Ở “vùng trũng” giáo dục quốc gia

() – Ngược với những cụm từ như vựa lúa, vựa trái cây, trung tâm thủy sản… của cả nước, ĐBSCL đã và đang là “vùng trũng” về giáo dục. Thực trạng học sinh bỏ trường, bỏ lớp năm sau cao hơn năm trước đang là nỗi lo canh cánh của ngành giáo dục cũng như chính quyền địa phương.

Ở “vùng trũng” giáo dục quốc gia
Học sinh Việt Kiều đi đò qua biên giới để học.

Kỳ 1: Gian nan “con chữ” vùng biên

Nằm giáp ranh với tỉnh Kandal (Campuchia), mỗi năm, huyện An Phú (tỉnh An Giang) có khoảng 1.000 học sinh là con em kiều bào làm ăn trên đất bạn sang học. Tuy nhiên mấy năm gần đây, số học sinh kiều bào bỏ học tăng chóng mặt. “Giáo viên chúng tôi chỉ biết lắc đầu, chính quyền địa phương cũng chào thua. Tôi làm hiệu trưởng 7 năm, chưa bị kỷ luật vì tình trạng bỏ học là mừng, chứ dám mong gì đến khen thưởng” – thầy La Văn Bé – Hiệu trưởng Trường THCS Khánh An (huyện An Phú) – than như vậy.

Chung tay rồi… “bó tay”!

Tôi đã dự rất nhiều hội nghị, hội thảo về giáo dục ở quy mô cấp tỉnh và khu vực ĐBSCL, thế nhưng, chuyện một cuộc hội thảo về bỏ học được tổ chức thường niên tại một xã nông thôn nghèo như Khánh An thì mới lần đầu nghe kể. Tôi chưa hết ngạc nhiên, thì Hiệu trưởng La Văn Bé đã thở dài: “Hội thảo thì nhằm nhò gì, ở xã này, cứ có 1 học sinh bỏ học là ngành giáo dục và cả hệ thống chính trị đều vào cuộc, nhưng cũng chẳng ăn thua”. Theo thầy Bé, chưa có nơi nào, ngành giáo dục và cả hệ thống chính trị lại chung tay vào cuộc và triển khai nhiều giải pháp chăm lo cho sự học như ở xã Khánh An. Cứ đến đầu năm học, Đảng ủy, UBND xã, Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ, giáo viên… tất bật đến từng nhà để vận động học sinh ra lớp. Thậm chí, hằng năm xã còn tổ chức hội thảo về phòng chống bỏ học và mời cả chính quyền nước bạn sang tham dự. Ngoài ra, còn tổ chức các lễ ra quân cổ động, tuyên truyền…

Đặc biệt, nếu là học sinh địa phương thì phải nghèo “có sổ” mới được hỗ trợ, còn học sinh Việt kiều nghiễm nhiên được ưu tiên… Nhưng mọi giải pháp đều chẳng mấy khả quan, chủ yếu do: Mù mờ bên kia biên giới. “Đa số cha mẹ học sinh Việt kiều đều nghèo khó, tha phương cầu thực, học được vài năm thì các em bỏ theo cha mẹ làm ăn. Nhiều lần, giáo viên đã sang đất tỉnh Kandal để vận động, nhưng rồi cũng chẳng biết nhà cửa các em ở đâu mà tìm” – thầy Bé cho biết thêm.

Năm học rồi, Trường THCS Khánh An có 109/603 học sinh là con em kiều bào. Đa phần phụ huynh các em sống ở vùng biên nước bạn làm nghề đánh cá, làm ruộng thuê… đời sống rất bấp bênh. Một số phụ huynh chỉ quan niệm cho con học chữ biết đọc, biết viết. Đó là chưa kể khi mùa vụ thất thường học sinh theo cha mẹ bỏ đi xứ khác, khiến cho tỉ lệ bỏ học của học sinh Việt kiều rất cao, thường là vào năm lớp 6, lớp 7. “Năm rồi, trường có 41 học sinh Việt kiều bỏ học.

Ngay đầu tháng 8, chúng tôi đã huy động mọi nguồn lực để vận động các em ra lớp. Nhưng cố gắng mấy, cũng “lực bất tòng tâm” vì không thể nào qua bên kia biên giới vận động các em được” – thầy Bé nói. Tại Trường Tiểu học B Khánh An, cô Nguyễn Thị Sành – Hiệu trưởng nhà trường – kể: 5 năm trước, học sinh Việt kiều vào lớp 1 là 120 em, nhưng đến lúc học xong lớp 5 chỉ còn lại 76 em. Trường nghiễm nhiên trở thành “đội sổ” trong toàn tỉnh. “Chỉ tiêu nào tôi cũng có thể phấn đấu được, chớ chỉ tiêu hạ tỉ lệ học sinh bỏ học là tôi chịu thua. Mình có thừa quyết tâm, nhưng không thể nào “cõng chữ” qua biên giới”.

Khắc nghiệt mưu sinh vùng biên

Kandal là một tỉnh bao bọc thủ đô Phnom Penh của Campuchia, cách huyện An Phú (An Giang) một con sông. Nhiều năm qua, địa phương này đã thu hút đông đảo người dân Việt Nam đến sinh sống và làm ăn, rồi nhập luôn quốc tịch bên nước bạn. Khi con em họ lớn lên, thì bắt đầu vượt sông sang huyện An Phú học tiếng mẹ đẻ. Thế nhưng, phần lớn gia đình kiều bào đều đi làm thuê, làm mướn, cuộc sống rất khó khăn. Một số khác thì “mần lô” (giống như đìa ở Việt Nam nhưng diện tích lớn gấp nhiều lần).

Thông thường, “lô” được bán vào mùa nước kiệt (khoảng cuối tháng 2, đầu tháng 3 âm lịch). Kiều bào ta đến mua “lô”, nhưng cũng không biết rõ nguồn thủy sản bên trong là bao nhiêu, nên việc làm ăn này cũng đầy may rủi. Những hộ “thất mùa” cho con em nghỉ học là cái chắc. Ngay cả những hộ “ăn nên làm ra” cũng cho con nghỉ học luôn để tiếp tục đi xứ khác mần ăn. Điển hình như trường hợp của em Trần Văn Đô (học sinh lớp 7A1, Trường THCS Khánh An). Gia đình em sống ở xã Preychrey (huyện Kothum, tỉnh Kandal), cha mẹ quanh năm đi làm thuê, mướn, đến mùa thì “mần lô” cách nhà hàng chục cây số. Năm vừa rồi, Đô đã phải nghỉ học ở nhà trông đứa em nhỏ phụ giúp cha mẹ.

Chung hoàn cảnh đó là em Lê Thị Ngọc (học sinh lớp 7A3 Trường THCS Khánh An). Cha mẹ Ngọc định cư ở xã Perchrey (huyện Kothum), quanh năm làm nghề thả lưới giăng câu, hôm nào nước lớn thì kiếm được 100.000-200.000 đồng, còn gặp bữa nước ròng thì kiếm được năm bảy chục ngàn là may phước. Ngọc có 3 người anh trai, học đến lớp 6-7, tất cả đều nghỉ để phụ giúp gia đình, Ngọc cũng không ngoại lệ. “Vợ chồng tui rất muốn cho con cái ăn học, để sau này chúng nó thành tài, có địa vị trong xã hội. Nhưng nhà nghèo quá, cơm ăn ngày hai bữa đã mừng…” – anh Lê Văn Nhạn – cha Ngọc – chia sẻ.

Những ngày này đang vào mùa nước nổi, cũng là lúc tựu trường, những con đường nông thôn bên xứ bạn mênh mông nước, các em qua ở trọ nhà người quen đi học đến hết mùa lũ. Tuy nhiên, đến mùa “mần lô” tức là tát đìa, chụp đìa các em theo cha mẹ bắt cá, rồi nghỉ học luôn. Đây cũng là thời điểm mà ngành giáo dục lo sốt vó. “Ngay cả khi vận động được các em ra lớp đầu năm, mình còn phải canh cánh nỗi lo có giữ chân các em được hay không” – ông Thái Kim Khải – Phó Trưởng phòng GDĐT huyện An Phú – cho hay.

Cười ra nước mắt vì bỏ học

Để khắc phục tình trạng học sinh bỏ học, các trường học ở Khánh An đã kết hợp với chính quyền địa phương, mời cả chính quyền các xã biên giới huyện huyện Kothum, cùng họp với ban đại diện cha mẹ học sinh đầu năm học và cuối học kỳ để nắm tình hình học tập các em. Đặc biệt, ban đại diện cha mẹ học sinh có cơ cấu phân nửa là phụ huynh Việt kiều. Nhưng tình hình vẫn không thay đổi. “Trường nào cũng có nhiều nỗ lực, nhưng không thể hạ tỉ lệ bỏ học.

Vụ việc diễn ra còn trớ trêu đến nỗi có một phụ huynh đã viết đơn gửi ngược lại cho trường với nội dung: Nài nỉ thầy cô đừng vận động con em họ đi học nữa, vì nhà khổ lắm rồi. Thiệt hết nói luôn” – thầy Bé kể. “Năm nào cũng vậy, trường có giáo viên giỏi cấp tỉnh, có học sinh giỏi cấp tỉnh, nhưng chưa bao giờ nhận được danh hiệu tiên tiến vì học sinh bỏ học. Chuyện thi đua, coi như đã vô phương” – cô Nguyễn Thị Sành thở dài. “Bây giờ, giáo viên nào mà nghe nói sắp chuyển về đây dạy học là họ sợ tái mặt, còn thầy cô trường này, nếu ai được cho thôi làm nhiệm vụ giáo viên chủ nhiệm là… mần gà đãi cả xóm” – thầy Bé chua chát.

Ông Lý Thanh Tú – Phó Giám đốc Sở GDĐT tỉnh An Giang – đúc kết:  “Chúng ta chỉ có thể hỗ trợ các em về học phí, học phẩm… và đây chỉ là giải pháp nhất thời. Mấu chốt của vấn đề là phải giúp kiều bào ổn định kế sinh nhai. Chuyện này, từ Trung ương đến địa phương đã có rất nhiều chính sách an sinh xã hội dành cho người nghèo, nhưng chỉ áp dụng với công dân Việt Nam, mình không thể “xé rào” áp dụng bên nước bạn”.

Năm học rồi, toàn huyện An Phú có 913 học sinh Việt kiều theo học ở hai cấp tiểu học và THCS. Trong năm, ở cấp tiểu học có 84/684 học sinh Việt kiều bỏ học (tỉ lệ 12,28%); ở cấp THCS, có 56/229 học sinh Việt kiều bỏ học (tỉ lệ 24,45%).

Đầu năm học này, huyện đã huy động được hơn 1.100 em ra lớp. Tuy nhiên, con số tăng là do số lượng vào học ở đầu cấp, chứ không phải do hiệu quả từ việc vận động mang lại. Hầu hết, các kiều bào đều có quốc tịch Campuchia. Họ cho con em sang huyện An Phú đăng ký tạm trú tại nhà người quen, nhà bà con để làm giấy khai sinh “hợp thức hóa” việc học. Ngành giáo dục đang đau đầu vì không thể thống kê số lượng học sinh đầu cấp là bao nhiêu để vận động các em ra lớp.

 

 

Kỳ cuối: Khi sự học không còn là số 1

() – Nếu ở vùng biên, chuyện bỏ học chủ yếu do vấn đề “cơm áo gạo tiền”, thì tại nhiều nơi khác, chuyện bỏ học vì nguyên nhân đó đã… xưa rồi. Bây giờ, xã hội đã có nhiều giải pháp, chính sách hỗ trợ để chăm lo, cải thiện đời sống, giúp người dân thoát nghèo, nhưng con em họ vẫn cứ bỏ học.

 

Kỳ cuối: Khi sự học không còn là số 1
Trẻ em vùng nông thôn ĐBSCL đi học.

Ngành giáo dục đang đau đầu trước cái gọi là “mặt trái” của cuộc sống thời mở cửa. Nhưng sâu xa hơn và nghiêm trọng hơn, hàng loạt những bất cập trong giáo dục, đào tạo đã và đang khiến người ta không còn xem sự học là số 1…

Sự học thời mở cửa

Khảo sát của người viết cho thấy, hằng năm, cứ vào thời điểm sau Tết Nguyên đán hoặc sau kỳ nghỉ hè, ngành giáo dục ĐBSCL phải đối mặt với hiện tượng bỏ học khá bất thường ở khối học sinh THCS. Theo thống kê của Sở GDĐT tỉnh An Giang, trong tổng số 6.057 học sinh bỏ học năm rồi, thì có đến 2.490 học sinh thuộc khối THCS (chiếm tỉ lệ hơn 40%). Tại huyện An Phú (An Giang), trong tổng số 712 học sinh bỏ học ở hai cấp tiểu học và THCS, thì có đến 489 em THCS (chiếm tỉ lệ hơn 68%).

Tại Trà Vinh, năm học rồi, toàn tỉnh có 3.161 học sinh bỏ học, trong đó, học sinh THCS chiếm hơn phân nửa với 1.685 em. Phân tích nguyên nhân bỏ học của khối này cho thấy: Hoàn cảnh gia đình khó khăn 660 em, học lực yếu kém có 436 em, bỏ học vì xa trường đi lại khó khăn 30 em, bỏ học vì thiên tai dịch bệnh 39 em, còn lại 628 em bỏ học vì nguyên nhân khác.

Vậy nguyên nhân khác là nguyên nhân nào?  Cô Tăng Thị Ngọc Mai – Trưởng phòng GDĐT huyện Trà Cú – trả lời: Có trên 40% số học sinh bỏ học không phải vì gia đình nghèo mà thuộc gia đình cận nghèo, các em muốn sớm kiếm tiền. Chỉ cần ăn tết, gặp bạn bè đi làm công nhân có điện thoại, xe máy, có tiền bao bạn đi chơi… là sau tết học sinh bỏ học hàng loạt!

Khảo sát của người viết ở nhiều địa phương khác ở ĐBSCL, tỉ lệ bỏ học mỗi nơi cao thấp khác nhau, đa phần các em thuộc diện hộ nghèo, cận nghèo, có em gia đình rất nghèo, nhưng chưa đến mức phải bỏ học.

Bà Nguyễn Thị Minh Giang – Giám đốc Sở GDĐT tỉnh Kiên Giang – gọi đó là tác động của cuộc sống thời mở cửa và cho biết: Trước đây, ở các vùng nông thôn nghèo, cuộc sống của trẻ con rất đơn giản: Sáng thức dậy đến trường, chiều ra đồng ruộng, tối đến ôn bài để sáng mai đi học tiếp. Bây giờ, vùng nông thôn nào cũng “thay da đổi thịt”, du nhập rất nhiều thứ tiến bộ, có tiệm game, shop quần áo, cửa hàng xe gắn máy, càphê nhạc sống… Là con người ai cũng muốn được hưởng thụ, theo đó, nhu cầu cuộc sống của mỗi người, mỗi nhà cũng tăng theo.

“Cứ hỏi đến chuyện ước mơ là các em trả lời ngay không cần suy nghĩ: Em muốn đi xe tay ga, muốn xài điện thoại di động cảm ứng… Để thỏa mãn những nhu cầu trên, các em đã bỏ học đi lao động. Chuyện mưu sinh kiếm tiền cũng theo đó mà lấn át sự học” – bà Giang thở dài.

Chuyện trên làm tôi nhớ đến hôm đi công tác ở TP.Cao Lãnh (tỉnh Đồng Tháp). Khi ghé một cửa hàng điện thoại di động để mua một “cục sạc” dự phòng, tôi há hốc mồm khi thấy một đứa bé bán vé số vào cửa tiệm mua một chiếc điện thoại di động màn hình cảm ứng với giá gần 3 triệu đồng. Đứa bé tên Tuấn, nhà cũng đủ ăn đủ mặc, nhưng vừa lên lớp 7 thì em nghỉ học.

Tuấn kể: “Mấy đứa bạn em, ai cũng có điện thoại di động để xài, em cũng muốn có điện thoại nên nghỉ học đi bán vé số kiếm tiền”. Tôi hỏi: “Vậy em bỏ học vì chiếc điện thoại di động?”. Tuấn không trả lời mà nói tiếp: “Vài tháng nữa, em theo anh Ba ra Bình Dương làm công nhân, có tiền rồi, em có thể sắm cả xe máy, quần áo hiệu và nhiều thứ khác…”.

Xa rồi, sự học

Tác động của cuộc sống thời mở cửa đã làm tăng con số bỏ học, nhưng đó chỉ là “giọt nước tràn ly”. Hôm tôi đến huyện biên giới An Phú (tỉnh An Giang), ông Thái Kim Khải – Phó Trưởng phòng GDĐT huyện này – ngao ngán kể: Hằng năm, cứ vào thời điểm sau tết, nhiều em học sinh theo anh chị ra Bình Dương làm việc rồi nghỉ học luôn. Các em so sánh rất thực dụng: Làm công nhân “chui” ngoài đó, mỗi tháng cũng kiếm được 4-5 triệu đồng lại được bao ăn ở. Còn thầy cô của các em, học xong đại học, ra trường đi dạy, thu nhập chưa đến 3 triệu đồng/tháng. Vậy là các em bỏ học!

Tại Trường THCS Phước Hưng (huyện Trà Cú), thầy Từ Hữu Lâm – giáo viên phụ trách phổ cập của trường cho biết, có 2 học sinh nữ lớp 9A5 bỏ học đi TPHCM  tìm việc làm. Tôi với giáo viên chủ nhiệm tới nhà phân tích thiệt hơn cho cha mẹ em nghe. Họ trả lời: “Cho con học hết đại học tốn vài trăm triệu đồng. Mấy đứa trong xóm học ĐH Trà Vinh, ĐH Cửu Long có xin việc được đâu? Học xong, chúng nó lại xin làm công nhân thôi, lương cũng như học sinh lớp 9. Bó tay luôn anh à!”.

Ở tỉnh Kiên Giang, chuyện nghe còn bức xúc hơn. Một số giáo viên đã lặn lội hơn chục cây số đường đến nhà, vận động học sinh ra lớp. Nhưng vừa thấy giáo viên ở đầu ngõ, phụ huynh đã quay sang nói với con mình: “Mày trốn đi, cô giáo mày lại đến nữa kìa”. “Mình đến nhà vận động, phụ huynh các em nói thẳng: Thằng Hai, thằng Ba nhà tui học hết 4 năm đại học, tốn biết bao tiền của, nhưng ra trường có xin được việc làm đâu. Tui cho thằng út học tiếp để nó đói nhăn răng như anh nó à. Những bất cập trong đào tạo và giải quyết việc làm đã khiến người ta không còn hào hứng với sự học nữa” – bà Nguyễn Thị Minh Giang cho hay.

Mang  những chuyện mắt thấy tai nghe ở trên về kể cho một vị lãnh đạo ngành giáo dục TP.Cần Thơ nghe, vị này lại kể với tôi nghe chuyện lễ giáo của vài mươi năm trước. Ngày đó, trẻ con luôn được giáo dục lễ nghĩa, phép tắc đến mức “chuẩn không cần chỉnh”. Mỗi khi cha mẹ bàn việc “đại sự” trong gia đình, con cái đứng gần để nghe là điều tối kỵ. Còn bây giờ, không ít người mang cả chuyện quà cáp, đút lót ở thương trường, cơ quan… về nhà nói thao thao bất tuyệt trước mặt con nhỏ.

Cũng ngày đó, chuyện lo cho con cái ăn học đến nơi đến chốn luôn là ưu tiên số một của mọi nhà, dù không ít gia cảnh nghèo đến “rớt mồng tơi”. Còn bây giờ, nông thôn phát triển, nhà nhà khá lên, nhưng sự học lại bị dạt xuống hàng thứ yếu. Ai đó nói với tôi rằng, không đâu lạ lùng như ở Việt Nam khi người dân chỉ mong mình… nghèo mãi để mỗi ngày nhận được sự hỗ trợ của Nhà nước. Lại có chuyện, một phụ huynh theo con đi lãnh học bổng, vừa ra khỏi trường, ông bố cao hứng, liền alô cho các “chiến hữu” đến làm vài chai ăn mừng. Sau một hồi “chén chú chén anh”, hai bố con chẳng còn đồng nào dính túi.

ĐBSCL đất đai trù phú, bạt ngàn ruộng đồng, sông nước đầy ắp cá tôm. Thậm chí, không quá để nói người dân chỉ cần ra ngõ trước, vườn sau là có cái ăn. Phải chăng, chính vì được thiên nhiên quá ưu đãi, nên con người đã ỷ lại? Một thống kê cho biết, cư dân miền Trung ra nước ngoài rất nhiều, nhưng là đi xuất khẩu lao động – một cách làm việc để thoát nghèo. Còn ở miền Tây, cư dân cũng ồ ạt xuất ngoại, nhưng là đi lấy chồng Đài Loan (TQ), Hàn Quốc… Họ muốn nhanh chóng đổi đời mà khỏi phải làm lụng vất vả…

Ông Nguyễn Quý Đôn – Phó Giám đốc Sở GDĐT TP.Cần Thơ – gọi đó là sự “xuống cấp nghiêm trọng” về ý thức của các bậc làm cha mẹ. Ông nói: “Nếu trách các em thì chúng ta nên trách những bất cập trong xã hội. Chính những bất cập đó đã tạo ra những nguyên cớ để người ta đổ lỗi cho sự bỏ học”.

Ông Lý Thanh Tú – Phó Giám đốc Sở GDĐT tỉnh An Giang – bổ sung: “Ngay cả khi các em mong muốn có một chiếc ĐTDĐ hay một chiếc xe tay ga thì ước mơ đó cũng rất đời thường và không có gì sai trái. Chúng ta không thể ngăn cấm, mà phải giáo dục tư tưởng để các em hiểu rằng trong hoàn cảnh như vậy, có nên sở hữu những vật dụng đó hay không?”

“Học cao, ra trường không xin được việc làm, dẫn đến bất mãn, rồi bỏ học. Đó là cái nhìn rất hạn hẹp. Chúng ta phải thấy rằng, sự học là một cách thoát nghèo không gì bền vững hơn. Điều này thuộc về nhận thức, và mọi giải pháp phải bắt đầu từ nguyên nhân. Nếu phải giáo dục đạo đức con trẻ, thì trước hết nên xem lại tư tưởng của người lớn” – ông Đôn nói.

Trần Lưu

1 bình luận về “Ở “vùng trũng” giáo dục quốc gia

  1. Hi cả nhà,

    Bài này có nêu một giải pháp cho vấn đề này ạ: Giảm tỷ lệ học sinh bỏ học nhờ mô hình Trường học mới VNEN

    Mô hình Trường học mới VNEN có lẽ đã áp dụng ở ĐBSCL vì trong bài này có hình ảnh “Một tiết học ở Trường Tiểu học Năm Căn, huyện Năm Căn, tỉnh Cà Mau”.

    Mong mô hình Trường học mới đạt nhiều kết quả tốt đẹp ở ĐBSCL.

    Thích

Gửi phản hồi cho Phạm Thu Hương Hủy trả lời