English: 55 Years After Agent Orange Was Used In Vietnam, One Of Its Creators Is Thriving Here Monsanto đang bành chướng ở Việt Nam nơi họ đã góp phần tàn phá.
Cách đây 50 năm, quân đội Hoa Kỳ bắt đầu phun hàng triệu gallon chất độc được biết với tên chất da cam trên cácvùng rộng lớn phía Nam Việt Nam. Tuy nhiên, ngày nay, thay vì oán giận và cô lập với Hoa Kỳ, Việt Nam lại tràn ngập hội chứng sính Mỹ – Americanophilia. Thành phố Hồ Chí Minh, một thời là thủ đô của chế độ do Mỹ hậu thuẫn dưới tên gọi Sài Gòn giờ đang nổi lên các doanh nghiệp McDonald’s và Starbucks. Trung tâm kinh tế này của Việt Nam cũng tự hào về sự gia tăng các cửa hàng Apple, nơi chứng kiến khách hàng hồi hộp chờ đợi sự ra mắt của điện thoại iPhone mới nhất và thường được nhiều người coi là biểu tượng thời trang của quá trình Mỹ hoá. Và với phần lớn dân số hơn 90 triệu người sinh ra sau 1975 (năm chiến tranh kết thúc), quần chúng có xu hướng trông đợi tương lai chứ không dựa vào quá khứ đắng cay với người Mỹ. Tuy nhiên, việc Mỹ hoá và những gì nó mở ra, bao gồm việc mở rộng các công ty như tập đoàn công nghệ sinh học khổng lồ Monsanto, có nguy cơ chôn vùi lịch sử về chất độc da cam được cho là đã gây thương vong cho hàng trăm ngàn người Việt Nam. Cho đến ngày nay, cái nhìn về sự tham gia của Monsanto vào chất độc da cam không giống nhau. Cả Hoa Kỳ và Monsanto đều đã đưa ra các tuyên bố cho biết rằng hoá chất này được làm ra theo yêu cầu của chính phủ Hoa Kỳ. Monsanto vì vậy đã tuyên bố rằng nó không chịu trách nhiệm trực tiếp. Chính phủ Việt Nam thì có một cái nhìn phức tạp hơn, họ chưa bao giờ chính thức nêu rõ lập trường về trách nhiệm của từng cá nhân, nhưng thay vào đó tập trung kêu gọi đền bù cho các nạn nhân từ tất cả các bên liên quan đến Mỹ.
Những tài liệu của Monsanto ở đất nước này quay ngược lại ít nhất nửa thế kỷ, khi chính phủ Hoa Kỳ kêu gọi sản xuất chất độc màu da cam, được quân đội Hoa Kỳ sử dụng để lực lượng bộ binh và lương thực phải lộ diện. Tổ chức này là một trong số ít các công ty cung cấp hoá chất cho chính phủ Hoa Kỳ trong chiến tranh. Giữa năm 1961 và 1971, quân đội Hoa Kỳ đã phun khoảng 12 triệu gallon chất màu da cam có chứa chất Dioxin độc tính cao trên phần lớn miền Nam Việt Nam. Vào năm 1997, chỉ 2 năm sau khi bình thường hoá quan hệ song phương với Hoa Kỳ, Việt Nam bắt đầu đưa ra vấn đề chất độc màu da cam trong các cuộc họp song phương. Nguyên Tổng bí thư đảng Cộng sản Đỗ Mười nói với Nguyên Bộ trưởng tài chính Robert Rubin của Mỹ rằng ông hi vọng 2 nước có thể làm việc để giải quyết những vấn đề xung quanh chất độc màu da cam. Điều này từ đó đã thành quan điểm chính thức của Việt Nam trên mặt trận ngoại giao. Trên mặt trận dân sự, năm 2004, tổ chức Phi chính phủ, Hiệp hội các nạn nhân chất độc màu da cam, đã đệ trình một vụ kiện tập thể tại toà án New York chống lại Monsanto và một số nhà sản xuất chất độc khác. Nhưng đó là vụ kiện duy nhất mà Việt Nam đã đưa ra chống lại Monsanto và các công ty hoá chất khác. Vụ án sau đó đã được phủ quyết tại toà án. Monsanto cũng không chịu trách nhiệm về chất độc da cam, nói rằng công ty này hoàn toàn tách biệt (ngoài tên gọi) với phiên bản Monsanto đã trợ giúp trong việc tạo ra chất độc da cam.
“Monsanto ngày nay, và trong thập kỷ vừa qua, chỉ tập trung vào nông nghiệp”, Charla Lord, người phát ngôn của công ty, nói khi được hỏi ý kiến về lịch sử quá khứ của công ty ở nước này. “Nhưng chúng tôi chia sẻ cái tên với một công ty có từ năm 1901. Monsanto trước đây đã tham gia vào nhiều hoạt động kinh doanh bao gồm việc sản xuất chất độc màu da ca cho chính phủ Mỹ. Toà án Mỹ đã quyết định các nhà sản xuất chất độc màu da cam cho chính phủ không chịu trách nhiệm về những thiệt hại liên quan đến việc sử dụng chất độc da cam vì các nhà sản xuất là nhà thầu chính phủ thực hiện các hướng dẫn của chính phủ.” Chính phủ Hoa Kỳ cũng đã ban hành các tuyên bố từ bỏ trách nhiệm về những cái chết và sự tàn phá ở Việt Nam. Thay vào đó, họ thừa nhận một số điều kiện thảm khốc, bệnh tật, và tử vong là “giả định” liên quan đến sự phơi nhiễm chất độc da cam nơi các cựu chiến binh của chính họ. Khoảng 69 dặm về phía đông bắc của thành phố Hồ Chí Minh tại tỉnh Đồng Nai, ông Nguyễn Hồng Lam và những người nông dân thuộc thế hệ ông có liên kết với Monsanto thông qua những bữa tiệc và hạt giống biến đổi gen của công ty này chứ không phải cuộc tấn công bằng chất độc màu da cam mà họ đã kinh qua. Theo ông Lam, những bữa tiệc, được chính thức gọi là các sự kiện giới thiệu sản phẩm do Monsanto đón tiếp, được tổ chức trong khoảng từ năm 2012 đến năm 2014, tương ứng với việc đưa ra các cây trồng biến đổi gen của Monsanto tại Việt Nam. Trong khi ông Lam không liên hệ chất độc da cam với công ty Monsanto, ông lại rất biết cảm giác của cộng đồng mà Monsanto đã tạo ra. ” Có những bữa tiệc kéo dài cả 3 ngày”, ông nói về các sự kiện này, là những chương trình quảng cáo tiếp cận nông dân. “Hàng chục ngôi lều sẽ được dựng lên ngày trên cánh đồng để chứa tới 400 nông dân. Tiệc thì luôn vui như tiệc cưới” “Chúng tôi làm hàng trăm sự kiện (khởi động) trên những cánh đồng. Thấy là tin. Cuộc sống của họ phụ thuộc điều này” Narasimham Upadyayula, CEO của công ty con Dekalb Việt Nam thuộc Monsanto, do Monsanto điều hành và sở hữu hoàn toàn, đã nói “Chúng tôi đã cho họ một tầm nhìn”
Tranh luận về biến đổi gen – GMO Cuộc tranh luận về GMO đã chia rẽ những nhà hoạt động và những người đoạt giải Nobel, cuộc tranh luận về Monsanto và Việt Nam cũng chia rẽ như vậy. Với Monsanto, hạt giống biến đổi gen là chủ đề hiện tại có nhiều liên quan hơn là lịch sử về chất độc da cam gắn liền với phiên bản trước đây của công ty này. Sự phát triển nông nghiệp này, họ cho biết, mang lại lợi ích cho người nông dân và cho năng suất cao hơn do hạt giống có khả năng kháng côn trùng, thuốc diệt cỏ và hạn hán. Công ty này tin rằng công nghệ sinh học trong nông nghiệp có vai trò quan trọng đối với sự bền vững của ngành nông nghiệp Việt Nam và khu vực, theo ý kiến Upadyayula. Tổ chức này nói họ tin ngô biến đổi gen là rất quan trọng đối với một quốc gia nhập khẩu khoảng 6 triệu tấn ngô vào năm 2015. “Chính phủ Việt Nam thực sự tin rằng đất nước có thể tự chủ trong việc khoa học công nghệ hỗ trợ nông dân”, Upadyayula nói tiếp. “Mục tiêu của chúng tôi là có sự thâm nhập tối đa của công nghệ” Upadyayula thêm rằng công ty này đã mất cả thập kỷ để có tín hiệu tốt mà bán sản phẩm GMO ở Việt Nam. “Đó là một hành trình dài” , ông nói. ” Có rất nhiều người đã lái thuyền. Và cuối cùng giờ đây chúng tôi đã đến bờ” Một số thành viên của hội ủng hộ GMO ở đây xem sự ra đời của cây trồng biến đổi gen là cái kết hợp lý cho những nỗ lực cải thiện sản lượng và nuôi sống dân số 90 triệu người với chi phí hợp lý, bên cạnh việc tăng cường an ninh lương thực. Nhưng các nhà hoạt động chống GMO đã tham khảo báo cáo đánh giá quốc tế về kiến thức nông nghiệp, khoa học và công nghệ để phát triển, kết luận rằng giá hạt giống và hoá chất cao, sản lượng không đảm bảo, và tiềm năng làm suy yếu an ninh lương thực địa phương làm cho công nghệ sinh học trở thành một lựa chọn tồi cho phát triển thế giới. Theo nhóm hoạt động môi trường của Greenpeace, một trong những bên chỉ trích gay gắt nhất về GMO, “kỹ thuật di truyền cho phép các nhà khoa học tạo ra thực vật, động vật và vi sinh vật bằng cách vận dụng gen theo cách phi tự nhiên”. Nhòm này tranh luận trên trang web của họ nói thêm rằng GMO “có thể lây lan qua tự nhiên thông qua thụ phấn chéo từ ruộng này sang ruộng khác và kết hợp với các sinh vật tự nhiên, do đó không thể thực sự kiểm soát được việc cây trồng biến đổi gen lan rộng như thế nào” Khi hạt giống GMO ngày càng trở nên phổ biến ở Việt Nam, cuộc tranh luận về những lợi ích và những mặt trái của nó càng làm trớ trêu thêm sự trớ trêu bất hạnh là đã cho phép nhà sản xuất chất độc da cam cũ và nhà sản xuất GMO hiện tại trở lại Việt Nam.
Trở lại tỉnh Đồng Nai, ông Lâm, người nông dân 64 tuổi nói chuyện nhẹ nhàng, dường như không bị các cuộc tranh luận làm nản chí. Ông đã trồng ngô biến đổi gen của Monsanto trên diện tích 7000 mét vuông đất trước đây là ruộng lúa từ khi hạt giống này được trồng lần đầu tiên ở Việt Nam vào tháng 12 năm 2014. Ngồi trong một túp lều tạm ở giữa đồng, ông Lam nói một cách khâm phục về 2 vụ thu hoạch đầu tiên của mình và sự thật rằng lợi nhuận của mình tăng lên đến 20%. Tuy nhiên, người nông dân này không tin rằng Monsanto là một trong những công ty sản xuất chất độc da cam. Thay vào đó, ông tập trung vào tiềm năng của công nghệ mới nhằm tăng lợi nhuận và bỏ qua sự tàn phá độc hại như một hành động khả thi của chính phủ Hoa Kỳ. Việc ông Lâm tập trung vào các vụ mùa và việc không đọc được các ấn bảng tiếng Anh đã làm cho người cựu binh (từng chiến đấu cho chế độ miền Nam được Mỹ hậu thuẫn) hoài nghi về tính hợp lệ của cuộc thảo luận về quá khứ đen tối và hiện tại gây tranh cãi của công ty này. Ông bày tỏ sự giận giữ khi được trình bày các chi tiết về giá cả tăng cao của hạt giống GMO đã được cấp bằng sáng chế của Monsanto hoặc sự liên quan khả dĩ của công ty này đối với chất độc da cam. Bị giới hạn chỉ được tiếp xúc với ấn phẩm Việt Nam, thậm chí đọc về Monsanto trong những ấn phẩm địa phương cũng không giúp được gì. Cho đến gần đây, các phương tiện truyền thông Việt Nam đã ít nhiều đưa tin về Monsanto và GMO. Chỉ sau tháng 4 năm 2015, khi mùa bắp GMO đầu tiên được thu hoạch, 2 tờ báo in lớn nhất của nước này, Tuổi Trẻ và Thanh Niên, đã điều tra câu chuyện về tính khả thi của việc gieo trồng cây GMO và lý do cho sự trở lại của Monsanto. Tuy nhiên, khi được tiếp xúc với những thông tin về sự can hệ của Monsanto vào chiến tranh, ông Lâm gọi sự thiếu thông tin về công ty này là “nguy hiểm” nhưng ông vẫn sót và vẫn nghi vấn về tính hợp lệ của thông tin, thay vào đó ông tin tưởng vào chính phủ và công ty mình đang làm. Ông nói : “Nếu tất cả các cáo buộc chống lại Monsanto là đúng, thì đó là vấn đề lớn. Tôi sẽ tẩy chay các sản phẩm của Monsanto nếu nó thực sự có hại như vậy. Nhưng mà …tôi tin tưởng chính phủ đã quyết định đúng cho người dân” Các nạn nhân chất độc da cam của Hà Nội Nguyễn Xuân Minh (trái) và Nguyễn Thi Thuy Giang tại làng Hoà Bình ở thành phố Hồ Chí Minh ngày 15 tháng 9 năm 2006. Thực tế là những người như ông Lâm không thể chấp nhận mối liên hệ được chỉ ra giữa Monsanto và chất độc da cam là mặt trái của việc các công ty đang tăng lên ở Việt Nam, và nó buộc các nhà hoạt động phải vật lộn với một số câu hỏi gây tranh cãi: Vì sao Monsanto có thể trở lại và dễ dàng bán một sản phẩm mà đã gây chia rẽ giữa các nhà khoa học trên thế giới? Và tại sao Việt Nam và nông dân ở đó lại chào đón nhà sản xuất chất độc da cam đã tiếp tục từ chối trách nhiệm về cái chết của rất nhiều người? Sự bành chướng của Monsanto tại Việt Nam Dù có những căng thẳng với những ý kiến khác nhau về sự đồng loã của Monsanto trong việc sử dụng chất độc da cam, gần đây công ty đã được cấp phép trồng 3 giống bắp GMO cho thức ăn gia súc ở Việt Nam, và dự kiến sẽ có 7 loại được phê duyệt vào cuối năm tới, theo giám đốc công ty Dekalb Vietnam Narasimham Upadyayula. Các phương tiện truyền thông địa phương đã ca ngợi Monsanto về việc đóng góp cho các trường đại học nông nghiệp hàng đầu và các tổ chức phi chính phủ về giáo dục. Trên thực tế, Monsanto đã cấp quỹ cho Hội Chữ thập đỏ Việt Nam, nơi lưu giữ số liệu nạn nhân chất độc da cam, hiện ước tính khoảng 3 triệu người. Trong khi nhiều người chỉ trích việc Monsanto đầu tư vào Hội Chữ thập đỏ Việt Nam, công ty này mới đây đã chỉ ra trong một bài blog trên trang web công ty rằng cấp quỹ cho Hội Chữ thập đỏ Việt Nam là một phần trong nỗ lực lớn hơn của họ để hỗ trợ nông dân Việt Nam. Trong bài đăng trên blog này, Monsanto cho biết, dự án nhằm “hỗ trợ bền vững cho các cộng đồng đang có nhu cầu”, họ nói thêm rằng sự hợp tác với Hội chữ thập đỏ Việt Nam “giúp cải thiện đời sống của 2000 hộ gia đình nông thôn thông qua việc cung cấp quỹ cải thiện điều kiện vệ sinh” trong số những thứ khác. Lý do cho niềm tin của Việt Nam vào Monsanto là đa dạng và phức tạp, từ nhu cầu của nước này để phát triển nhiều hạt hơn – và cung cấp nhiều protein hơn – cho tầng lớp trung lưu ngày càng tăng của mình, với mong muốn rộng lớn gây dựng hoà bình với Mỹ và thưởng thức những thành quả mới thương mại, hiệp định thương mại TPP do Mỹ dẫn đầu. Việc tập trung vào cải thiện mối quan hệ kinh tế cũng là một phần của chiến dịch của chính phủ Mỹ để xây dựng lại niềm tin và thương ại ở đất nước mà họ đã gần như xoá sổ trước đây. Đây là một chiến dịch được nhần mạnh bởi tổng thống Mỹ Barack Obama trong chuyến thăm 3 ngày gần đây ở Việt Nam. Chuyến đi nhằm củng cố quan hệ đối tác thương mại giữa 2 nước và đảm bảo Việt Nam vẫn là một cảng hữu ích chống lại TRung Quốc trong khu vực. Một nông dân làm việc trên đồng ruộng ở huyện Khoái Châu, phía Bắc tỉnh Hưng Yên ngày 29 tháng 9 năm 2014. Sự can thiệp của chính phủ Mỹ trong việc trở lại Việt Nam của Monsanto. Nền tảng cho sự trỗi dậy của các công ty Mỹ và sự mở rộng cây trồng GMO ở Việt Nam – đặc biệt là Monsanto – thực sự đã được thực hiện trong nhiều năm. Công ty này, với sự hỗ trợ của chính phủ Mỹ, đã thiết lập sự hiện diện kinh tế và văn hoá tại nước Việt Nam từ khi mối quan hệ giữa 2 quốc gia được khôi phục vào năm 1995. Việt Nam đã thắng trong cuộc chiến quân sự chống Mỹ, nhưng lại thua trong cuộc chiến kinh tế vì không thể phát triển mà không có vốn đầu tư nước ngoài. Theo cuốn lịch sử sau chiến tranh Đông Dương của Nayan Chanda “Kẻ thù anh em: cuộc chiến sau chiến tranh”, các ngân hàng Mỹ và các công ty dầu mỏ đã được mời đến Hà Nội từ tận năm 1976 để tìm hiểu về quan hệ thương mại và tài chính. Tuy nhiên, người Mỹ đã chọn việc cấm vận thương mại làm tê liệt cả nước cho đến tận năm 1995. Ngay năm Mỹ dỡ bỏ lệnh cấm vận thương mại, Monsanto mở văn phòng đại diện tại Việt Nam và bắt đầu các nỗ lực tiếp cận nông dân Việt Nam và các đối tác. Theo các tư liệu công và WikiLeaks, Đại sứ quán Mỹ tại Việt Nam đã sắp xếp cho những người mà các nhà hoạt động gọi là nhà khoa học dựa vào Monsanto đến Việt Nam và thuyết trình những lợi ích của GMO khi Việt Nam soạn thảo luật về công nghệ sinh học ở Việt Nam cách đây một thập kỷ. Trưởng nhóm của họ là Paul Teng, chuyên gia công nghệ sinh học nổi tiếng thế giới tại Đại học Kỹ thuật Nanyang ở Singapore. Ông Teng là người phát ngôn chính tại hàng loạt các hội nghị của Mỹ được tài trợ bởi Đại sứ quán Mỹ về phát triển công nghệ sinh học ở Việt Nam năm 2008, chỉ 2 năm sau khi chính phủ đưa ra kế hoạch phát triển cây trồng GMO. Chính ông là giám đốc điều hành cấp cao của Monsanto ở châu Á từ năm 2000 đến năm 2002. Trong một cuộc phỏng vấn vào tháng 1 qua Skype, ông Teng nói ông không có mâu thuẫn lợi ích dù ông có thời gian làm ở Monsanto. Ông tin rằng Việt Nam có lý do để chào đón công ty này trở lại. Ông cho biết: “Công ty này đã sẵn có công nghệ. Tôi nghĩ rằng thật khôn ngoan cho nước nào chuyển giao công nghệ tốt nhát mà họ có thể sử dụng. Điều đí giúp tiết kiệm thời gian để bắt kịp với các nước khác về tính cạnh tranh và khả năng sản xuất nhiều thực phẩm hơn.” Chính phủ Hoa Kỳ cũng đã gửi các quan chức Việt Nam đi nước ngoài để học hỏi về phát triển công nghệ sinh học, theo Cập nhật về Công nghệ sinh học Việt Nam, trong một loạt các báo cáo thường niên do Bộ Nông nghiệp Mỹ uỷ nhiệm. Tháng 12 năm 2007, Đại sứ quán Mỹ đã điều phối chuyến đi nghiên cứu công nghệ sinh học kéo dài một tuần với 8 quan chức cao cấp của Việt Nam. Một trong những báo cáo của USDA chỉ ra rằng kết quả của chuyến đi này là tạo ra “những nối kết quan trọng với Monsanto.” Sau khi thăm cơ sở nghiên cứu công nghệ sinh học Monsanto ở Mỹ năm 2009, Nguyên bộ trưởng nông nghiệp Cao Đức Phát một năm sau đã cho biết: “Người ta sợ ma vì họ chưa bao giờ thấy chúng; một số người lo ngại về GMO do chưa thấy GMO.” Ông nói với tờ báo Nông Nghiệp Việt Nam: “Tôi đã gửi một lá thư cho Monsanto nhờ họ mang hạt giống của họ tới Việt Nam. Đó chỉ là vấn đề thủ tục. GMO là thành tựu khoa học của nhân loại, và Việt Nam cần phải nắm lấy nó càng sớm càng tốt.” Đại sứ quán Mỹ tại Việt Nam cũng rất hăng hái trong việc cố gắng gây ảnh hưởng lên luật Việt Nam để có lợi cho Monsanto. Theo Wikileaks, tháng 9 năm 2009, Đại sứ Mỹ tại Việt Nam ông Michael Michalak đã viết thư cho ông Nguyễn Xuân Phúc, người đứng đầu văn phòng chính phủ Việt Nam và bây giờ là thủ tướng mới đắc cử, tìm cách xoá bỏ các quy định bắt buộc dán nhãn thực phẩm GMO và các sản phẩm nông nghiệp từ thực phẩm và các hoá đơn an toàn sinh học.
Một nguồn tin khác dẫn lời ông Michalak tại một cuộc họp với thủ tướng Phúc một tháng sau đó nói rằng luật pháp “cũng sẽ gây hại cho chương trình công nghệ sinh học mới xuất hiện của Việt Nam vào thời điểm đòi hỏi về lương thực toàn cầu tăng lên và biến đổi khí hậu có thể ảnh hưởng đến sản xuất cây trồng.” Chính phủ Mỹ thường từ chối bình luận về tính xác thực của các thông tin từ Wikileaks. Tuy nhiên, bà Kerry Humphrey, người phát ngôn của Bộ Ngoại giao, đã nhắc lại qua e-mail rằng công nghệ sinh học giúp giải quyết những thách thức toàn cầu về nhu cầu ngày càng tăng về thực phẩm chất lượng cao, biến đổi khí hậu và các áp lực về môi trường khác. Bà nói, “Monsanto chỉ là một trong nhiều công ty ở Mỹ và những nơi khác – cùng với các chính phủ và các viện nghiên cứu – đang áp dụng công nghệ sinh học để tìm kiếm các giải pháp cho những thách thức toàn cầu này.” Những nỗ lực vận động hành lanh của Mỹ đã được đón nhận nồng nhiệt. Jeffrey Smith, tác giả của cuốn sách bán chạy ” Hạt mầm của sự lừa dối – Seeds of Deception”, đã không hé một lời nào trong cuộc phỏng vấn về chủ đề này. Ông nói, “Chính phủ (Việt Nam) đã nhận lời khuyên lệch lạc từ ngành công nghệ sinh học và từ những người ủng hộ chính của nó – đó là chính phủ Mỹ.” Sau khi gặp các quan chức và chuyên gia trong nước, ông Smith nói, “Rõ ràng là các cơ quan chính phủ đã bị thuyết phục rằng GMO sẽ là nguồn mở rộng kinh tế và thành tựu khoa học.” Tài liệu của Monsanto ở nước này quay lại thời gian nửa thế kỷ trước, khi nó lần đầu được chính phủ Mỹ kêu gọi để sản xuất chất độc da cam. Xoá bỏ các vấn đề chất độc da cam. Ông Lê Huy Hàm, tổng giám đốc Viện Di Truyền Việt Nam thuộc chính phủ, đã bảo vệ sự trở lại của Monsanto, 41 năm sau khi chiến tranh kết thúc. Ở Việt Nam, ông Hàm là người điều hành một tổ chức ủng hộ GMO có vẻ như đã đạt được kết quả tốt. “Nếu chúng tôi từ chối Monsanto vì họ là nhà sản xuất chất độc da cam, chúng ta cũng nên tẩy chay Boeing và không để họ vào Việt Nam”, ông phát biểu trong một cuộc phỏng vấn. Boeing đã chế tạo B-52 đã thả hàng tấn bom xuống nước này. Nhưng Monsanto có một vài đối thủ ở Việt Nam. Trưởng nhóm này là bà Nguyễn Thị Bình, phó chủ tịch nước Việt Nam từ năm 1992 đến năm 2002. Năm 2004, bà đã nhận được sự ủng hộ quốc tế cho vụ kiện tập thể chống lại Monsanto và các công ty hoá chất khác. Cũng năm đó, chính phủ Việt Nam đã thông qua vụ kiện tập thể của tổ chức phi chính phủ này (Hội Việt Nam về nạn nhân chất độc màu da cam ở toà án New York chống lại Monsanto và và một số nhà sản xuất chất độc hại khác. Toà án này giống với toà án đã nghe thấy vụ kiện duy nhất trước đây do các cựu binh Mỹ đâm đơn kiện các nhà sản xuất chất độc da cam . Vụ kiện ban đầu được giải quyết vào năm 1984, khi Monsanto và các công ty hoá chất khác của Mỹ đạt được thoả thuận với các nguyên đơn, trả 180 triệu cho 291.000 người trong 12 năm. Nhưng khi đến vụ kiện Việt Nam, Jack Weinstein, vị thẩm phán đã ngồi nghe tại vụ án năm 1984, lại đứng về phía các công ty hoá chất và bác bỏ vụ án này, cho rằng việc cung cấp chất làm rụng lá không cấu thành một tội ác chiến tranh. Quyết định này đã cho phép Monsanto tiếp tục từ chối bồi thường cho các nạn nhân Việt Nam, và chệch hướng đổ lỗi cho chính phủ Hoa Kỳ. Bà Bình là một nhân vật huyền thoại ở Việt Nam. Bây giờ bà đã ở tuổi 80, bà vẫn là một “nhà hoạt động đầy nhiệt huyết không chịu chờ sung rụng…thế giới vẫn lắng nghe mình”, tác giả người Mỹ Lady Borton viết. Hình 8: Một biển báo nguy hiểm trên cánh đồng bị nhiễm Dioxin gần sân bay Đà Nẵng, trong một buổi lễ đánh dấu việc bắt đầu dự án làm sạch dioxin còn sót lại sau chiến tranh Việt Nam, tại một căn cứ quân sự Mỹ cũ ở Đà Nẵng, Việt Nam. Nhưng ở một nước nơi GMO được phân loại dưới hình thức chiếc ô đẹp của công nghệ sinh học, có một niềm tin đang tăng dần trong giới khoa học cho rằng đó là sự đổi mới nông nghiệp rất lớn; với họ bất kỳ phản đối nào đều giống như lạc hậu và bảo thủ. Bà Bình, người cảnh báo về quá khứ đen tối của công ty công nghệ sinh học này trong lịch sử của nước này và lo lắng về tương lai của nó ở đây, vì vậy ít có tác động. Tuy nhiên, bà có đôi tai của Nguyễn Kim Phượng, 86 tuổi, đã trải qua cả hai cuộc chiến tranh liên quan đến Pháp và Mỹ. Ông Phượng đã bỏ qua chiến tranh và vui mừng khi thấy mối quan hệ Mỹ – Việt tiến triển. Nhưng ông không vui khi Monsanto tiếp tục tăng cường ảnh hưởng của nó ở nước mình, với quá ít hậu quả cho hành động của họ. Ông nói, “Chính phủ phải yêu cầu Monsanto xin lỗi các nạn nhân chất độc da cam và gia đình họ là những người Việt Nam. Monsanto cũng phải bồi thường thiệt hại đúng mức cho các nạn nhân bị ảnh hưởng.” Nhưng tiếng nói của bà Bình và tiếng nói của những người như ông Phượng, dường như bị mất đi đối với những người trong chính phủ, nhiều người trong số họ xem GMO và Monsanto như là miền đất hứa. Chính trong bối cảnh này dường như mọi thứ không thể ngăn cản được việc Monsanto thúc đẩy ở Việt Nam. Việt Nam hiện đang kế hoạch trồng cây GMO trên 30% tới 50% đất nông nghiệp vào năm 2020. Điều đó sẽ không ngăn cản những người như ông Phuong và những nạn nhân chiến tranh khác cất lên tiếng nói về mối lo của họ. Ông nói, “Nếu chúng tôi chịu đựng quá mức, không thể tránh được là chúng tôi sẽ đầu hàng chính môi trường văn hoá của mình. Chúng tôi chỉ muốn công lý.” Thông tin về tác giải Diễn Lương http://www.foreignpressassociation.org/2016-scholarship-winner-dien-nguyen-an-luong/
|
