Những khoảng trống trách nhiệm…

() – Số 99 LỤC TÙNG – 11:21 AM, 05/05/2015

Học sinh Chăm phải “kết thúc chương trình” sau khi học hết mức 2 chỉ vì không có đủ giáo viên. Ảnh: L.T

Có thể nói một cách vắn gọn như vậy về việc dạy tiếng Chăm ở Nam Bộ hiện nay.

Sau 20 năm thực hiện, thời gian đủ để đứa bé lọt lòng trở thành thanh niên “bẻ gãy sừng trâu”, nhưng việc dạy tiếng Chăm Nam Bộ (TCNB) vẫn cứ như đứa bé chập chững trong chiếc nôi tạm bợ và chưa biết đến bao giờ mới có thể xoải những bước đi vững chắc khi những nhân sĩ TCNB cuối cùng đã ở tuổi xế chiều, hoặc ra đi vĩnh viễn …

Môn… “bên lề” lớp học

“Nhà báo hả? Muốn dự lớp tiếng Chăm hả? Hôm nay không có giờ. Một tuần chỉ có 1 buổi vào thời gian trái buổi dạy chính khóa…Vậy nghe, tôi đang chạy xe ôm”, câu nói đầy “trúc trắc” của ông Ama Êl, “thầy giáo” môn tiếng Chăm tại Trường Tiểu học “D” Khánh Hoà (xã Khánh Hoà, Châu Phú – An Giang), đơn vị đầu tiên ĐBSCL dạy thử nghiệm TCNB trong trường phổ thông khiến tôi ngạc nhiên. Nhờ đồng nghiệp ở Đài Truyền thanh huyện Châu Phú liên lạc với lãnh đạo địa phương “dàn xếp”, chúng tôi mới hẹn được ông Êl tại trường học. Là người trực tiếp dạy TCNB từ những ngày đầu, ông Êl không giấu được xúc cảm: “Do tập quán sống quần cư trong các palay (xóm) với không gian riêng của cộng đồng nên học sinh người Chăm An Giang nói riêng, Chăm Nam Bộ nói chung ít có điều kiện tiếp cận với tiếng, chữ Việt, vì vậy, khi triển khai chương trình dạy TCNB trong trường phổ thông… cộng đồng người Chăm hết sức vui mừng trước chiếc cầu nối hai đầu ngôn ngữ để con em hoà nhập trong học tập”. Tuy nhiên, ngay sau khi triển khai, ý nghĩa tốt đẹp này đã nhanh chóng “đội nón ra đi”, nhường chỗ cho trạng thái “gánh nặng” đổ ập lên vai cả thầy và trò.

Ông Issa Sen – nguyên hiệu trưởng, kiêm giáo viên tiếng Chăm Trường Tiểu học “D” Khánh Hòa, nhớ lại: “Chính thức khai giảng ngày 16.9.1998, nhưng do chỉ được bố trí dạy trái buổi với chương trình chính khóa vào ngày thứ 7 hằng tuần, vì vậy mãi đến khi niên học kết thúc mà chương trình vẫn còn ngổn ngang, nên nhà trường đã làm đề nghị và được Sở GDĐT An Giang cho phép tổ chức dạy 5 buổi/tuần trong thời gian hè để hoàn thành mức lớp đầu tiên của chương trình”. Nhưng đó chỉ mới là khởi đầu cho chuỗi dài bất cập của môn học bị đẩy ra “bên lề lớp học”. Bởi dù phải thực hiện đủ các quy trình như các môn học khác: Thầy dạy – trò học, kiểm tra và thi…, nhưng cả thầy và trò trong chương trình TCNB lại không được ghi nhận…

“Không chỉ học sinh bất ổn mà người dạy cũng bất an – ông Issa Sen chia sẻ. Với định mức 35.250đ/tiết, 260 tiết
dạy/năm, bình quân mức thu nhập của thầy giáo tiếng Chăm chỉ có 763.750đ/người/tháng”. Quá đủ để mọi người hiểu thấu góc khuất của người dạy tiếng Chăm và còn là đáp số cho câu hỏi: Vì sao thầy giáo Êl phải tranh thủ chạy xe Honda ôm ngoài giờ lên lớp? Tuy nhiên đó vẫn chưa phải là tất cả. Do chỉ được chi trả một lần vào cuối khóa học, để có tiền chi xài, hằng tháng giáo viên phải xin trường cho tạm ứng…”. Ông Lê Hữu Nguồn – Hiệu trưởng Trường Tiểu học D Khánh Hòa giải thích: “Dù biết như thế là chưa thỏa đáng công sức, nhưng do chương trình còn trong giai đoạn thử nghiệm, chưa được công nhận chính thức nên các chính sách cũng chưa rõ ràng. Vì vậy dù chúng tôi đã nhiều lần xin ý kiến, nhưng vẫn chưa nhận được phản hồi tích cực nên cứ phải dựa trên quy định hiện hành của ngạch giáo viên tiểu học bậc 2 để chi trả”.

Đi tắt, đón… “đòn”

Trong lúc mô hình vẫn đầy ắp những bất cập, nhưng với mong muốn sớm nhân rộng…, An Giang đã mở rộng phạm vi thực nghiệm sang Trường Tiểu học A Phú Hiệp (huyện Phú Tân) nay là Tiểu học D Châu Phong (thị xã Tân Châu). Tuy nhiên do “lười” chuẩn bị cho các bước đi tiếp theo nên chương trình đã “dính đòn”: Chỉ đóng khung tại 2 điểm trường dù toàn tỉnh có đến 9 xóm (làng) Chăm sống tập trung. Đáng lo hơn là hai trường phải tự cựa quậy trong thử nghiệm suốt mười mấy năm qua. Vì thế, tuy mang lại những hiệu quả nhất định, như: Cung cấp cho học sinh nhiều vốn từ mà nếu không đi học, các em phải vay mượn tiếng người Kinh, như Sa-tơi (cây thước)… nhưng thực tế cho thấy chính chương trình TCNB đã tạo ra sức ỳ, trì kéo cỗ xe giáo dục trong cộng đồng người Chăm.

Phó ban Văn hóa – Xã hội (HĐND tỉnh An Giang) Lê Thành Tân nói, nguyên nhân chủ yếu là do chưa được đầu tư đúng mực và là khoảng trống trong công tác quản lý. Trong lúc cả 3 “giáo viên hợp đồng” dạy TCNB đều không có nghiệp vụ sư phạm dạy tiếng Chăm (ngoại trừ ông Sen tốt nghiệp trường sư phạm hệ 2 năm chương trình phổ thông (khoá 1970-1972), 2 vị còn lại là chức sắc tôn giáo), thế nhưng công tác quản lý nhà nước cũng chẳng khá hơn để có thể tác động tích cực trở lại.

“Đến nay toàn ngành giáo dục An Giang không có cán bộ có trình độ TCNB đủ để kiểm tra, giám sát, hỗ trợ…”, ông Tân, chia sẻ thêm: “Người dạy tiếng Chăm cũng không được hội họp đúng nghĩa để đánh giá, rút kinh nghiệm về chuyên môn, nghiệp vụ”. Và như tất yếu, khoảng trống này đã nảy sinh nhiều khoảng trống đáng sợ khác: Thiếu kịp thời tham mưu, kiến nghị lấp đầy khoảng trống về chế độ chính sách…, khiến giáo viên TCNB phải lao động kiếm sống, ít có thời gian đầu tư cho giờ dạy, học sinh thiếu động cơ học tập hăng say… mà còn dồn đẩy các em vào tình thế khó khăn hơn.

“Sách dạy tiếng Chăm ở An Giang là “bản dịch” sách giáo khoa cùng trình độ được biên soạn lần đầu vào năm 1995, nhưng 20 năm qua sách TCNB vẫn “chạy… tại chỗ”. Vì thế chẳng những không hỗ trợ học sinh Chăm “thông luồng” ngôn ngữ để học tốt và hiểu sâu hơn bài vở, trái lại với sự lệch pha, vênh về kiến thức đã bắt các em phải học nhiều hơn nội dung chương trình hiện hành”, ông Issa Sen nhấn mạnh.

Đáng lo hơn, từ khoảng trống này đã “mở cửa” cho nhiều hành vi vi phạm Luật Lao động có cơ hội bùng phát. Thực tế hoạt động 17 năm qua cho thấy: Người dạy TCNB chưa được đơn vị sử dụng lao động thực hiện các chính sách tối thiểu: Hợp đồng lao động, bảo hiểm y tế… Vì vậy, theo ông Lê Thành Tân, nếu không sớm có biện pháp khắc phục, chấn chỉnh hữu hiệu, “khoảng trống trách nhiệm” này còn có khả năng gây xói mòn lòng tin của người dân nói chung, đồng bào Chăm nói riêng vào chính sách chăm lo cho đồng bào dân tộc thiểu số mà Đảng, Nhà nước đã dày công xây dựng và tổ chức thực hiện với quyết tâm cao trong thời gian qua.

Bao giờ “cầu nối” không còn là “gánh nặng”?

Trong bối cảnh hội nhập, cơn lốc hiện đại sẽ dồn đẩy cộng đồng dân tộc thiểu số “xa rời” tiếng nói, chữ viết mẹ đẻ ngày càng mạnh mẽ và khốc liệt, trong đó có TCNB. Vì vậy nhu cầu xây chiếc nối hai đầu ngôn ngữ là rất cần thiết và cấp bách, nhưng thực tế cho thấy, ngay với An Giang, địa phương chiếm trên 50% tổng số NCNB cũng không dễ thực hiện… Trước hết là nguồn giáo viên (GV), tham gia dạy TCNB đang chắp vá cả chuyên môn lẫn nghiệp vụ… Trong khi đó, địa phương vẫn đang loay hoay trước vạch xuất phát của công cuộc cải thiện, khắc phục…

ThS Hoàng Xuân Quảng – Phó Hiệu trưởng ĐH An Giang lo lắng: “Muốn có GV đạt chuẩn, thì phải đào tạo, nhưng hiện tại ĐH An Giang vẫn chưa có mã ngành đào tạo giáo viên dạy TCNB và cũng chưa có giảng viên cơ hữu để có thể xin mã ngành theo quy định”. Đáng lo hơn là ngay cả khi có điều kiện mở lớp bồi dưỡng cũng khó thu hút được người tham gia. Bởi với thực trạng hiện nay, không dễ cho An Giang vượt qua “vòng luẩn quẩn thử nghiệm” để người tham gia dạy TCNB có thể hưởng đủ các chế độ của giáo viên. Bởi sách tiếng Chăm mà An Giang đang sử dụng là “mượn” của tỉnh Tây Ninh biên soạn, không thể tự ý sửa. Trong khi đó, sau 21 năm vào cuộc với sách TCNB (1994-2015) Tây Ninh vẫn chưa thể “cập nhật” tài liệu này và khả năng cải thiện trong thời gian tới lại rất mỏng do nguồn nhân lực đang “hao mòn”.

Thực chất khi xây dựng bộ sách này, tỉnh Tây Ninh chủ yếu dựa vào sự trợ giúp của các nhân sĩ người Chăm ở An Giang: Giáo cả Musa Haji, thầy Issa Sen… Tuy nhiên ông Musa vừa mất vì tuổi cao, còn ông Sen cũng vào tuổi “xế chiều”. Trong khi đó 17 người Chăm công tác trong ngành GDĐT An Giang, phần lớn lại ít hiểu biết về chữ viết Chăm… bao giờ chương trình TCNB mới thoát khỏi nghịch lý: Từ chỗ là “cầu nối” với nhiều ý nghĩa nhân văn… trở thành “gánh nặng” cho cả người cho lẫn người nhận?

Có lẽ, trong lịch sử giáo dục nước nhà , chưa có mô hình nào vượt “kỷ lục rùa bò” như chương trình dạy – học tiếng Chăm Nam Bộ (TCNB).

 

Người dạy TCNB chưa được đơn vị sử dụng lao động thực hiện các chính sách tối thiểu: Hợp đồng lao động, bảo hiểm y tế…

 
 

Bình luận về bài viết này