việt Nam), Bình Định (9.201 người), Kon Tum (1.547 người), Đắk Lắk (341 người), Gia Lai (128 người),

Người Hrê làm lúa nước từ lâu đời, kỹ thuật canh tác lúa nước của người Hrê tương tự như vùng đồng bằng Nam Trung bộ. Người Hrê chăn nuôi trước hết nhằm phục vụ các lễ cúng bái, riêng trâu còn được dùng để kéo cày, bừa. Nghề đan lát, dệt khá phát triển, nhưng nghề dệt đã bị mai một qua mấy chục năm gần đây.

Trong làng người Hrê, “già làng” có uy tín cao và đóng vai trò quan trọng. Dưới thời phong kiến người Hrê nhất loạt đặt họ Đinh, gần đây một số người lấy họ Nguyễn, Hà, Phạm… Hình thức gia đình nhỏ rất phổ biến ở dân tộc Hrê.

Đinh Thị Thùy Trang, dân tộc H'rê, trong một cuộc thi Hoa Hậu Dân Tộc.
Đinh Thị Thùy Trang, dân tộc H’rê, trong một cuộc thi Hoa Hậu Dân Tộc.

Hrê xưa ở nhà sàn dài. Nay hầu như nhà dài không còn nữa. Nóc nhà có hai mái chính lợp cỏ tranh, hai mái phụ ở hai đầu hồi thụt sâu vào trong hai mái chính. Mái này có lớp ngoài còn thêm một lớp nạp giống như ở vách nhà. Chỏm đầu đốc có “bộ sừng” trang trí với các kiểu khác nhau. Vách, lớp trong bằng cỏ tranh, bên ngoài có một lớp nẹp rất chắc chắn. Hai gian đầu hồi để trống.

Bộ khung nhà kết cấu đơn giản giống như nhà của nhiều cư dân khác ở Tây Nguyên.

Trong nhà (trừ hai gian đầu hồi) không có vách ngăn. Với nhà người Hrê còn có đặc điểm ít thấy ở nhà các dân tộc khác: thường thì nhà ở cửa mặt trước hoặc hai đầu hồi. Mặt trước nhà nhìn xuống phía đất thấp, lưng nhà dựa vào thế đất cao. Người nằm trong nhà đầu quay về phía đất cao. Nhưng với người Hrê thì hoàn toàn ngược lại.

Gian hồi bên phải (nhìn vào mặt nhà) (A) dành cho sinh hoạt của nam và khách. Gian hồi bên trái (C) dành cho sinh hoạt của nữ. Giáp vách gian hồi bên phải đặt bếp chính. Gian chính giữa đặt bếp phụ. Gian giáp vách với gian hồi bên trái đặt cối giã gạo.

Về trang phục người Hrê có biểu hiện giống người Kinh. Có cá tính tộc người song không rõ nét. Trước kia đàn ông Hrê đóng khố, mặc áo cánh ngắn đến thắt lưng hoặc ở trần, quấn khăn; đàn bà mặc váy hai tầng, áo 5 thân, trùm khăn. Nam, nữ đều búi tóc cài trâm hoặc lông chim. Ngày nay, người Hrê mặc quần áo như người Kinh, riêng cách quấn khăn, trùm khăn vẫn như xưa. Phần lớn nữ giới vẫn mặc váy, nhưng may bằng vải dệt công nghiệp. Người Hrê thích đeo trang sức bằng đồng, bạc, hạt cườm; nam nữ đều đeo vòng cổ, vòng tay, nữ có thêm vòng chân và hoa tai. Tục cà răng đã dần dần được xóa bỏ.

Người Hrê cũng có lễ đâm trâu như phong tục chung ở Trường Sơn – Tây Nguyên. Người Hrê thích sáng tác thơ ca, ham mê ca hát và chơi các loại nhạc cụ. Ka-choi và Ka-lêu là làn điệu dân ca quen thuộc của người Hrê. Truyện cổ đề cập đến tình yêu chung thủy, cuộc đọ tài trí giữa thiện và ác, giàu và nghèo, rất hấp dẫn các thế hệ từ bao đời nay. Nhạc cụ của người Hrê gồm nhiều loại: đàn Brook, Ching Ka-la, sáo ling la, ống tiêu ta-lía, đàn ống bút của nữ giới, khèn ra-vai, ra-ngói, pơ-pen, trống… Những nhạc cụ được người Hrê quí nhất là chiêng, cồng, thường dùng bộ 3 chiếc, hoặc 5 chiếc, với các nhịp điệu tấu khác nhau.

hre1

Trong các dịp lễ hội, nhạc cụ người Hrê thường dùng là bộ chiêng ba chiếc, bộ cồng ba chiếc, trống, các loại đàn ống tre hoặc có vỏ bầu làm hợp âm, sáo, nhị, đàn môi, nữ giới chơi bộ ống vỗ hai chiếc. Dân ca phổ biến nhất là điệu Katê và Ka choi. Truyện cổ (Hmon) được lưu truyền như một vốn quý trong văn hoá dân tộc, gồm những đề tài khác nhau. Các mô típ hoa văn hình học dệt trên vải và thể hiện trên đồ đan cũng mang tính truyền thống lâu đời.

Hai bài dân ca tiêu biểu của người Hrê:

1. Về Đồng Bằng (Dân Ca Hrê)

(NS Phạm Duy ghi lại)

Còn nhớ ngày nào
Ở dưới vách đá
Trong cái khe âm u
Còn nhớ ngày nào
Ở dưới khóm lá
Trong cái lều mịt mù.

Ðời sống nghèo nàn
Ðời sống tối ám
Trong biết bao nguy nan
Giặc nó về làng
Giặc nó chiếm đóng
Ðau cái lòng vợ chồng.

Nhớ lại ngày nào
Chúng nó bắt chúng ta làm cái dân công
Nhớ lại ngày nào
Chúng nó bắt chúng ta mệt sức nuôi cơm
Nhớ lại ngày nào
Bao đau thương trong buôn
Ôi bao đau thưong!

Rồi có một ngày
Ðời sống khốn khó, ta quyết đi di cư
Rồi có một ngày
Bỏ hết xóm lá, ta quyết lìa rừng già

Ở phía rừng ngoài,
Giặc đến cướp phá, ta kéo nhau đi suôi
Về phía đồng bằng
Về phía quốc gia
Ta có nhiều bạn bè.

Nhớ lại một ngày
Ðã nhất quyết chúng ta về với anh em
Nhớ lại một ngày
Ðã nhất quyết chúng ta tìm lấy an ninh
Nhớ lại một ngày
Ta vui ca trong buôn. Ôi vui trong buôn!

Lập lũy đào hào
Rào kín xóm mới
Trong ấp ta yên vui
Làng buôn người người
Tìm lấy khí giới
Ngăn lũ giặc nghìn đời

Nhiều rẫy làm mùa
Ruộng mới tốt lúa
Bên thác reo vi vu
Ðàn chim rừng già
Bỏ vách núi đá
Thương nhớ người tìm về.

2. Anh Mau Về (Dân Ca Hrê)

(NS Phạm Duy ghi lại)

Anh ở buôn làng
Là anh ở buôn làng
Ðời sống vui yên lành
Ðời sống vui thanh bình
Sống trong tình nước non
Như đàn chim nhỏ quây quần
Trong tình yêu Việt Nam
Và một tối thê lương
Nghe cú kêu trong rừng
Nghe tiếng xui căm hờn
Tiếng dỗ dành kéo anh xa nhà
Xa cả gia đình, xa tình yêu đàn em

Anh ở trong rừng
Là anh ở trong rừng
Như lũ nai xa đàn
Như lũ beo hung tàn
Kéo nhau về rẫy nương
Ăn càn, nhưng cả dân làng
Xua vào trong rừng hoang
Ðời sống nguy nan
Và đời sống cô đơn
Anh chết sâu trong rừng
Anh chết cao trên ngàn
Chết vô tình, thiếu tay bế bồng
Cha mẹ xa buồn
Không một ai mà chôn.

Anh phải mau về là anh phải mau về
Về với cây tre già
Về với hoa bốn mùa
Với rượu vò, với câu vui đùa
Trong họ trong nhà, ăn mừng anh tự do
Dòng nước xanh lơ
Và dòng suối nên thơ
Vẫn khát khao mong chờ
Cùng với đêm sương mờ
Ðón anh về, bước chân lững lờ
Qua nẻo trăng tà
Trên đường quê ngẩn ngơ…

Sau đây mình có các bài:

– Dân tộc Hrê
– NGHỆ THUẬT DIỄN XƯỚNG DÂN GIAN CỦA NGƯỜI HRÊ
– Gìn giữ không gian văn hóa cồng chiêng người H’rê
– Độc đáo làn điệu dân ca dân tộc Hrê, Quảng Ngãi
– H’chôi tăh têu” là một làn điệu dân ca độc đáo của dân tộc Hrê ở Quảng Ngãi
– Tâm huyết bảo tồn nhạc cụ dân tộc Hrê
– Giao duyên qua tiếng đàn Ra-ngói của người H’re
– Đôi nét về nghi lễ, lễ hội của người Hrê
– Người Hrê ăn Tết truyền thống khi hoa gạo nở rộ tháng Ba
– Buộc mây, độc đáo kiến trúc nhà sàn dân tộc Hrê.
– Quảng Ngãi: Phong tục mai mối trong hôn nhân của người Hrê xưa
– Đám cưới của người H’rê, Quảng Ngãi
– Trang phục dân tộc Hrê

Cùng với 6 clips tổng thể văn hóa dân tộc Hrê để các bạn tiện việc tham khảo và thưởng thức.

Mời các bạn.

Túy Phượng

(Theo Wikipedia)

Đinh Thị Thùy Trang, dân tộc H'rê, trong một cuộc thi Hoa Hậu Dân Tộc.
Đinh Thị Thùy Trang, dân tộc H’rê, trong một cuộc thi Hoa Hậu Dân Tộc.

DÂN TỘC HRÊ

Hrê là tộc người có số dân đứng hàng thứ hai trong tỉnh Quảng Ngãi sau dân tộc Kinh.

Đến năm 2005, dân số Hrê ở Quảng Ngãi có 112.947 người, cư trú ở các huyện Trà Bồng, Tây Trà, Sơn Hà, Sơn Tây, Minh Long, Ba Tơ, Nghĩa Hành và Tư Nghĩa. Tuy địa bàn cư trú phân bố rộng như vậy nhưng dân tộc Hrê cư trú tập trung ở các huyện Sơn Hà, Ba Tơ, Minh Long. Người Hrê sống đan xen với người Kinh ở vùng tây các huyện Nghĩa Hành, Tư Nghĩa. Các làng Hrê đan xen với người Ca Dong ở địa bàn phía đông huyện Sơn Tây và sống đan xen với người Cor ở các xã phía nam của huyện Trà Bồng. Ngoài ra, một vài nhóm nhỏ của dân tộc Hrê cư trú ở huyện Kon Plong (tỉnh Kon Tum) và huyện An Lão (tỉnh Bình Định).

Hrê là tộc danh chính thức của dân tộc này. Trước kia, dưới thời triều Nguyễn và Pháp thuộc, người Hrê được gọi bằng những phiếm danh, có ý khinh miệt, như “Mọi Đá Vách”, “Mọi Thạch Bích”, “Mọi Sơn Phòng”, “Thượng Ba Tơ”, “Mọi Lũy”, “Mọi Chòm”, “Chăm Rê”, “Chăm Quảng Ngãi”… Tuy nhiên, tên tự gọi của đồng bào Hrê thường theo tên của dòng sông lớn trong vùng. Chẳng hạn ở Minh Longcó sông Rvá nên nhóm Hrê ở đây gọi là người Rvá; ở Ba Tơ có sông Liên nên gọi là người Nước Liên và nơi có sông Rhe thì gọi là người Hrê; ở Sơn Hà có sông Krế nên gọi là người Krế. Lưu vực sông Rhe được coi là ngọn nguồn của dân tộc.

Theo truyền thuyết, nguồn gốc dân tộc Hrê gắn với núi Cao Muôn (huyện Ba Tơ) và núi Mum (huyện Minh Long). Tiếng Hrê thuộc nhóm ngôn ngữ Môn – Khơme và thuộc ngành ngôn ngữ Bahnaric trong khu vực bắc Tây Nguyên. Tỷ lệ từ chung khá cao bên cạnh một số biểu hiện tương đồng giữa tiếng Hrê với tiếng Ba Na và Xơ Đăng. Đặc biệt, trong cộng đồng người Hrê còn lưu truyền văn tự cổ sơ nhất, là “văn tự thắt gút” bằng các gút mây buộc thắt (để đếm).

Người Hrê định cư thành từng làng (plây) với quy mô lớn nhỏ khác nhau. Làng Hrê xây dựng ven triền đồi, phía dưới là thung lũng. Địa bàn cư trú nằm kề sát khu vực đất đai canh tác và gần nguồn nước. Đồng bào chỉ di chuyển làng khi có dịch bệnh. Nhà sàn Hrê nằm bố trí lớp lớp từ thấp lên cao, dựng ngang triền đồi, nằm gọn trên khoảnh đất cao ráo, thoáng đãng. Vòng rào làng xưa kia bao quanh vốn ken dày, dựng cao lên nhằm canh phòng kẻ gian và thú dữ, nay đã biến thành bờ dậu của từng nhà, hoặc vẫn rào quanh làng, nhưng chỉ để ngăn gia súc.

Dệt thổ cẩm được phục dựng trong - không gian văn hóa H’re.
Dệt thổ cẩm được phục dựng trong – không gian văn hóa H’re.

Trong xã hội truyền thống của người Hrê, làng là đơn vị cư trú, đồng thời là cộng đồng tự quản với những thiết chế sinh hoạt đã định hình từ lâu. Mỗi làng đều có chủ làng (krăh plây), là người lớn tuổi am hiểu nhiều kinh nghiệm, có uy tín, gia đình thuộc loại giàu có trong làng. Chủ làng là người cùng với thầy cúng (pơ dâu) tổ chức các lễ cúng của làng. Cá nhân chủ làng đứng ra chịu trách nhiệm tổ chức bắc máng nước, làm đường, rào làng, hướng dẫn việc sản xuất, giải quyết các vụ xử phạt, tổ chức chuyển làng… Để làm những việc đó, chủ làng bàn bạc cùng với các thành viên trong hội đồng già làng. Chủ làng hòa mình vào trong đời sống của cộng đồng. Dân làng dành cho chủ làng sự kính trọng và giúp đỡ chủ làng khi ngày mùa bận rộn…

Chủ làng là chức vụ bầu theo lối dân cử, không theo nguyên tắc cha truyền con nối. Mỗi làng Hrê đều có thầy cúng là người thông thạo việc cúng tế thần linh. Ngoài ra ở mỗi gia đình, dòng họ đều có tộc trưởng, đó là những người già đứng đầu gia đình dòng họ. Các tộc trưởng quy tụ trong hội đồng già làng. Chủ làng bàn bạc công việc sản xuất, xử kiện… với các thành viên trong hội đồng già làng. Cuối cùng là các thành viên trong làng, những thành viên này cùng đoàn kết tương trợ lẫn nhau trong một khối cộng đồng thống nhất.

Xã hội truyền thống xưa kia của người Hrê có sự phân hóa giàu nghèo, do chênh lệch về ruộng đất, về lao động và về thu nhập giữa các hộ gia đình. Trong xã hội đó có bốn tầng lớp người: người giàu (proong), người đủ ăn có chút ít dư thừa (lắp ká), người thiếu ăn, kinh tế khó khăn (pa), người đi ở vì nợ, nô lệ vì nợ (hapoong, dik). Lắp kápa thường chiếm tỉ lệ chủ yếu trong cộng đồng Hrê. Tuy nhiên, những hộ thiếu ăn thường xuyên có khi rơi vào trường hợp đi ở vì nợ. Proong – người giàu, và hapoong – người đi ở, vì nợ thường chiếm tỉ lệ ít trong làng.

Tiêu chí người giàu được xác định là người có nhiều ruộng rẫy tốt, có nhiều trâu, lợn, gà, nhiều chiêng, ché quý, có kho thóc to, nhà cửa dài rộng, lễ tết mặc đồ đẹp, mang nhiều trang sức. Tuy nhiên, người giàu trong xã hội Hrê thường không phải từ bóc lột mà chủ yếu từ sự lao động sản xuất cần cù, tích lũy của cải bằng khả năng lao động của chính mình. Hapoong là lớp người cùng cực nhất trong xã hội Hrê trước kia, vì nợ nần không trả được họ phải ở làm trả công cho chủ nợ, thường bị đối xử thấp hơn so với các thành viên khác trong làng. Ngày nay, trong cộng đồng Hrê không còn sự phân biệt giữa các tầng lớp người như trên.

hre4

Nhìn chung, xã hội Hrê vẫn mang tính cộng đồng thống nhất, đoàn kết gắn bó giữa các thành viên. Điều này thể hiện ở các hình thức vần đổi công, tương trợ, tục chia sẻ trong ăn uống lễ tết, sự quan tâm giúp đỡ lẫn nhau. Sự liên kết giữa các gia đình cũng như sự gắn bó của mỗi thành viên với làng dựa trên quan hệ thân tộc hoặc quan hệ láng giềng.

Nguồn kinh tế đem lại thu nhập quan trọng nhất trong đời sống của người Hrê là nông nghiệp trồng lúa nước. Các cánh đồng trồng lúa thường nằm men theo triền đồi thấp, tạo thành những vùng ruộng bậc thang đặc trưng. Do địa bàn cư trú xen giữa đồi núi và thung lũng nên người Hrê tận dụng địa hình để mở mang đồng ruộng rất đa dạng, có ruộng trên các dải đất cao, ruộng lầy ngập nước quanh năm, ruộng bậc thang nhỏ hẹp… Trên vùng ruộng đó gieo cấy các loại giống lúa nước mỗi năm hai vụ, nhưng phần lớn chỉ làm được một vụ. Canh tác ruộng nước của người Hrê bằng phương pháp cuốc, cày, bừa, cấy mạ… tương tự như người Kinh ở Quảng Ngãi.

Đặc biệt, phương pháp đắp đập, dẫn thủy nhập điền của người Hrê khá phát triển. Người ta dẫn nước về ruộng bằng con mương đào dài hàng kilômét theo phương pháp thế năng. Ngoài ra, người dân còn làm đập bổi hay kè đá để nước dâng lên ruộng. Ruộng nước được canh tác hai vụ, vụ đông – xuân thu hoạch từ tháng 4 đến tháng 5, vụ hè – thu thu hoạch từ tháng 8 đến tháng 9 Âm lịch. Giống như người Kinh, mạ cấy được gieo ở đất khô, đất bãi thành từng luống. Sau khi mạ lớn chừng 10 – 15cm, nhổ bó thành từng bó và cấy. Hiện nay, phổ biến phương pháp gieo sạ. Ruộng được ngâm nước, đất mềm chỉ bừa mà không cần cày.

hre8

Gốc rạ bị bừa giập vùi xuống bùn để mục làm tăng độ phì cho đất. Đồng bào bón phân chuồng vào đất trước khi cấy sạ và chăm sóc lúa bằng các loại phân hóa học cùng với các loại thuốc trừ sâu. Đặc biệt, khi cây lúa lên người ta không tát nước vào ruộng mà chỉ đưa nước vào theo hệ thống mương dẫn từ đám ruộng trên cao xuống dưới thấp. Lúa chín thu hoạch bằng liềm. Người ta cắt lấy bông lúa, bó thành cụm rồi chuyển đến nhà ruộng dựng tại cánh đồng. Sau đó, lúa được vò bằng chân, hoặc dùng máy suốt đạp chân để tuốt lúa.

Nguồn thu nhập từ rẫy chiếm vị trí thứ hai sau thu nhập hoa lợi ruộng nước và cũng đóng vai trò rất quan trọng trong đời sống của người Hrê. Một vụ lúa rẫy kéo dài từ tháng 3, tháng 4 đến tháng 8, tháng 9. Lúa rẫy được canh giữ chim thú từ khi còn nhỏ đến khi thu hoạch. Người ta làm chòi rẫy để giữ lúa, để nghỉ ngơi, tránh nắng mưa khi đang mùa sản xuất và chứa tạm sản phẩm thu hoạch trong lúc chưa kịp chuyển về làng. Rẫy canh tác theo lối luân canh, mỗi đám rẫy chỉ canh tác một vụ rồi trồng thứ khác hoặc bỏ hoang từ 3 – 5 năm, đợi rừng tái sinh mới canh tác tiếp, rồi lại bỏ hoang hóa…

Nghề thủ công cũng góp phần bổ sung quan trọng trong đời sống kinh tế tự cung tự cấp. Nghề thủ công truyền thống của người Hrê gồm có nghề dệt, đan lát. Đan lát là nghề của đàn ông, sản phẩm đan lát là các đồ dùng trong sản xuất và sinh hoạt hàng ngày. Chăn nuôi gia súc, nhất là chăn nuôi trâu và chăn nuôi gia cầm tương đối phát triển. Sản phẩm chăn nuôi dùng trong buôn bán trao đổi, làm thực phẩm và dùng trong nghi lễ. Vùng cư trú của người Hrê nằm ở vị trí thông thương với Tây Nguyên xuống và đồng bằng lên nên rất thuận lợi trong trao đổi buôn bán. Thương nhân các nơi khác, nhất là người ở vùng xuôi qua lại từng làng Hrê mua hạt cau khô, hồ tiêu, mật ong, trầu, vải dệt… và bán công cụ sắt, áo quần, muối, chè, đồ trang sức…

Dân ca Hrê - Đi Cắt Lúa.
Dân ca Hrê – Đi Cắt Lúa.

NGHỆ THUẬT DIỄN XƯỚNG DÂN GIAN CỦA NGƯỜI HRÊ

(trích)

* Các loại hình dân ca

Các loại hình dân ca chính của người Hrê ở Quảng Ngãi bao gồm: ta lêu (ca lêu), ca choi (ca chơi), ta jeo, vađhô con…

Dân ca Hrê có giai điệu trong sáng, tình cảm và thang âm phong phú, nên nhiều nhạc sĩ đã mượn làn điệu từ dân ca Hrê để phát triển thành những ca khúc nổi tiếng, như: Phan Huỳnh Điểu với Bóng cây kơnia (thơ Ngọc Anh), Nhật Lai với Thương anh cán bộ, Cánh chim pôngkle, Hái rau tặng anh bộ đội, Phan Quý với Chiều sông Rhe (thơ Nguyễn Ngọc Trạch)…(3).

* Ta lêu

Ta lêu (ở huyện Sơn Hà, và những vùng dưới của huyện Sơn Tây gọi là ca lêu), là điệu hát kể, có tính chất tự sự. Người Hrê thường dùng ta lêu để hát kể cho con cháu nghe bên bếp lửa nhà sàn, trên rẫy vào mùa chờ thu hoạch. Có hai dòng ta lêu là ta lêu cổ và ta lêu mới.

Ta lêu cổ, là loại ta lêu có hệ thống bài bản vốn được truyền từ đời này sang đời khác. Loại ta lêu này có các đề tài như: kể về các loài vật, cây cối; kể về các anh hùng huyền thoại của cộng đồng tộc người, về các vị thần linh, về những con người tài trí, dũng cảm… Đây là loại ta lêu có cốt truyện nên khi hát kể ta lêu, người Hrê gọi là cà eng, vì có những bài ta lêu được các nghệ nhân Hrê hát suốt cả đêm. Trong các truyện cổ dân gian của người Hrê thường có những đoạn xen bằng văn vần, đó chính là những khúc ta lêu cổ.

Ta lêu mới, là loại ta lêu mới được sáng tác ca ngợi cuộc sống mới, về tinh thần hăng say lao động, sản xuất… và đặc biệt là về tình yêu đôi lứa.

hre_chiêng4

* Ca choi

Ca choi (có nơi gọi là ca chơi) là một loại hát đối đáp. Ca có nghĩa là ca hát, choi (hay chơi) có nghĩa là đối lại. Giai điệu của ca choi trong sáng, đơn giản, nhưng rất mượt mà, tình cảm. Nội dung của ca choi thể hiện nhiều đề tài khác nhau: chuyện yêu đương, chuyện gia đình, chuyện xã hội, mừng quê hương, đất nước… Người Hrê còn dùng ca choi để hát đố lẫn nhau.

Ngoài chức năng dùng để đối đáp, người Hrê còn dùng chính giai điệu trong sáng, tình cảm của ca choi để có thể hát những bài hát mang tính chất giãi bày những nỗi niềm riêng tư, như nói về nỗi khổ nhọc, nghèo túng, mồ côi… Những người lớn tuổi thường sử dụng loại ca choi này.

* Điệu ta jeo

Điệu ta jeo là điệu hát cúng thần linh. Người Hrê cũng như các dân tộc miền núi Quảng Ngãi vốn theo tín ngưỡng đa thần, gồm các thiên thần, nhiên thần. Để khấn mời các vị thần linh, thầy cúng phải thuộc lòng các bài ta jeo khác nhau, tùy thuộc vào vị thần nào được khấn mời mà thầy cúng dùng bài hát cúng có nội dung phù hợp với vị thần đó. Giai điệu, tiết tấu cũng thay đổi trong từng đoạn hát cúng. Có các bài hát cúng như cúng thần gió, cúng thần sông, cúng thần suối, cúng ông bà, tổ tiên, cúng gọi hồn…

* Vađhô con

Vađhô con có nghĩa là hát ru con. Cũng như nhiều tộc người khác, hát ru của người Hrê dùng để ru con, ru cháu. Người Hrê có thể hát ru con ngay cả lúc địu con lên nương rẫy. Nội dung chính của các bài hát ru của người Hrê là chủ yếu là mong con ngủ để cha mẹ đi làm ruộng làm rẫy, để đi bẫy con thú, để vào rừng hái rau, hái củi và mong con lớn lên khỏe mạnh, thành người, biết bẫy thú, bẫy chim, biết làm ruộng, làm nương…

Nghệ nhân Phạm Văn Lơi và nghệ nhân Đinh Văn Rút (thị trấn Ba Tơ) biểu diễn bài ca lêu "Chúc nhau ăn Tết vui vẻ".
Nghệ nhân Phạm Văn Lơi và nghệ nhân Đinh Văn Rút (thị trấn Ba Tơ) biểu diễn bài ca lêu “Chúc nhau ăn Tết vui vẻ”.

Các loại nhạc cụ

Nhạc cụ của người Hrê chủ yếu được chế tác bằng chính bàn tay của các nghệ nhân dân gian, chủ yếu là dựa vào kinh nghiệm, bằng tai nghe, tay làm, mắt thấy, và sự trao truyền từ đời này sang đời khác. Ngoại trừ các bộ chiêng, còn lại hầu hết các loại nhạc cụ đều làm bằng những vật liệu sẵn có.

Người Hrê sử dụng các nhạc cụ dân gian để chơi trong những lúc rỗi rãi, trên nhà sàn, hoặc ngoài nương rẫy, cũng có khi được sử dụng trong các hội mùa, hội ăn trâu, để ru con ngủ, để tỏ tình… Tiêu biểu có các loại nhạc cụ sau:

* Đàn brook

Là một loại đàn phổ biến của nhiều dân tộc ở vùng Trường Sơn – Tây Nguyên, với các tên gọi hơi khác biệt chút ít, như brook, bro, vrook… Đàn brook có bầu đàn bằng trái bầu phơi khô, được khoét ruột; cần đàn là một ống lồ ô hoặc ống nứa dài khoảng 60 – 70cm, có đường kính khoảng 3 – 4cm; các phím đàn là những thẻ gỗ cây gạo hoặc bằng cật mây; có 2 dây, gồm một dây chồng (kxi klô) và một dây vợ (kxi kri). Đàn brook dành cho nam giới, dùng để chơi các giai điệu mang tính tự sự, mô phỏng tiếng chiêng, có khi còn để ru con ngủ, dùng trong tang ma của người Hrê…

* Đàn krâu

Cũng là một loại đàn phổ biến của các dân tộc vùng Trường Sơn – Tây Nguyên, với các tên gọi khác: goong, goong đe, tinh ninh, teng neng, puôi brol, brook tru… Đàn krâu cũng có bầu đàn bằng trái bầu khô, cần đàn ngắn hơn đàn brook (khoảng 50 – 60cm), nhưng đường kính lớn hơn đàn brook, khoảng 5 – 6cm; không có phím đàn. Đàn krâu thường có 8 -15 dây, nhưng phổ biến là 8 dây. Các khóa để căng dây đàn được làm bằng gỗ hoặc tre già. Đàn krâu cũng dành cho nam giới, dùng để chơi các bài ta lêu, đệm hát, mô phỏng các điệu chiêng ba, chiêng năm của người Hrê.

* Đàn chinh kla

Tiếng Hrê chinh có nghĩa là chiêng, kla có nghĩa là tre, chinh kla có nghĩa là chiêng bằng tre. Đây là một trong những loại nhạc cụ cổ sơ nhất trong tất cả các loại hình nhạc cụ có mặt ở Việt Nam. Đàn chinh kla được làm bằng một đốt tre già, dài khoảng 25 – 30cm, đường kính khoảng 15 – 20cm. Chung quanh ống tre có 8 – 10 dây đàn, được tước ra từ cật tre, hai đầu dây có những thanh gỗ, hoặc thanh tre nhỏ làm ngựa cho dây đàn. Bụng đàn có một lỗ thoát âm, vốn được khoét theo chiều dài của ống tre. Chinh kla cũng dành cho nam giới, dùng để mô phỏng tiếng chiêng, chơi các giai điệu ru con, các điệu ta lêu… Nhiều nơi người Hrê quan niệm, lúc trời giông thì không được chơi loại đàn này, vì nếu chơi trời sẽ nổi giận làm ra nhiều sấm sét, giông bão.

* Đàn rơđoang

Đàn rơđoang là một loại nhạc cụ họ dây kéo, có nơi gọi là k’ny. Đàn chỉ có một dây, được làm bằng gân thú, hoặc dây dứa, dây tơ, dây nilông, dây kẽm. Cung kéo là một thanh tre, hoặc nứa nhỏ (dùng để kéo). Cần đàn là một ống nứa dài khoảng 40 – 50cm, có 4 – 5 phím bằng sáp ong. Một sợi chỉ được buột chặt từ phía dưới thân đàn nối với một miếng kim loại. Khi diễn tấu, ngoài việc dùng cung kéo để kéo vào dây đàn, người diễn còn ngậm vào miếng kim loại để tạo nên một sự cộng hưởng âm thanh từ khoang miệng. Đàn rơđoang cũng chỉ dành cho đàn ông, dùng để chơi các giai điệu tự sự vào những lúc nhàn rỗi, hoặc mối mai vợ chồng…

* Đàn a khung

Được làm bằng 5 ống nứa, ống canh dài hơn 1m, đường kính khoảng 3,5cm; ống con mói dài khoảng 1m, đường kính khoảng 3,2cm; ống con váy dài khoảng hơn 80 cm, đường kính khoảng hơn 3cm; ốngcon pí dài khoảng hơn 70cm, đường kính khoảng 3cm; ống con pun dài khoảng hơn 60cm, đường kính khoảng gần 4cm. Khi diễn tấu đàn a khung phải có 2 người, một nam, một nữ, hoặc cả 2 nữ trong tư thế quỳ, ngồi bệt, hoặc đứng, tùy vị trí đặt đàn. Người ta dùng 2 bàn tay để vỗ vào đầu ống theo các giai điệu giao duyên, mừng ngày tết, hoặc chỉ đơn thuần là giải trí.

* Đàn và pút

Cũng được làm bằng ống nứa, có kích thước to, nhỏ như đàn rơđoang, nhưng chỉ có 3 ống. Cách chơi cũng giống như đàn rơđoang, nhưng thường chỉ được sử dụng vào dịp Tết, hoặc ở trong rừng, trong rẫy, ít thấy sử dụng trong nhà. Nhiều nơi cho rằng chơi và pút tài sản sẽ bay đi hết.

* Sáo tà lía

Là loại sáo dọc dài, được làm bằng ống nứa (trúc) già, có đường kính khoảng 1,5 – 2cm, dài khoảng 40 – 50cm. Sáo có một lỗ thổi ở đầu ống (ra pét) và 5 lỗ bấm dọc đường thẳng thân ống để tạo các thang âm. Sáo tà lía được dùng để hòa âm với các loại đàn brook, krâu, sáo a mó… vào dịp lễ tết, hoặc có khi chỉ để giãi bày tâm sự vào những đêm trăng sáng…

* Sáo a mó

Được làm bằng một ống triêng rừng, có độ dài khoảng 20 – 25cm, chỉ có một lưỡi gà, không có lỗ để bấm (người Cor gọi là a máp). Đây là nhạc cụ chỉ dành cho phụ nữ. Người chơi sẽ vừa thổi một đầu vừa lấy hai bàn tay đặt vào đầu kia làm hộp cộng hưởng… Sáo a mó dùng để hòa tấu cùng các nhạc cụ khác, để gọi con thức dậy vào sáng sớm, để giãi bày tâm sự…

Ông Đinh Ngọc Su đang biểu diễn nhạc cụ Tà Vỗ.
Ông Đinh Ngọc Su đang biểu diễn nhạc cụ Tà Vỗ.

* Sáo tà vố

Sáo tà vố là một nhạc cụ làm bằng đất sét. Đất sét dùng để làm sáo tà vố là loại đất sét màu đỏ, không pha cát, sỏi. Sau khi đập nhuyễn, nặn thành hình tròn như quả trứng, người làm sáo khoét rỗng ruột, làm các lỗ thổi, xong đem phơi khô. Sáo tà vố thường có 3 – 5 lỗ, khi diễn tấu các ngón tay sẽ bịt hoặc thả ra để tạo nên các thang âm. Sáo tà vố là một loại nhạc cụ cổ sơ nhất của loài người, là loại nhạc cụ dành cho trẻ em, dùng để gọi bạn tâm tình, khi chăn trâu, hoặc lên rẫy, lên nương.

* Sáo ra ngoái

Còn gọi là đàn ra ngoái, là loại kèn môi, cấu tạo đơn giản: chỉ là một miếng gỗ bằng tre, nứa, hoặc bằng gỗ mứt, và một thanh thép hoặc đồng. Khi diễn tấu, người chơi kẹp hờ hai miếng lại giữa 2 môi, rồi dùng ngón tay bật thanh thép qua lại để tạo ra những bồi âm. Sáo ra ngoái là loại nhạc cụ dành cho cả nam giới lẫn phụ nữ.

Chiêng 3 Hrê.
Chiêng 3 Hrê.

* Chiêng (chinh)

Người Hrê có bộ chiêng ba chiếc nổi tiếng bằng hợp kim đồng, không có núm. Khi chơi chiêng phải có 3 người chơi, và chỉ đánh bằng nắm tay (không dùng dùi như các dân tộc khác). Bộ chiêng ba của người Hrê gồm:

Chiêng túc: còn gọi là chiêng con, chiêng nhỏ nhất trong 3 chiếc. Khi chơi chiêng người chơi treo chiêng lên xà nhà, lấy tay phải bọc vải để gõ vào mặt ngoài của chiêng, tay trái bịt tiếng mặt trong của chiêng.

Chiêng k’tum: còn gọi là chiêng cha, là chiếc chiêng trung bình. Khi chơi chiêng người chơi tì chiêng lên đùi, tay phải đánh vào mặt chiêng, tay trái bịt âm bằng cả cùi tay.

Chiêng vồng: còn gọi là chiêng mẹ, là chiếc chiêng lớn nhất. Khi diễn tấu người chơi cũng đặt chiêng lên đùi, tay phải vừa đánh chiêng bằng nắm tay, vừa gõ chiêng bằng các đầu ngón tay, tay trái bịt lòng chiêng.

Người Hrê có những giai điệu chiêng ba đặc sắc, như: điệu túc năng, là điệu chiêng vui nhộn, thúc giục; điệu túc k’oa, là điệu chiêng mô phỏng tiếng ếch nhái; điệu túc h’lay, là điệu chiêng mô phỏng âm thanh của nước chảy; điệu tu guốc, là điệu chiêng mô phỏng tiếng chim hót.

Ở một số vùng tiếp giáp với huyện Kon Plông (Kon Tum), người Hrê còn có bộ chiêng 5 chiếc, nhưng không phổ biến.

Chú thích:

(3) – Theo Thế Truyền: Vài nét về âm nhạc dân gian của người Hrê và việc bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, Tạp chí Cẩm Thành số 25, 11.2000, tr. 69.

Đội nghệ nhân huyện Ba Tơ tham gia giao lưu đánh, múa cồng chiêng tại làng văn hóa các dân tộc Việt Nam ở Hà Nội.
Đội nghệ nhân huyện Ba Tơ tham gia giao lưu đánh, múa cồng chiêng tại làng văn hóa các dân tộc Việt Nam ở Hà Nội.

Độc đáo làn điệu dân ca dân tộc Hrê, Quảng Ngãi

(TH-Cinet-DTV)

Dân tộc Hrê ở Quảng Ngãi có nền âm nhạc dân gian khá đa dạng và phong phú. Trong đó, dân ca là một loại hình nghệ thuật diễn xướng được nhiều người yêu thích.

Trong số các nàn điệu dân ca của người H’rê phải kể đến H’chôi. H’chôi gồm có hai loại: “H’chôi i boi” và “H’chôi tăh têu” (hay còn gọi là “Tăh h’chôi”). H’chôi i boi là một làn điệu dân ca có bài bản, có nhịp điệu như một ca khúc mới, có nhiều bài và phổ biến nhất; còn H’chôi tăh têu nó chỉ có một lối hát, một bài mà thôi, là một làn điệu hát đối đáp, nên gọi là H’chôi tăh têu.

Người Hrê giải thích như sau: “Tăh têu” tức là đối đáp, “Tăh h’chôi” tức là hai người hát đối đáp làn điệu H’chôi tăh têu, hay nói cách khác, H’chôi tăh têu là tên của một làn điệu dân ca, còn Tăh h’chôi là khi hai người hát đối đáp với nhau làn điệu dân ca H’chôi tăh têu, lúc này gọi là “Tăh h’chôi”, nên gọi là làn điệu “Tăh h’chôi” cũng được.

H’chôi tăh têu là một làn điệu lối hát tự do, không có nhịp điệu, âm đầu tiên là âm lấy đà, âm thứ hai và âm cuối cùng của câu nhạc thường kéo dài hơi, các âm trong câu thường có chùm (liên) âm và từng âm một, hoặc hai, hát chậm rãi, đôi khi còn xen lời nói, rồi hát. Làn điệu H’chôi tăh têu về giai điệu âm nhạc thì có sẵn, còn phần lời thì người hát tự ứng tác tại chỗ theo nội dung sinh hoạt, nó không có bài bản cụ thể, nên làn điệu h’chôi tăh têu có thể hát nhiều nội dung khác nhau và người ta có thể hát với nhau suốt cả đêm mà không có đoạn kết.

Về nội dung thường thì người ta hát để tỏ tình giao duyên kết bạn, tâm tình kết sui gia, hoặc để trao đổi một công việc gì đó… người ta không tiện nói với nhau bằng lời nói cụ thể mà thông qua bằng âm nhạc, lời thơ dùng những từ ngữ ví von sâu xa, tinh tế, kín đáo, có vần điệu để diễn tả tình cảm của mình mà đối phương hiểu được ý tứ của nó; rồi đối phương đáp lại cũng vậy, dùng những lời thơ tinh tế, sâu sắc nhưng chỉ tập trung vào một nội dung mà hai người đang quan tâm, lời thơ đó phải đúng theo lối hát làn điệu H’chôi tăh têu, cứ thế cuộc “hát lý, nói lý” giữa hai người suốt cả đêm mà không có đoạn kết. Và phần diễn xướng giai điệu cũng vậy, người thể hiện cũng phải biết cách rung giọng, kéo dài hơi một cách khéo léo, hợp lý thì mới có thể tạo ấn tượng cho đối phương, và người nghe.

Đặc biệt, nếu hai người đều biết thổi Rangoiq (kèn môi), kết hợp vừa hát một đoạn, thổi một đoạn thì thật là hấp dẫn, độc đáo hơn nhiều. Nhưng những cặp như vậy không nhiều, bởi những kỹ năng thổi kèn môi khi nó vang lên âm thanh mà người nghe cảm nhận được ý tứ, nội dung của nó, đồng thời vừa suy nghĩ ứng tác những lời thơ sâu sắc, vần điệu và có lối hát ngọt ngào, mênh mông của làn điệu H’chôi tăh têu thật không dễ chút nào, nhất là với những người mới tập hát làn điệu này.

Vào các dịp Tết, cúng, đám cưới, hay sinh hoạt vui chơi, giải trí… ngồi bên ché rượu cần, khi có chút men rượu người ta thường rủ nhau hát làn điệu H’chôi tăh têu để giao lưu, tâm sự, chia sẻ tâm tư tình cảm của mình, hoặc để thể hiện khả năng tài nghệ hát h’chôi tăh têu, thổi rangoiq của mình với mọi người. Có những cặp hát với nhau suốt cả đêm mà không bên nào chịu kết thúc trước, làm cho không khí ngày vui thêm rộn rã, đầm ấm, và mang nhiều ý nghĩa…

Tiết mục làn điệu H'chôi tăh têu tại Liên hoan Dân ca Việt Nam năm 2011.
Tiết mục làn điệu H’chôi tăh têu tại Liên hoan Dân ca Việt Nam năm 2011.

H’chôi tăh têu” là một làn điệu dân ca độc đáo của dân tộc Hrê ở Quảng Ngãi

(Minh Đát)

Cũng như các dân tộc anh em khác, dân tộc Hrê ở Quảng Ngãi có nền âm nhạc dân gian khá đa dạng và phong phú. Dân ca là một loại hình nghệ thuật diễn xướng được nhiều người yêu thích, trong đó phải kể đến làn điệu H’chôi (Ca chôi).

H’chôi gồm có hai loại: “H’chôi i boi” và “H’chôi tăh têu” (hay còn gọi là “Tăh h’chôi”). H’chôi i boi là một làn điệu dân ca có bài bản, có nhịp điệu như một ca khúc mới, có nhiều bài và phổ biến nhất; còn H’chôi tăh têu nó chỉ có một lối hát, một bài mà thôi, là một làn điệu hát đối đáp, nên gọi là H’chôi tăh têu.

“Tăh têu” tức là đối đáp, “Tăh h’chôi” tức là hai người hát đối đáp làn điệu H’chôi tăh têu, hay nói cách khác, H’chôi tăh têu là tên của một làn điệu dân ca, còn Tăh h’chôi là khi hai người hát đối đáp với nhau làn điệu dân ca H’chôi tăh têu, lúc này gọi là “Tăh h’chôi”, nên gọi là làn điệu “Tăh h’chôi” cũng được.

H’chôi tăh têu là một làn điệu lối hát tự do, không có nhịp điệu, âm đầu tiên là âm lấy đà, âm thứ hai và âm cuối cùng của câu nhạc thường kéo dài hơi, các âm trong câu thường có chùm (liên) âm và từng âm một, hoặc hai, hát chậm rãi, đôi khi còn xen lời nói, rồi hát. Làn điệu H’chôi tăh têu về giai điệu âm nhạc thì có sẵn, còn phần lời thì người hát tự ứng tác tại chỗ theo nội dung sinh hoạt, nó không có bài bản cụ thể, nên làn điệu h’chôi tăh têu có thể hát nhiều nội dung khác nhau và người ta có thể hát với nhau suốt cả đêm mà không có đoạn kết.

Về nội dung thường thì người ta hát để tỏ tình giao duyên kết bạn, tâm tình kết sui gia, hoặc để trao đổi một công việc gì đó… người ta không tiện nói với nhau bằng lời nói cụ thể mà thông qua bằng âm nhạc, lời thơ dùng những từ ngữ ví von sâu xa, tinh tế, kín đáo, có vần điệu để diễn tả tình cảm của mình mà đối phương hiểu được ý tứ của nó; rồi đối phương đáp lại cũng vậy, dùng những lời thơ tinh tế, sâu sắc nhưng chỉ tập trung vào một nội dung mà hai người đang quan tâm, lời thơ đó phải đúng theo lối hát làn điệu H’chôi tăh têu, cứ thế cuộc “hát lý, nói lý” giữa hai người suốt cả đêm mà không có đoạn kết. Và phần diễn xướng giai điệu cũng vậy, người thể hiện cũng phải biết cách rung giọng, kéo dài hơi một cách khéo léo, hợp lý thì mới có thể tạo ấn tượng cho đối phương, và người nghe.

Đặc biệt, nếu hai người đều biết thổi Rangoiq (kèn môi), kết hợp vừa hát một đoạn, thổi một đoạn thì thật là hấp dẫn, độc đáo hơn nhiều. Nhưng những cặp như vậy không nhiều, bởi những kỹ năng thổi kèn môi khi nó vang lên âm thanh mà người nghe cảm nhận được ý tứ, nội dung của nó, đồng thời vừa suy nghĩ ứng tác những lời thơ sâu sắc, vần điệu và có lối hát ngọt ngào, mênh mông của làn điệu H’chôi tăh têu thật không dễ chút nào, nhất là với những người mới tập hát làn điệu này.

Ngày xưa trong các dịp Tết, cúng, đám cưới, hay sinh hoạt vui chơi, giải trí… ngồi bên ché rượu cần, khi có chút men rượu người ta thường rủ nhau hát làn điệu H’chôi tăh têu để giao lưu, tâm sự, chia sẻ tâm tư tình cảm của mình, hoặc để thể hiện khả năng tài nghệ hát h’chôi tăh têu, thổi rangoiq của mình với mọi người. Có những cặp hát với nhau suốt cả đêm mà không bên nào chịu kết thúc trước, làm cho không khí ngày vui thêm rộn rã, đầm ấm, và mang nhiều ý nghĩa..

Đàn vơ-roác bị thất truyền, nay cũng được khôi phục lại.
Đàn vơ-roác bị thất truyền, nay cũng được khôi phục lại.

Tâm huyết bảo tồn nhạc cụ dân tộc Hrê

(Đinh Thị Hương)

Bản sắc văn hóa truyền thống của người Hrê ở Quảng Ngãi rất phong phú và đa dạng, song lại đang có xu hướng bị mai một. Đáng mừng là, một nghệ nhân ở thị trấn Ba Tơ, tỉnh Quảng Ngãi, năm nay đã hơn 80 tuổi, vẫn miệt mài gìn giữ, lưu truyền nét đẹp văn hóa của dân tộc mình. Đó là nghệ nhân Đinh Văn Ước- một trong số ít người ở huyện Ba Tơ còn có thể chế tạo và sử dụng các loại nhạc cụ truyền thống của dân tộc Hrê.

Nghệ nhân Đinh Văn Ước giờ đây dù tuổi cao, sức đã yếu nhưng vẫn miệt mài ngồi gọt dũa từng thanh tre, nhặt từng vỏ bầu để làm nên những nhạc cụ truyền thống. Đến nay, nghệ nhân Đinh Văn Ước đã chế tạo lại thành công 4 loại nhạc cụ của người Hrê là đàn Vơ roát, Vơ rao, Ra đong, sáo Ta lía. Những nhạc cụ này đang được lưu giữ tại Bảo tàng Ba Tơ.

Nghệ nhân cho biết: Từ thời ông bà tổ tiên trước đây đã có những nhạc cụ đó rồi, nhưng hiện đã mất gần hết. Bây giờ, mình nhớ được cái gì thì mình chế tạo lại cái đó. Với mong muốn để con cháu có cái mà lưu giữ, học tập nên mình cố gắng làm cho bằng được.

Kinh tế phát triển, đời sống của bà con đồng bào Hrê cũng được nâng lên, giờ đây tuổi trẻ không mấy người mặn mà với những nhạc cụ truyền thống. Các làn điệu quen thuộc của đồng bào Hrê trước đây như cồng chiêng, hát Ta lêu, Ta choi, sáo Ta lía, đàn Vơ Roát, Rơ đong …đang dần bị mai một.

Vì vậy, ngoài việc để lại những nhạc cụ truyền thống, nghệ nhân Đinh Văn Ước còn mong con cháu có thể sử dụng thành thạo những nhạc cụ đó. “Giới trẻ bây giờ cũng có người biết sử dụng nhạc cụ truyền thống của người Hrê, tuy nhiên họ biểu diễn theo kiểu âm thanh sẵn, làm theo cái máy, hoặc cầm đàn nhảy theo nhạc, không có bài bản gì mà mình thấy đau lòng. Ngoài việc chế tạo lại các nhạc cụ thì mình cũng phải chỉ dạy cho con cháu cách sử dụng để mong sao đời sau vẫn có người giữ được bản sắc của dân tộc”- Nghệ nhân Đinh Văn Ước tâm sự.

Với những đóng góp cụ thể ấy, nghệ nhân Đinh Văn Uớc đã góp phần lưu giữ những nét đẹp truyền thống trong đời sống tinh thần của người Hrê.

Nghệ nhân Đinh Ngọc Su.
Nghệ nhân Đinh Ngọc Su.

Giao duyên qua tiếng đàn Ra-ngói của người H’re

(Văn Bốn)

Ngày xưa, thanh niên nam nữ dân tộc H’re đến tuổi trưởng thành dùng đàn Ra-ngói (đàn môi) để tìm hiểu, giao duyên với nhau. Nhiều đôi nam nữ đã thành vợ thành chồng qua tiếng đàn Ra-ngói.

Có dịp về với buôn làng đồng bào H’re, được nghe, cảm nhận cái hay, cái đẹp của loại nhạc cụ và cũng là phương tiện giao duyên độc đáo này chắc chắn sẽ đọng lại trong mỗi chúng ta bao điều thú vị.

Người H’re gọi đàn môiRa-ngói. Về cấu tạo, hình dáng đàn Ra-ngói của người H’re cũng giống như đàn môi của nhiều cộng đồng dân tộc khác. Ra-ngói thường được làm bằng thanh gỗ, hình dáng, kích thước như chiếc ghim đan lưới của bà con vùng biển, ở giữa có thanh thép dẹt. Khi chơi loại nhạc cụ này, người chơi đưa đàn lên môi, một tay giữ, một tay gảy thanh thép, kết hợp với sự điều khiển của đầu lưỡi và đôi làn môi, tạo nên thứ âm thanh trầm, ấm, chuyển tải rất hiệu quả tình cảm yêu thương của con người.

Có lẽ vì Ra-ngói có khả năng thể hiện tình cảm hiệu quả như vậy, nên từ xa xưa thanh niên nam nữ dân tộc H’re thường dùng để giao duyên với nhau. Hình thức giao duyên khá độc đáo này đã trở thành nét đẹp trong đời sống cộng đồng. Nghệ nhân Đinh Ngọc Su khẳng định: “Trước kia người H’re chưa có phương tiện viết thư trao đổi tâm tình, Ra-ngói là phương tiện tỏ tình phổ biến và hiệu quả nhất”.

Cũng có lẽ vì hiệu quả như vậy mà thanh niên nam, nữ dân tộc H’re ngày xưa đến tuổi trưởng thành đều biết chơi đàn Ra-ngói. Trong túi áo họ lúc nào cũng thủ sẵn một chiếc đàn và sẵn sàng rung lên cùng với nhịp đập của trái tim trước người mình yêu thương.

Qua tiếng đàn ra-ngói, người con trai tỏ lòng với người con gái yêu thương thế này:

Em ơi em ơi!
Em có ưng tôi không?
Tôi có đẹp không?
Tôi đẹp, em có ưng tôi thì hai đứa cùng tìm hiểu.
Em chưa chồng, tôi chưa vợ, hãy nói với nhau cho biết!

Nếu người con gái có cảm tình với người con trai, cũng dùng Ra-ngói tỏ rõ lòng mình:

Em chưa có chồng.
Anh thương em thiệt tình thì em cũng thương anh.
Mình đừng phỉnh nhau.
Nếu phỉnh nhau là có lỗi với nhau.
Phải cúng trâu cúng bò tạ lỗi với nhau.
Đó là lời hứa với nhau.
Em hứa với anh,
anh hứa với em thật lòng,
để sau này anh, em thành vợ chồng.

Còn nếu như người con gái đã có người yêu, không thể nhận lời, sẽ khéo léo từ chối. Đại loại như: không ưng anh vì em đã có người này người kia, hay vì hoàn cảnh nào đó. Hoặc em là người thế này, thế nọ, em nghèo, em xấu, không có nhiều trâu, nhiều chinh, ché, không xứng với anh. Hoặc em không ưng không phải do anh xấu, do anh nghèo mà là do số phận, trời không cho chúng mình lấy nhau….

Theo phong tục truyền thống của người H’re, sự chủ động bày tỏ tình cảm lứa đôi không phân biệt nam hay nữ chủ động trước, mà hoàn toàn bình đẳng với nhau. Trước người con trai khỏe mạnh siêng năng, giỏi làm cái rẫy, biết đánh túc-chinh hay, chơi đàn Ra-ngói hay, được người con gái đem lòng yêu thương và chủ động tỏ tình. Với người con gái dùng tiếng đàn Ra-ngói ghẹo người con trai thường ý nhị, kín đáo hơn:

– Anh ơi, lúc giờ anh bận gì không. Anh không bận, về nhà em nói chuyện với nhau.

Hoặc trách khéo:

– Lâu nay sao anh không đến thăm nhà em. Em ưng anh thăm nhà em để có dịp nói chuyện với nhau…

Sau đó tiếp tục gặp nhau tìm hiểu và hợp nhau nên vợ nên chồng.

Ra-ngói với thanh niên nam nữ dân tộc H’re ngày xưa quan trọng như vậy, nên đến tuổi trưởng thành ai cũng học và biết đàn Ra-ngói. Sau một ngày làm việc trên nương, rẫy tối về đi chơi, thanh niên nam, nữ thường thủ sẵn đàn Ra-ngói trong túi áo. Đến nhà người mình yêu, dùng tiếng đàn để tán tỉnh, giao duyên:

Em ơi em, em muốn nghe anh chơi đàn Ra-ngói hay không.
Anh hãy đàn đi. Em sẵn sàng nghe anh đây.

Thế là tiếng đàn Ra-ngói thay tiếng nói con tim, ngân lên nhiều cung bậc, lúc nhẹ nhàng như tiếng xào xạc của lá rừng, lúc dịu nhẹ như giọt sương đêm tinh khiết và lúc tuôn trào như dòng thác, thổn thức lời yêu thương thay tiếng nói con tim.

Ông Đinh Ngọc Su đang biểu diễn nhạc cụ Tà Vỗ.
Ông Đinh Ngọc Su đang biểu diễn nhạc cụ Tà Vỗ.

Người Hrê “vắt đất ra nhạc”

(Bài và ảnh: Nguyễn Đăng Lâm)

Tại lễ tổng kết 15 năm về “Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” do Tỉnh Quảng Ngãi tổ chức cuối tháng 5 vừa qua, hơn 250 đại biểu dự hội nghị đã chăm chú lắng nghe nghệ nhân dân gian Đinh Ngọc Su – người dân tộc Hrê, Chi hội trưởng Chi hội Người cao tuổi thôn Tà Pa, xã Sơn Thượng, huyện miền núi Sơn Hà biểu diễn một nhạc cụ rất độc đáo mà người Hrê gọi là Tà Vỗ được làm từ đất sét.

Âm thanh của nhạc cụ này đã làm say đắm bao lòng người không những đối với người Hrê, những người dự hội nghị mà còn đối với các dân tộc trong và ngoài nước. Chính vì vậy, ông rất vinh dự được người dân Hrê trân trọng phong tặng cho ông biệt danh- Người “Vắt đất ra nhạc”.

Huyện miền núi Sơn Hà (Quảng Ngãi) có 4 dân tộc anh em cùng chung sống gồm: Hrê, Kinh, Kor, Cadong với tổng dân số trên 71.000 người, dân tộc Hrê chiếm 82%. Mỗi dân tộc đều có bản sắc văn hóa riêng, phong phú, độc đáo, đã góp phần tạo nên bức tranh mang sắc thái đa dạng. Tại vùng đất miền núi Sơn Hà đã và đang là mảnh đất có sự giao thoa tinh hoa văn hóa các dân tộc trong tỉnh.

Nghệ nhân dân gian Đinh Ngọc Su năm nay vừa tròn 70 tuổi, sinh ra và lớn lên tại Làng Ec, thôn Tà Pa, xã vùng cao Sơn Thượng, huyện Sơn Hà. Năm 13 tuổi, Đinh Ngọc Su bắt đầu tham gia cách mạng và được kết nạp vào đảng từ những năm đầu kháng chiến chống Mỹ. Sau khi về hưu ông được tín nhiệm giao giữ chức Chủ tịch Ủy ban MTTQ xã Sơn Thượng. Nay tuổi cao sức yếu, ông giữ chức Chi hội trưởng Chi hội Người cao tuổi thôn Tà Pa.

Ông Su tâm sự: “Tôi may mắn được sinh ra và lớn lên tại xã vùng cao Sơn Thượng, huyện Sơn Hà, nơi luôn có giai điệu âm thanh réo rắt, nhộn nhịp như mời gọi bạn đến nhà. Ngay từ lúc còn bé, bản thân tôi đã say mê, thích thú với những làn điệu dân ca của quê hương, những nhạc cụ truyền thống của dân tộc mình. Nhờ được cha mẹ truyền dạy cách biểu diễn các loại nhạc cụ của người Hrê, được nghe các lớp cha anh biểu diễn các loại đàn a khung, prot, krâu, vút, ngói, ra ngoáy.. những âm thanh của các nhạc cụ cứ vang vọng, lúc líu lo như tiếng chim gọi bầy, lúc mênh mang như gió rừng chạy dài trên vách núi của rừng núi đại ngàn, cũng có lúc êm dịu trữ tình như những bản tình ca ca ngợi tình yêu và mùa vàng ngay trên quê hương đã cuốn hút tôi mê say tự lúc nào… Từ đó, tôi dần dần học hỏi, chế tác các nhạc cụ truyền thống và nuôi dưỡng ước mơ truyền dạy các nhạc cụ truyền thống ấy cho con cháu hôm nay…”.

Từ trước đến nay, ngoài việc thực hiện công tác của cơ quan phân công, nhiệm vụ nào được giao ông cũng hoàn thành, ông luôn dành quỹ thời gian để nghiên cứu, sưu tầm các làn điệu dân ca, các loại nhạc cụ dân tộc và chế tác một số nhạc cụ truyền thống của dân tộc Hrê. Đặc biệt là nhạc cụ Tà Vỗ.

Nghệ nhân Đinh Ngọc Su cho biết: Nhạc cụ Tà Vỗ là loại nhạc cụ đơn giản nhưng rất khó làm để có được âm thanh hay, vì nguyên liệu làm nhạc cụ này chỉ là đất sét được nhào thật nhuyễn, sau đó nắn thành hình như quả cau, to bằng trứng vịt, cắt thành 2 mảnh, dùng dao hoặc cây nhọn khoét rỗng ruột sau đó hai mãnh đất áp lại, khoét một lỗ thổi, một lỗ thông hơi và ba lỗ điều chỉnh âm tiết cao thấp theo ý đồ của người thổi, sau đó đưa ra phơi nắng nhiều ngày cho thật khô, thế là hoàn thành sản phẩm nhạc cụ Tà Vỗ.

Nghệ nhân Đinh Ngọc Su cho biết thêm, ngoài nhạc cụ Tà Vỗ, ông còn chế tác và biểu diễn nhuần nhuyễn các loại nhạc cụ khác của dân tộc Hrê như đàn a khung, krâu, vút, ngói… Đối với nhạc cụ Tà Vỗ, trẻ em thường được sử dụng nhiều nhất là vào thời điểm lúa trên nương rẫy vừa thu hoạch xong, bên những nương lúa chỉ còn trơ gốc rạ, lũ trẻ lùa trâu ra đồng, để trâu gặm cỏ, vừa chăn trâu, vừa thi, thổi làm Tà vỗ, các em sử dụng Tà Vỗ vào những buổi hoàng hôn khi gọi bạn và đàn trâu về.

Còn đối với người lớn, âm thanh ấy là nỗi lòng của người Hrê hiền lành, chất phác, hồn nhiên, là lời nhắn gửi, thăm hỏi chân tình giữa những người thân trong gia đình, giữa những người dân trong bản làng, âm thanh của Tà Vỗ như một bản tình ca về tình yêu quê hương đất nước. Riêng với ông Su, âm thanh của Tà vỗ từ lâu đã trở nên quen thuộc, gắn kết với cuộc đời ông.

Hiện nay trong quá trình hội nhập quốc tế đang diễn ra nhanh chóng, nhất là các loại nhạc cụ hiện đại ngày càng nhiều và đang lan tỏa đến mọi miền quê, kể cả vùng núi cao quê ông, các loại nhạc cụ mới phần nào ảnh hưởng đến văn hóa của dân tộc tại địa phương. Trước thực trạng đó ông nghĩ rằng: Những nhạc cụ truyền thống của người dân tộc Hrê sẽ dần dần mai một, nếu chúng ta không giữ gìn, bảo tồn, phát huy và truyền dạy lại cho con cháu ngay từ bây giờ thì sẽ mất đi nét văn hoá riêng của dân tộc mình.

Chính vì vậy, không dừng lại ở việc nghiên cứu, sưu tầm, chế tác các loại nhạc cụ truyền thống của cha ông, trong nhiều năm qua ông đã chủ động đến các trường tiểu học, trung học cơ sở của xã và một số xã trong huyện để liên hệ với Ban giám hiệu nhà trường truyền dạy cách chế tác, cách sử dụng và biểu diễn các loại nhạc cụ cho các em học sinh, nhất là nhạc cụ Tà Vỗ. Đến nay riêng tại xã Sơn Thượng quê ông đã có trên 35 em học sinh là con em dân tộc Hrê biết chế tạo và biểu diễn thành thục các nhạc cụ truyền thống của người dân tộc Hrê.

Với nhạc cụ Tà Vỗ của mình, từ trước đến nay qua biết bao lần tham gia hội diễn hoặc liên hoan âm nhạc từ cấp huyện đến cấp quốc gia, lần nào ông cũng nhận được giải thưởng. Tháng 5/2007, ông vinh dự được Chủ tịch Hội Văn nghệ dân gian tặng Bằng công nhận danh hiệu “Nghệ nhân dân gian”; Năm 2009 tham gia cuộc thi biểu diễn âm nhạc toàn quốc tại Phú Yên ông đoạt giải A; ông được Hội Văn học nghệ thuật tỉnh chọn cùng với một số nghệ nhân khác sang giao lưu với Đoàn nghệ thuật JeIu- Hàn Quốc, mới đây ông được cử đi giao lưu âm nhạc với Đoàn Văn hoá nghệ thuật dân gian Thụy Điển tại Hà Nội và ông đã nhận nhiều Bằng khen của UBND tỉnh Quảng Ngãi về thành tích sưu tầm, nghiên cứu, truyền dạy, chế tác các loại nhạc cụ và công tác xây dựng đời sống văn hóa tỉnh Quảng Ngãi. Nghệ nhân Đinh Ngọc Su là tấm gương tiêu biểu của người Hrê đã góp phần lớn tại địa phương xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiến tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

hre_chiêng_Đồng bào dân tộc H'rê biểu diễn chiêng mừng nhà mới.

Đôi nét về nghi lễ, lễ hội của người Hrê

(Cinet tổng hợp)

Dân tộc Hrê còn có các tên gọi khác Chăm Rê, Chom, Thượng Ba Tơ, Mọi Luỹ, Chăm Quảng Ngãi, Mọi Chòm, Rê, Màn Thạch Bích. Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Môn – Khơ Me. Dân tộc Hrê cư trú chủ yếu ở các huyện Sơn Hà, Ba Tơ, Minh Long (Quảng Ngãi) và An Lão (Bình Ðịnh).

Người Hrê có nhiều kiêng cữ và lễ thức tôn giáo, xuất phát từ quan niệm mọi vật đều có hồn hay ma và con người bị các lực lượng siêu nhiên chi phối. Khi ốm đau, rủi ro, khi làm nhà, mang thai, đẻ khó, có người chết, khi gieo cấy và gặt hái, khi gieo và tuốt lúa, khi đưa thóc lên kho và lần đầu lấy thóc về ăn… đều cúng bái. Vì vậy hàng năm họ đều tổ chức những nghi lễ hay lễ hội để xua đi những xúi xẻo, của dịch bệnh, cầu mong điều an bình trong cuộc sống.

Nghi lễ cơm mới

Người Hrê chủ yếu sống bằng nghề làm lúa nước và nương rẫy với kỹ thuật canh tác lúa nước như vùng đồng bằng Nam Trung bộ. Đồng bào chăn nuôi nhằm phục vụ các lễ cúng bái. Vì vậy, Tín ngưỡng hồn lúa cùng các lễ thức trong quá trình sản xuất lúa chiếm vị trí đáng kể, tập trung vào hai giai đoạn của mỗi mùa, khi gieo cấy và khi thu hoạch, cất lúa vào kho.

Vị trí người đàn bà chủ lúa – vợ chủ nhà là người quản lý lương thực được coi là có liên hệ thần bí với hồn lúa. Ngày cúng cơm mới, bà ta lấy lúa từ ruộng rẫy về rang, giã gạo, nấu cơm rồi chịu lễ và một mình ăn cơm nấu trong “nồi thiêng”. Cũng chỉ bà mới được tỉa lúa làm phép, đem gùi lúa đầu tiên về nhập kho.

Lễ hội đâm trâu

Lễ hội đâm trâu của người Hrê luôn thu hút đông đảo dân làng, người quen đến dự. Người Hrê tổ chức lễ hội nhằm cầu an, ngăn ngừa bệnh tật. Ðây là nghi lễ mang tính chất cộng đồng.
Bước đầu tiên của lễ cúng trâu là dựng cây nêu (cọc buộc trâu để đâm), Cây nêu như một trục thông linh. Thời gian chuẩn bị cây nêu káo dài cả tháng, với sự tham gia của những người thợ thủ công điêu luyện.

Các trai tráng trong làng được giao nhiệm vụ vào rừng chặt hạ 5 cây gỗ, mỗi cây có đường kính 15cm và dài trên 20m, để nguyên cả cành, lá. Ngày nay, người ta lấy cây tre để làm cây nêu (giống người Kinh). Dùng 1,2m phía gốc để chôn, còn lại chia làm 3 phần để chạm khắc: hình răng cưa tượng trưng cho núi đồi; đường lượn sóng tượng trưng cho sông, suối; các hình ô vuông tượng trưng cho ruộng đồng; các hình tam giác đối đỉnh tượng trưng cho sinh thực khí nam và nữ. Ngoài ra còn chạm trổ hình các con vật như khỉ, hươu, nai, chim chèo bẻo, tu hú, sóc, chim sẻ… cây cối, mặt trời, mặt trăng…Đầu cột nêu là hình 1 cái lá dài 1,5m được đan bằng sợi dây mây chẻ nhỏ, giữa lá có hình chim chèo bẻo bằng gỗ, màu vàng. Đó là biểu tượng của họ, bởi theo họ, chim chèo bẻo là một loài chim hiền lành, trung thực, yêu lao động, ghét lười biếng và ngoan cường. Việc chôn cây, theo họ còn là sự giao thoa giữa âm và dương. Nơi đâm trâu phải là nơi khu rừng nhỏ, nơi ấy gọi là đất thiêng.

Sau khi chủ lễ và thầy cúng xin phép thần linh, người ta dẫn trâu ra buộc ở cây nêu. Rồi thầy cúng mời thần linh về nhận lễ, mọi người vừa đánh chiêng, trống, vừa nhảy múa ca hát xung quanh con trâu.

Vị chủ lễ mặc quần áo dài đen, đầu chít khăn, tay cầm hộp trầm hương bốc khói đi quanh con trâu, miệng lầm rầm bài cúng cầu mong thần linh phù hộ cho gia đình, làng bản.

Sau khi hoàn tất thủ tục, chủ lễ đâm nhát dao đầu tiên vào con trâu (đối với lễ gia đình). Đối với lễ đâm trâu cộng đồng, hai trai làng cầm giáo dài xông vào đâm trâu như 2 chiến binh. Tiếp đến là những thanh niên khoẻ mạnh, tay cầm giáo mác nối đuôi nhau vừa ca hát, nhảy múa, vừa đâm trâu.

Con trâu ngã xuống, người ta lấy máu trâu bôi lên hoa văn của cây nêu, xả thịt trâu một phần chia về bếp các hộ gia đình, bếp làng có người chế biến đồ cúng cho thần linh.

Tiếp đó người ta thịt heo, gà để tế thần và trọn vẹn “tam sinh”. Khi tế thần, phụ nữ được phân việc dâng rượu. Mọi người cùng nhảy múa, ca hát, tiếng hú dài xen lẫn nhịp trống, chiêng làm náo động cả một vùng. Lễ đâm trâu thường kéo dài 2 đến 3 ngày đêm. Ở người Hrê, cũng kéo dài tới 5, 7 ngày đêm… thu hút nhiều làng bản lân cận cùng tham dự.

Trong các lễ hội văn hóa – thể thao, cúng trâu, cúng được mùa là dịp để trai gái trong và ngoài làng cùng uống rượu, cùng múa hát và mạnh dạn tỏ tình với nhau./.

Hoa gạo nở rộ, người Hrê ăn Tết (ảnh VB).
Hoa gạo nở rộ, người Hrê ăn Tết (ảnh VB).

Người Hrê ăn Tết truyền thống khi hoa gạo nở rộ tháng Ba

(Văn Bốn)

Sau Tết Nguyên đán, đồng bào dân tộc Hrê ở miền núi Quảng Ngãi cũng bắt đầu tổ chức ăn Tết truyền thống của dân tộc mình. Tết của người Hrê không diễn ra cùng lúc. Mỗi buôn làng định ra ngày ăn Tết riêng, nhưng thường tập trung nhiều nhất vào khỏang tháng 3, khi hoa gạo nở rộ, đỏ rực trên khắp núi rừng, và đêm về vầng trăng tỏa sáng lung linh khắp buôn làng.

Những người cao tuổi trong buôn làng sẽ bàn bạc với nhau và chủ làng (Krắc -play) là người sẽ quyết định ngày dân làng tiến hành ăn Tết. Không khí buôn làng những ngày trước Tết rộn rịp vui tươi.

Chuẩn bị ăn Tết, đàn ông vào rừng chọn cây tre to, đặc về làm trụ cửa chuồng trâu; lấy dây mây nhỏ làm dây treo ching chủ (tiếng Hrê gọi chiêng là ching. Bộ ching của người Hrê có 3 chiếc, gọi là ching ba. Ching chủ là chiếc lớn nhất). Các bà, các cô gái thì đi lấy cây lồ ô làm đàn vinh-vút, kiếm cây triên về làm cần uống rượu cần (cà-rỏ); lấy cây trảy về làm trụ buộc chóe rượu; kiếm nhiều lá dong về gói bánh; và bắt con cá dưới suối về nuối chua, ăn kèm với bánh lá dong những ngày Tết.

Chuẩn bị đón Tết, các gia đình khui hầm chum, chóe, nồi bảy và chuẩn bị lúa nếp làm rượu cần. Nhà khá giả ngày tết có từ 5 đến 6 chóe rượu cần trở lên.

Làm rượu cần là công việc của người phụ nữ. Theo các bà các mẹ có kinh nghiệm làm rượu cần cho biết, chóe rượu thơm ngon ngòai sử dụng nguyên liệu (mì, nếp, ngô…), cách chế biến men, còn phải qua bàn tay khéo léo và kinh nghiệm của người phụ nữ trong gia đình. Điều đặc biệt trong ngày Tết, chóe rượu cần thơm ngon nhất sẽ được gia đình lựa chọn mang ra mời khách. Điều đó thể hiện sự trân trọng của chủ nhà, nhưng đồng thời cũng là sự ý nhị của người phụ nữ gia chủ khoe với khách về sự khéo léo của mình.

Sinh hoạt dân làng Hrê (ảnh VB).
Sinh hoạt dân làng Hrê (ảnh VB).

Nhân đây cũng nói thêm rằng, trong tiềm thức sâu xa của người Hrê, chóe rượu cần còn có cả linh hồn. Ngày xưa người Hrê còn cúng thần linh, mong cho chóe rượu cần làm ra thơm ngon, vị ngọt, vị đắng đều nhau, quyện vào nhau, để cái miệng của khách uống không biết chán, say không biết đường về, say đến “tuột khố, tốc váy” mới vui, chủ nhà mới thỏa lòng.

Rượu cần từ khi bắt đầu làm, ủ cho đến khi uống được thường mất khoảng một tháng. Kinh nghiệm của người Hrê dùng lá chuối bịt kín miệng choé rượu cần. Khi lá chuối bịt miệng chóe rượu khô, trở sang màu vàng úa, tức là rượu đã chín, uống được, sẵn sàng đem ra cúng thần linh. Lúc này Chủ làng tuyên bố ngày vô lá (tức là ngày dân làng mang lá dong vào nhà gói bánh – và cũng là ngày hôm trước chính thức ăn Tết). Công việc chuẩn bị ăn tết của người Hrê ngày xưa bận rộn nhất vào ngày vô lá này.

Ngày hôm đó cả nhà cùng dọn dẹp, sửa sang lại nhà cửa, tu sửa lại chuồng con trâu, tranh thủ đi bắt hêm con cá dưới suối, bẫy con thú trên rừng để bữa tiệc ngày Tết thêm đủ đầy. Và cũng như người Kinh gói bánh, nấu bánh tét, bánh chưng đêm 30 Tết, chiều và tối của ngày vô lá, các gia đình người Hrê cũng gói và nấu bánh lá dong bằng nếp rẫy. Khi ông mặt trời chuẩn bị khuất núi đi ngủ, gà bắt đầu lên chuồng là lúc bánh lá dong đã gói xong, đưa lên bếp lửa giữa nhà sàn, nấu bánh cho đến sáng hôm sau.

Bánh lá dong của người Hrê có đôi và bánh đơn. Bánh đôi là bánh bó chung hai chiếc bánh đơn lại thành cặp trước khi nấu. Bánh đơn còn gọi là bánh cử, mỗi người trong gia đình một chiếc, ăn vào sáng đầu năm. Nghe nói ngày xưa, mỗi thành viên trong cộng đồng đều lưu lại vỏ chiếc bánh cử này, xâu vào sợi dây và treo lên vách nhà để tính tuổi trong đời. Đó là chuyện ngày xưa, tục tính tuổi bằng lá nay đã mai một, hầu như không còn thấy nữa.

Bánh lá dong (ảnh VB).
Bánh lá dong (ảnh VB).

Vào ngày tết thứ nhất, khi con chim Vơ-linh (chèo bẻo) trên rừng gọi mặt trời thức dậy, khi sao Mai còn lấp lánh trên bầu trời, các gia đình trong làng bắt đầu dọn nhà, xua đuổi tà ma, xua đuổi điều xấu, rước điều tốt vào nhà và làm lễ rước thần linh, tổ tiên về ăn Tết cùng người sống, cầu mong sự no đủ, tránh được điều xấu, tránh kẻ ác.

Điều đặc biệt ngày Tết của người Hrê là tục cúng con trâu vào sáng ngày Tết thứ hai (tục cúng con trâu gọi là Ta-reo-kpơ). Ngày xưa, với người Hrê con trâu ngoài giá trị hình thức biểu hiện sự giàu có của gia đình, còn là vật hiền lành thân thương, gắn bó với con người, giúp kéo gỗ, kéo cày…, nên lễ cúng trâu đặc biệt quan trọng, nhằm cầu mong con trâu nhà mình luôn mập tròn như trái sim chín. Lễ cúng trâu xong, chủ nhà dọn cơm nấu trong ống lồ ô, cùng rượi, thịt, bánh lá dong… mời khách cùng cả nhà ăn uống no say.

Dịp này, người lớn tuổi kể Hmon (như hình thức kể khan của các dân tộc Tây Nguyên) cho con cháu nghe, tự hào về truyền thống dân tộc mình, buôn làng mình; dân làng tập trung vui hát Klêu, Kchoi (các làn điệu dân ca của người Hrê); con trai trổ tài tục ching (đánh chiêng), múa gươm, phóng lao, đánh vật, leo núi; các cô gái trổ tài nhảy múa, đánh đàn vinh-vút (loại nhạc cụ làm bằng hai ống lồ ô của người Hrê), khoe vòng kiềng và những bộ váy thổ cẩm truyền thống do tự mình diệt lấy. Cuộc vui kéo dài trong suốt những ngày Tết.

Một tháng 3 nữa đang về trên quê hương miền núi Quảng Ngãi thân thương, sắc xanh thắm của núi rừng đỏ lên màu hoa gạo, người Hrê lại ăn Tết truyền thống của dân tộc mình. Bản sắc văn hóa dân tộc được gìn giữ phát huy.

Độc đáo kiến trúc nhà sàn dân tộc Hrê.
Độc đáo kiến trúc nhà sàn dân tộc Hrê.

Buộc mây, độc đáo kiến trúc nhà sàn dân tộc Hrê.

(TQ-DTV)

Nét độc đáo trong kết cấu kiến trúc nhà sàn của người Hrê là cách thức buộc mây để liên kết các bộ phận kiến trúc của ngôi nhà sàn. Phương pháp liên kết bằng cách thức buộc mây là phương pháp phổ biến, độc đáo và là đặt trưng trong ngôi nhà sàn Hrê.

Người Hrê sống chủ yếu ở miền tây tỉnh Quảng Ngãi (các huyện Sơn Hà, Ba Tơ, Minh Long) và tỉnh Bình Ðịnh (huyện An Lão), một số ít ở tỉnh Kon Tum (huyện Kon Plông). Mỗi làng người Hrê cư trú thường có khoảng vài chục ngôi nhà sàn. Nhà sàn của người Hrê được xây dựng quần tụ theo chiều ngang của triền chân đồi. Các ngôi nhà được bố trí theo từng lớp từ thấp đến cao.

Người Hrê gọi làng của mình là plây, cách gọi này giống với cách gọi của các dân tộc Bana, Giarai,… Làng xóm Hrê được xây dựng dọc theo các con sông. Mặc dù tộc người Hrê cư trú trên địa vực rộng lớn của vùng núi rừng miền Tây Quảng Ngãi, song họ vẫn bảo lưu được tập quán xây dựng làng theo lối riêng của dân tộc mình.

Làng Hrê có chung những đặc điểm xây dựng theo địa hình cảnh quang, được bố trí kiến tạo ven theo triền chân đồi, cao ráo, quang đãng. Người Hrê luôn luôn chọn vị trí làng của họ ở về phía Đông, Tây hoặc phía Nam triền chân đồi. Họ lấy quả đồi nơi cư trú hoặc những dãy núi xung quanh để che chắn ngọn gió Bấc của mùa Đông khắt nghiệt. Làng luôn quay mặt về phía có gió nồm để được thoáng mát, đón ánh sáng mặt trời buổi sáng để đề phòng và trừ khử dịch bệnh.

Người Hrê ở nhà sàn, mặt nhà sàn cao hơn mặt đất trung bình một mét, vách dựng nghiêng phía trên ra ngoài, hai đầu dốc có hình hai sừng thú. Mỗi đầu sàn nhà đều có một khoảng không gian ngăn cách với trong nhà.

Kiến trúc nhà sàn dân tộc Hrê.
Kiến trúc nhà sàn dân tộc Hrê.

Người Hrê làm nhà vào thời gian tháng 8 và tháng 9 trong năm. Các loại gỗ rắn chắc như gỗ ké, gỗ mít… được ưa chuộng, dùng làm cột sàn, cột vách, kèo, trính. Người Hrê thường đốn cây gỗ vào ngày 29, 30 (âm lịch) của các tháng Hè và Thu, bởi vì trong thời điểm này nhựa thân trở nên ít, khiến cho các thớ gỗ không bị mối mọt phá hoại.

Thời gian để dựng hoàn thành một ngôi nhà sàn Hrê trong vòng từ 4 đến 6 ngày theo một số quy trình và thao tác nhất định.Người Hrêdựng 2 hàng cột sàn và cột vách. Sau đó,họ dựng bộ khung nhà gồm: gác trính, xà qua các đầu cột theo kiểu ngoài buộc dây mây, đồng thời gác tay kèo ở hai đầu hồi và gác đòn tay mái nằm theo chiều dọc của ngôi nhà. Vỏ mái gồm ron, mè kết cấu theo lối buộc nẹp ngang dọc song song nhau và được làm trước ở dưới mặt đất, sau đó đưa lên buộc vào các đòn tay mái để làm vỏ mái.

Một vấn đề quan trọng khác không thể không đề cập trong kết cấu kiến trúc nhà sàn của người Hrê là cách thức buộc mây để liên kết các bộ phận kiến trúc của ngôi nhà sàn. Họ tạo dựng sàn bằng hệ thống cây ngang dọc, có kết cấu với nhau hết sức chặt chec qua hệ thống dây buộc vào cột nhà và cột nâng nhà, sau đó mặt sàn được trải lớp giát sàn bằng tre ken mây phẳng phiu. Vách nhà được làm bằng tre đan phên ken dày, hoặc dùng cây rừng tròn, có đường kính 2- 2,4cm ghép sát vào nhau lấy dây mây buộc chặt.

Phương pháp liên kết bằng cách thức buộc mây là phương pháp phổ biến, độc đáo và là đặt trưng trong ngôi nhà sàn Hrê. Trên mái nhà của người Hrê còn có biểu tương hai cặp sừng trâu bằng rơm. Đặc điểm này làm nên nét đặc trưng rất riêng biệt trong văn hoá dựng nhà của người Hrê so với các dân tộc khác.

Nhà sàn là một trong những nét văn hóa rất đặc trưng, là một phần bản sắc văn hóa của đồng bào các dân tộc Hrê. Thế nhưng vài năm gần đây, do tác động của một số nguyên nhân, đồng bào dân tộc Hrê cũng đã và đang có xu hướng thoát ly dần với những cái nhà sàn truyền thống. Nhà trệt đã dần thay thế nhà sàn, bóng dáng nhà sàn trong các buôn làng Hrê theo đó cũng thưa dần.

Một tiết mục của người H’rê huyện Ba Tơ tham gia Liên hoan cồng chiêng, đàn và hát dân ca các dân tộc thiểu số tỉnh Quảng Ngãi năm 2012.
Một tiết mục của người H’rê huyện Ba Tơ tham gia Liên hoan cồng chiêng, đàn và hát dân ca các dân tộc thiểu số tỉnh Quảng Ngãi năm 2012.

Quảng Ngãi: Phong tục mai mối trong hôn nhân của người Hrê xưa

(TH-Cinet-DTV)

Phong tục mai mối trong dựng vợ gả chồng của người Hrê bao đời nay là một trong những nét đẹp truyền thống trong đời sống hôn nhân của họ.

Đồng bào dân tộc Hrê ở miền núi Quảng Ngãi từ lâu đời đã hình thành nên bản sắc văn hóa truyền thống rất rõ nét. Trong đó phải kể đến các phong tục trong đời sống hôn nhân. Đối với người Hrê ở Quảng Ngãi, chuyện dựng vợ gả chồng trước tiên là do người đi mai mối (đi hỏi) gầy dựng nên, hoặc là do hai bên gia đình kết bạn làm sui gia với nhau, tức cha mẹ sắp đặt con cái lấy vợ lấy chồng theo ý của mình, làm sui với nhau lúc con còn nhỏ, thậm chí còn đang trong bụng mẹ. Tuy nhiên, khi đến lúc chuẩn bị tổ chức đám cưới cho đôi vợ chồng cũng phải có người mai mối do hai bên gia đình thống nhất mời, hoặc một bên gia đình mời.

Người mai mối vợ chồng cũng có thể là đàn ông hoặc đàn bà đã lớn tuổi, có khiếu ăn nói, được nhiều người trong cộng đồng quý trọng, và cũng có thể là người thân, họ hàng gia đình bên trai hoặc bên gái.

Để cho công việc được chắc chắn hơn, thường thì người mai mối tìm hiểu, thăm dò tình cảm người con gái trước, rồi mới thăm dò con trai. Nếu thấy hai người có vẻ ưng ý, có cảm tình với nhau thì người mai mối tiếp tục tìm hiểu, thăm dò cha mẹ của hai bên. Cảm thấy thuận buồm xuôi gió thì người mai mối mới đến tận nhà hai bên gia đình, đặt vấn đề chính thức.

Khi hai bên đều đã đồng ý, lúc này người mai mối có nhiệm vụ làm trung gian mối liên hệ giữa hai bên gia đình. Tất cả mọi hoạt động quan trọng của hai bên gia đình đều có sự tham gia góp ý kiến của người mai mối, xem như một thành viên của hai gia đình vậy, được hai bên gia đình hết sức quý trọng, tiếp đãi chu đáo hơn.

Từ khi đã đồng ý làm sui với nhau, hai bên gia đình thống nhất ngày để nhà gái cõng củi cho nhà trai, gọi là “Pôơq loang unh ca proi”. Nhà gái chọn các chị em phụ nữ trong làng khoảng 20 – 30 người (tùy theo khả năng) đi lên rừng kiếm củi để cõng về cho nhà trai. Nhà trai chuẩn bị cơm, rượu ngon để tiếp đãi đoàn cõng củi nhà gái. Một thời gian sau nhà gái cũng tổ chức công việc gì đó để cho nhà trai làm. Và đây cũng là dịp để cho chú rể tương lai thể hiện tài năng của mình đối với gia đình nhà vợ.

Sau đó có thể trong năm, hoặc một hai năm sau, thậm chí lâu hơn nữa mới có thể tổ chức đám cưới cho đôi vợ chồng trẻ. Trong thời gian chưa tổ chức đám cưới, người mai mối luôn giữ mối liên hệ mật thiết với hai bên gia đình; đồng thời theo dõi diễn biến tâm tư tình cảm của hai đứa trẻ, phòng ngừa những dèm pha của thiên hạ, khi nào được tổ chức đám cưới xong mới được xem là đã hoàn thành nhiệm vụ của mình. Tuy nhiên, sau khi đôi nam nữ đã thành vợ thành chồng, người làm mai còn có trách nhiệm vun vén cho hạnh phúc của lứa đôi….

Thông qua người làm mai, hai bên gia đình hiểu được ý định, cùng nhau thỏa thuận những vấn đề cần thiết, chọn ngày lành tháng tốt để tổ chức đón dâu đón rễ về nhà. Một trong những nhiệm vụ quan trọng của người làm mai là thăm dò, thỏa thuận giữa hai bên gia đình về việc đón dâu hay đón rễ. Việc đón dâu hay đón rễ của người Hrê là do đôi trai gái, và do hai bên gia đình cùng thống nhất với nhau. Thường thì gia đình khó khăn về kinh tế sẽ được ưu tiên hơn nếu muốn đón dâu hay đón rễ.

Giờ đây phong tục mai mối không còn tồn tại trong hôn nhân của người Hrê nơi đây nhưng nó đã trở thành một nét đẹp văn hóa trong phong tục hôn nhân của người Hrê xưa.

Lễ gọi người thân là thời điểm đánh dấu việc chàng trai, cô gái chính thức trở thành người trong gia đình người bạn đời của mình.
Lễ gọi người thân là thời điểm đánh dấu việc chàng trai, cô gái chính thức trở thành người trong gia đình người bạn đời của mình.

Đám cưới của người H’rê, Quảng Ngãi

(TH-Cinet-DTV)

Theo quan niệm của người H’rê (Quảng Ngãi), việc tổ chức đám cưới hai bên giống nhau để tạo sự công bằng giữa hai gia đình. Với người H’rê, con dâu về nhà chồng ở hay con rể về nhà vợ ở đều được, không có sự phân biệt…

Người H’rê có câu: “Em là chim Pơti/ Em là hoa cao nhớ hoa Pơlang, hoa Kẹo khà/ Anh là cái tổ giữa thân cây cho chim Pơti ở/ Sao em không chịu cưới anh về làm chồng?”. Khi chàng trai có cảm tình với cô gái, họ sẽ mời ông mối hoặc bà mối qua nhà gái thưa chuyện.

Theo phong tục của người H’rê, 2 gia đình phải tổ chức đám cưới giống hệt nhau. Bên nhà trai có lễ vật và phong tục gì thì bên nhà gái cũng phải làm như vậy và ngược lại. Nếu nhà trai có lễ đón dâu thì bên nhà gái có lễ đón rể. Chú rể cũng phải làm những nghi thức giống như cô dâu. Phong tục này đã có từ xa xưa và đến nay vẫn còn tồn tại.

Đám cưới được tổ chức đám cưới trong ba ngày. Ngày thứ nhất dọn dẹp mọi thứ trong nhà, đi đón cô dâu về. Ngày thứ 2 tổ chức các nghi lễ của đám cưới. Và ngày thứ 3 mời anh em họ hàng trong làng đến nói chuyện, uống rượu. Cả nhà trai và nhà gái đều tổ chức đám cưới theo trình tự này. Nếu rước dâu về nhà trai thì nhà trai sẽ cử một nam, một nữ qua rước dâu, là những người vẫn còn trinh nguyên. Hai người này nói chuyện với bố mẹ nhà gái xin được dẫn dâu về. Đám rước về nhà trước ngày cưới chính thức một ngày.

Nhảy múa, đánh đàn xoang, đánh chiêng trong đám cưới.
Nhảy múa, đánh đàn xoang, đánh chiêng trong đám cưới.

Quãng đường đưa dâu hoặc đưa rể bao giờ cũng đông vui và náo nhiệt. Và nhân vật chính lúc này không phải cô dâu hay chú rể mà là Gio (tức người cõng lễ vật). Gio phải được giữ bí mật đến phút cuối. Hai gia đình sẽ cử một nhóm người cầm theo 1 chai rượu và 1 cái chén với nhiệm vụ ép Gio uống say. Người ta ào chạy xuống đường, vừa đi vừa uống, uống khắp đường, uống gần tới nhà luôn. Nếu Gio không “trụ” được về đến nhà, đôi vợ chồng ấy sẽ không gặp may mắn và phải thêm 1 lễ cúng mới sống với nhau hạnh phúc được. Người H’rê quan niệm vậy. Thế nên Gio phải là nam thanh niên khỏe mạnh để có thể vượt qua truy cản.

Trên đường về nhà chồng, cô dâu không được quay lại đằng sau nhìn. Người lớn trong gia đình dặn, phải đi thẳng một mạch từ nhà mình về nhà chồng, nếu không ma quỷ trên đường sẽ theo về nhà, không tốt. Khi tới nhà chồng, cô dâu phải để cho hai người rước vào trước, thông báo để làm nghi lễ nhận cô dâu. Ở cửa chính nhà trai sẽ đốt hương trầm trong nồi đồng để hương bay lên rồi mẹ chồng đứng trong nhà gọi con dâu vào. Cô dâu bước qua hương trầm vào nhà để xua đi mọi xui xẻo. Mẹ chồng sẽ đeo vào cổ con dâu 9 sợi chỉ và cái còng. Sợi chỉ màu trắng tượng trưng cho sự ràng buộc, thể hiện cô gái này đã là người trong nhà, hồn cô gái sẽ về ở nhà chàng trai luôn. Còn cái còng như là vật đính hôn của 2 người.

Khi cưới đám cưới tổ chức ở nhà gái thì chú rể cũng được đeo những vật tương tự, chỉ có số lượng sợi chỉ là khác, 7 sợi chứ không phải 9. Ba ngày kể từ ngày cưới, những sợi chỉ sẽ được tháo ra, cột vào cái gùi. Gùi là vật dụng gắn bó với người phụ nữ H’rê, sẽ đi theo họ suốt cả cuộc đời nên những sợi chỉ buộc vào cái gùi nhắc nhở người phụ nữ giữ gìn hạnh phúc gia đình.

Đã đón dâu, làm lễ nhận dâu, thế nhưng đám cưới chính thức thì phải đợi ngày hôm sau. Tối hôm đó, họ sẽ làm 1 đám cưới giả. Cô dâu và chú rể phải tự tay chế biến một con gà để ăn cùng nhau tại gian phòng riêng của hai người sau khi chính thức thành vợ chồng. Thịt gà phải ăn cho hết, không được để thừa. Theo quan niệm của người H’rê, để thừa là không may mắn. Trong đám cưới giả này cũng có một thầy cúng cho hai vợ chồng giống như trong đám cưới thật.

Vào ngày cưới chính thức, khi vào lễ có một nhóm người làm những nắm cơm, xé gà cúng ra trộn đều vào nắm cơm rồi chia cho cả gia đình, gọi là lễ gọi người thân. Lễ gọi người thân là thời điểm đánh dấu việc chàng trai, cô gái chính thức trở thành người trong gia đình người bạn đời của mình. Sau lễ nhận người thân này, mọi người mới vào tiệc chính, uống rượu cần, nhảy múa, đánh đàn xoang, đánh chiêng. Hiện nay, người H’rê ở huyện Ba Tơ (Quảng Ngãi) vẫn giữ nhưng phong tục này trong ngày cưới. Đó là nét văn hóa truyền thống độc đáo cần được giữ gìn và phát huy.

Trang phục lễ hội nam nữ dân tộc Hrê.
Trang phục lễ hội nam nữ dân tộc Hrê.

Trang phục dân tộc Hrê

(TQ-DTV)

Phần lớn đàn ông Hrê đóng khổ, mặc áo cánh ngắn đến thắt lưng hoặc ở trần, quấn khăn, trong khi đó, đàn bà mặc váy hai tầng, áo 5 thân, chùm khăn. Nam, nữ đều búi tóc cài trâm hoặc lông chim.

Người Hrê có nghề dệt vải từ rất sớm và dệt vải theo cách thức cổ truyền Inđonêdiêng. Bộ dụng cụ gồm que, thanh, ống rời nhau đểu làm bằng gỗ hoặc trẻ. Chỉ khi giăng thảm sợi để dệt, chúng mới liên kết với nhau thành một hệ thống, còn hoa văn thì được dệt cùng với vải để tạo thành những bộ trang phục truyền thống.

Đối với trang phục nữ gồm có bộ váy áo thổ cẩm hay còn gọi là “Ca tuư iu ‘nhoh” (‘Nhoh tức là thổ cẩm), tiếp đến là bộ váy vải thường gọi là “Ca tuư iu găm” (Găm tức là màu đen). Tuy nhiên chỉ có váy nhất thiết là màu đen, còn áo thì tùy thích, người ta có thể mặc nhiều màu khác nhau. Vải thổ cẩm nguyên gốc người ta dệt chỉ có ba màu: đen, trắng, đỏ. Trong đó màu đen làm nền chủ đạo. Người dân tộc Hrê thích bộ trang phục màu đen, họ quan niệm màu đen là màu kín đáo, dịu dàng và mạnh mẽ…

Chiếc váy vải thường của phụ nữ Hrê có 3 loại Chiếc váy chỉ có một lớp, gấu váy tới dưới đầu gối khoảng 20cm hoặc dài tới mắt cá chân, gọi là: “Ca tuư li”, loại váy có hai lớp, một lớp gấu váy tới dưới đầu gối khoảng 20cm (lớp ngoài), một lớp dài tới mắt cá chân (lớp trong), gọi là: “Ca tuư mọiq li, moiq hchon” và loại váy có hai lớp bằng nhau, dài tới mắt cá chân, gọi là “Ca tuư hjup”. Váy thổ cẩm chỉ có một loại, thường người ta may một lớp, dài tới mắt cá chân.

Để cho bộ trang phục của mình đẹp hơn, nam dân tộc Hrê thích trang trí ở những đường rìa quần áo bằng sợi chỉ, hoặc vải màu đỏ, kết hợp với những hạt cườm màu trắng hoặc đỏ, tạo những hoa văn đặc sắc và đậm đà bản sắc dân tộc.

Trang phục nam nữ dân tộc Hrê trong một lễ hội.
Trang phục nam nữ dân tộc Hrê trong một lễ hội.

Về trang phục nam Hrê gồm có khố (Kpen/Hpen) và bộ quần áo vải thường (may kiểu quần áo bà ba).

Khố của dân tộc Hrê có 2 loại, đầu tiên là loại khố nhỏ (Hpen dham) dành cho tầng lớp trung niên và thanh niên. Loại khố này có chiều rộng chừng 18 cm, chiều dài khoảng 4,5 đến 5 m, họa tiết đơn giản, nhẹ nhàng. Thân khố màu đen, có ba đường sọc màu trắng chính giữa, hai đường sọc màu đỏ hai viền; hai đầu chiếc khố có năm đường hoa văn, nhưng không rõ nét như hoa văn của áo, có tua khoảng 15cm.

Loại khố thứ 2 gọi là khố lớn (Hpen vroang) dành cho người già, những người khá giả về kinh tế. Chiều rộng của khố khoảng 20cm, chiều dài khoảng 5m – 5,5m; thân chiếc khố màu đen, có ba đường sọc màu trắng chính giữa, hai đường sọc màu đỏ hai viền như hpen dham nhưng lớn hơn; hai đầu chiếc khố có 7 đường hoa văn sặc sỡ, có tua dài khoảng 20cm.

Trong khi đó, bộ quần áo vải thường của đàn ông Hrê có màu chủ đạo là màu đen, áo cổ tròn, dài tay, có hai túi ở phía trước và chẻ một đường hai bên áo. Chiếc quần thường để dài tới mắt cá chân và không có túi.

Ngày nay, người Hrê mặc quần áo như người Kinh, riêng cách quấn khăn, trùm khăn vải vẫn như xưa. Phần lớn nữ giới vẫn mặc váy, nhưng may bằng vải dệt công nghiệp.

Bên cạnh những bộ trang phục truyền thống, người Hrê còn thích đeo trang sức bằng đồng, bạc, hạt cườm; nam nữ đều đeo vòng cổ, vòng tay, nữ có thêm vòng chân và hoa tai.

oOo

Nghệ nhân Đinh Ngọc Su:

 

Người Hrê ăn Tết:

 

Nhà ở và nghề dệt truyền thống của dân tộc Hre:

 

Đi Cắt Lúa- Hương Loan – Dân Ca Hre:

 

Múa Đi Cắt Lúa:

 

Hát Mừng – Dân ca Hrê:

 

Trả lời

Điền thông tin vào ô dưới đây hoặc nhấn vào một biểu tượng để đăng nhập:

WordPress.com Logo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản WordPress.com Đăng xuất /  Thay đổi )

Twitter picture

Bạn đang bình luận bằng tài khoản Twitter Đăng xuất /  Thay đổi )

Facebook photo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản Facebook Đăng xuất /  Thay đổi )

Connecting to %s