Hiệp định đối tác kinh tế Việt Nam – Nhật Bản: Động lực cho tăng trưởng thương mại – 2 kỳ

Kỳ I: Cánh cửa mới cho hàng Việt

07:06 | 26/07/2015

BCTHiệp định Đối tác kinh tế Việt Nam – Nhật Bản (VJEPA) là hiệp định thương mại tự do song phương đầu tiên kể từ khi Việt Nam gia nhập WTO. Với các nội dung toàn diện về tự do hóa thương mại hàng hóa, dịch vụ, đầu tư…, VJEPA mở ra những cánh cửa mới cho hàng hóa Việt Nam vào thị trường Nhật Bản.

Hàng thủy sản Việt có nhiều cơ hội vào thủy sản Nhật nhờ VJEPA

VJEPA mở cửa cho hàng Việt

Tại cuộc tọa đàm “Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt của Việt Nam để thực hiện VJEPA giai đoạn 2015- 2019 và cơ hội cho doanh nghiệp”, ông Hà Duy Tùng- Phó Vụ trưởng Vụ Hợp tác quốc tế, Bộ Tài chính- cho biết, VJEPA (có hiệu lực từ ngày 1/10/2009) đã, đang và sẽ tạo động lực thúc đẩy hợp tác kinh tế hai nước. Theo đó, về tổng thể, vào năm cuối của lộ trình giảm thuế (2026), tức là sau 16 năm thực hiện VJEPA, Việt Nam cam kết xóa bỏ thuế quan đối với 90,64% số dòng thuế, trong đó xóa bỏ thuế quan ngay tại thời điểm VJEPA có hiệu lực đối với 29,14% số dòng thuế.

Nhật Bản cũng tạo thuận lợi cho hàng Việt với cam kết loại bỏ thuế quan đối với gần 94,53% kim ngạch trong vòng 10 năm. Đối với các sản phẩm công nghiệp- nhóm hàng Việt Nam chủ yếu nhập khẩu, Nhật Bản cam kết cắt giảm thuế bình quân từ 6,51% năm 2008 xuống 0,4% vào năm 2019.

Cụ thể, hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Nhật được hưởng thuế suất 0% (giảm từ mức bình quân 7%) ngay từ khi VJEPA có hiệu lực; sản phẩm da, giày được hưởng thuế suất 0% trong vòng 5- 10 năm. Trong khi đó, sản phẩm nông sản- lĩnh vực Việt Nam có thế mạnh nhưng Nhật Bản bảo hộ mạnh mẽ- chỉ được Nhật Bản cắt giảm thuế bình quân từ 8,1% năm 2008 xuống 4,74% vào năm 2019. Nhóm hàng rau quả tươi của Việt Nam cũng được hưởng thuế suất 0% sau 5- 7 năm, kể từ năm 2009.

Riêng đối với hàng thủy sản, Nhật Bản giảm thuế từ mức bình quân 5,4% năm 2008 xuống 1,31% năm 2019. Đặc biệt, tôm, cua, ghẹ và một số sản phẩm cá đã được hưởng thuế suất 0% ngay từ năm 2009.

Việc xóa bỏ phần lớn hàng rào thuế quan đã và đang mở ra cơ hội lớn cho hàng Việt thâm nhập vào thị trường Nhật Bản, đồng thời cũng giúp các doanh nghiệp (DN) nhập khẩu máy móc thiết bị phục vụ sản xuất.

Lựa chọn giữa VJEPA và AJCEP

Trước khi có VJEPA, quan hệ kinh tế hai nước đã được thực thi trên nền tảng pháp lý của Hiệp định Thương mại tự do ASEAN- Nhật Bản (AJCEP) được ký từ năm 2008. So với VJEPA, các cam kết về thuế của AJCEP đều thấp hơn. Cụ thể, trong AJCEP, Việt Nam cam kết loại bỏ thuế quan đối với 82% giá trị nhập khẩu từ Nhật Bản trong 16 năm. Ngược lại, Nhật Bản sẽ miễn thuế cho gần 94% giá trị nhập khẩu từ Việt Nam trong 10 năm. Tuy nhiên, dù ít được giảm thuế, song AJCEP lại có các quy tắc về xuất xứ thuận lợi hơn cho DN Việt Nam khi tiếp cận thị trường Nhật Bản.

Việc cùng chịu ảnh hưởng của hai hiệp định sẽ khiến DN gặp khó khăn khi thực thi. Bởi vậy, ông Trần Đình Thiên- Viện trưởng Viện Nghiên cứu kinh tế Việt Nam- cho rằng, khi đứng trên góc độ khác nhau, lợi ích được hưởng của DN sẽ khác. DN phải xác định được lô hàng xuất khẩu nào cần tận dụng ưu đãi thuế, lô hàng nào cần đến thuận lợi về nguồn gốc xuất xứ, từ đó mới chọn lựa được VJEPA hay AJCEP.

Đánh giá về triển vọng thị trường Nhật Bản trong thời gian tới, ông Tạ Đức Minh- Phó Trưởng phòng Đông Bắc Á, Vụ Thị trường châu Á- Thái Bình Dương (Bộ Công Thương)- cho biết, những năm tới, nhu cầu nhập khẩu của Nhật Bản sẽ tăng cao. Nhật Bản sẽ trở thành nước nhập siêu sau 31 năm liên tục xuất siêu. Hơn nữa, các mặt hàng lâu nay được Chính phủ Nhật Bản bảo vệ đang đứng trước xu hướng phải nới lỏng bảo hộ. Đặc biệt, Nhật Bản đang trong xu hướng chuyển nhập nhiều loại mặt hàng từ Trung Quốc sang nhập từ Việt Nam và các nước Đông Nam Á khác. Những thời cơ đó cùng với hai hiệp định trên, hàng Việt đã có “điều kiện đủ” tạo nên trợ lực mạnh để thâm nhập vào thị trường lớn Nhật Bản.

Tuy nhiên, để nắm bắt được vận hội, các DN Việt Nam cần tự nghiên cứu, cập nhật thông tin, nắm rõ lộ trình cam kết và biểu thuế ưu đãi đối với từng mặt hàng.

Kỳ II: Mới “ăn” được gần 7% “miếng bánh”

Theo VJEPA, nhóm hàng da, giày Việt Nam sẽ được hưởng thuế suất 0% trong vòng từ 5- 10 năm; nhóm hàng rau quả tươi cũng được hưởng thuế suất 0% sau 5- 7 năm kể từ năm 2009. Các sản phẩm nông sản sẽ giảm thuế bình quân từ 8,1% năm 2008 xuống 4,74% vào năm 2019.

Nguyễn Phượng

***

Hiệp định đối tác kinh tế Việt Nam – Nhật Bản (VJEPA):

Kỳ II: Mới “ăn” được 7% “miếng bánh”!

07:16 | 30/07/2015

BCT Với nhiều ưu đãi về thuế quan, VJEPA là “món” ngon cho các doanh nghiệp (DN) xuất nhập khẩu của Việt Nam. Tuy nhiên, dù đã có hiệu lực được 6 năm nhưng các DN Việt mới chỉ “ăn” được 4-7% “miếng bánh” này.

Hàng hóa xuất khẩu vào Nhật Bản phải đáp ứng các tiêu chuẩn khắt khe

Sau giảm thuế là những hàng rào thép gai

Sau dấu mốc ký kết VJEPA năm 2009, vài năm sau, kinh tế Việt Nam và Nhật Bản đều rơi vào suy thoái do đó hiệp định này chưa phát huy tác dụng. Từ năm 2012-2014, kim ngạch trao đổi thương mại giữa hai nước đã tăng trưởng tốt hơn. Tuy nhiên, mức tăng trưởng ấy cũng chỉ ở mức trung bình. Mới đây, bà Trịnh Thị Thu Hiền – Trưởng Phòng Xuất xứ hàng hóa – Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương) đã chia sẻ một thông tin đáng buồn: Tỷ lệ tận dụng ưu đãi từ VJEPA của DN Việt mới được 4-7% do các yêu cầu xuất xứ khắt khe.

Theo VJEPA, hàng Việt muốn hưởng ưu đãi thuế quan phải đáp ứng yêu cầu nghiêm ngặt về nguồn gốc xuất xứ. Đây là khó khăn lớn đối với DN Việt. Ông Hà Duy Tùng- Phó Vụ trưởng Vụ Hợp tác quốc tế, (Bộ Tài chính) – lấy ví dụ: Hàng dệt may Việt Nam dễ dàng xuất khẩu (XK) vào Nhật Bản, song lại khó được hưởng ưu đãi thuế do phải đáp ứng quy tắc xuất xứ chi tiết đối với từng loại nguyên phụ liệu. Giày dép và nhiều sản phẩm khác cũng chịu chung tình trạng trên.

Bên cạnh vấn đề nguồn gốc xuất xứ, các tiêu chuẩn kỹ thuật của Nhật cũng là “bức tường” cao với hàng Việt. Đơn cử như gạo Việt Nam đã từng XK được sang Nhật, nhưng sau khi phát hiện dư lượng thuốc bảo vệ thực vật, “cánh cửa” cho gạo đã tạm thời bị đóng lại. Ngoài ra, thủy sản Việt trong đó đặc biệt là tôm cũng đang bị Nhật kiểm tra rất gắt gao về an toàn vệ sinh thực phẩm.

Chấp nhận luật chơi chung

Theo chia sẻ của ông Đỗ Văn Dũng- Chủ tịch Câu lạc bộ Doanh nghiệp Việt Nam- Nhật Bản – để XK được, DN phải nắm được từng chi tiết kỹ thuật, chất lượng, quy định, luật pháp của nước sở tại. Trên cơ sở đó, DN mới làm đủ thủ tục và được cho thông quan, dù mặt hàng đó có phải chịu thuế hay không.

Ông Nguyễn Sơn – Phó Văn phòng Ban chỉ đạo Liên ngành hội nhập quốc tế về kinh tế- khẳng định: Các tiêu chuẩn của Nhật là áp dụng chung cho tất cả hàng hóa chứ không riêng cho Việt Nam. Do đó, không thể yêu cầu một quốc gia hạ thấp tiêu chuẩn các hàng rào kỹ thuật. “Trừ khi DN phát hiện Nhật Bản có sự phân biệt đối xử đối với hàng nhập khẩu, ví dụ như có yêu cầu cao hơn đối với hàng nội địa thì DN mới có quyền khiếu nại”- ông Sơn cho hay.

Để các DN thâm nhập sâu vào thị trường Nhật Bản, theo ông Sơn, DN cần đẩy mạnh tiếp thị; hợp tác chặt chẽ với các nhà phân phối của Nhật và nghiên cứu chuyên sâu về những đặc thù riêng biệt của thị trường để có phương thức bán hàng, giới thiệu sản phẩm và chăm sóc khách hàng hiệu quả. Ngoài ra, DN phải am hiểu và sử dụng thành thạo tiếng Nhật…

Để XK hàng hóa sang Nhật Bản và được hưởng ưu đãi, DN phải đáp ứng được nhiều tiêu chuẩn quốc tế về nguồn gốc xuất xứ từng loại nguyên liệu, thời gian gia công, lương, độ tuổi công nhân…

Nguyễn Phượng

 

Advertisement

Trả lời

Điền thông tin vào ô dưới đây hoặc nhấn vào một biểu tượng để đăng nhập:

WordPress.com Logo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản WordPress.com Đăng xuất /  Thay đổi )

Facebook photo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản Facebook Đăng xuất /  Thay đổi )

Connecting to %s