Dương Văn Ni – Chủ Nhật, 26/4/2015, 18:53 (GMT+7)
Những công trình chống ngập cũng cần cát để làm bờ bao. Ảnh: Lê Hoàng Vũ
(TBKTSG) – Cát đã làm thay đổi diện mạo phát triển của ĐBSCL thời gian qua. Dễ thấy nhất là các con đường giao thông khang trang, các tòa nhà từ vài tầng đến vài chục tầng, xuất hiện từ nông thôn xa xôi đến các thành phố sầm uất. Cát cũng góp phần trong các công trình điểm nhấn của cả ĐBSCL như cầu Mỹ Thuận, cầu Cần Thơ; sân bay Trà Nóc, bến cảng Cái Cui và hàng loạt các khu công nghiệp, các cụm tuyến dân cư của toàn bộ các tỉnh thành của ĐBSCL. Cát cũng hiện diện trong đời sống hàng ngày của mỗi gia đình từ sản xuất, nghỉ ngơi, vui chơi giải trí đến tín ngưỡng, tôn giáo. Vậy chúng ta sẽ làm gì khi ĐBSCL không còn cát?
Theo các nhà khoa học, phù sa bao gồm những vật liệu vô cơ và hữu cơ, xếp theo thứ tự kích thước từ lớn đến nhỏ, bao gồm: đá, sỏi, sạn, cát thô, cát mịn, thịt, sét, vật liệu hữu cơ chưa phân hủy và các chất hòa tan trong nước.
Trên một dòng sông thì có đoạn tạo ra phù sa, kế đến là đoạn bồi lắng tạm thời và cuối cùng là bồi lắng lâu dài. Thường thì vùng tạo ra phù sa nằm ở thượng nguồn, vùng bồi lắng tạm thời nằm ở khoảng giữa và vùng bồi lắng lâu dài là ở các đồng bằng.
|
Đối với sông Cửu Long, vùng tạo ra phù sa nằm trên lãnh thổ Trung Quốc và Myanmar; vùng bồi lắng tạm thời phần lớn thuộc lãnh thổ Thái Lan, Lào và Campuchia; và vùng bồi lắng lâu dài thuộc ĐBSCL, trong đó khoảng 20% diện tích nằm trên lãnh thổ Campuchia và 80% nằm trên lãnh thổ Việt Nam.
Các yếu tố tạo thành phù sa bao gồm địa chất, độ cao, độ dốc, địa hình và kiểu sử dụng đất. Trong khi đó sự vận chuyển phù sa là do lượng mưa, cấu tạo dòng sông, lưu lượng, vận tốc và thời gian nước chảy. Còn để cho phù sa có thể lắng đọng được lâu dài thì địa hình phải bằng phẳng, vận tốc nước chảy chậm, có thời gian nước lắng đọng kéo dài và có nhiều thực vật sinh sống.
Với những điều kiện tự nhiên như vậy, từ lâu các thành phần trong phù sa như đá, sỏi, sạn đã không còn về đến ĐBSCL. Thịt, sét, vật liệu hữu cơ chưa phân hủy và các chất hòa tan trong nước thì vẫn còn về vào mùa mưa, khoảng từ tháng 7 cho đến tháng 10, nhưng chúng cũng không lắng tụ được bao nhiêu trong đồng ruộng do chúng ta bao đê khép kín để tăng vụ. Do đó, phần này bị nước lũ đẩy hết ra biển và lắng đọng dưới đáy biển nên cũng không bồi lắng được dọc bờ biển vì diện tích rừng ngập mặn còn lại quá ít.
Riêng đối với cát thô và cát mịn, thì 80% được sản xuất trên lãnh thổ Trung Quốc và Myanmar, khoảng 15% trên các vùng phía Bắc của Thái Lan và Lào, phần còn lại ở thượng nguồn của các con sông như Sesan, Sekong và Serepok thuộc lãnh thổ Việt Nam.
Do cấu tạo của địa chất nên đáy sông Cửu Long, đoạn chảy qua lãnh thổ của Thái Lan, Lào và Campuchia có hàng ngàn hố sâu. Nhiều hố sâu từ vài chục mét đến cả trăm mét. Các hố sâu này là những “sọt” chứa cát khổng lồ từ vài trăm đến hàng chục ngàn mét khối cát.
Mỗi năm, vào mùa mưa, nước mưa và nước sông Cửu Long mang cát từ các sườn núi dốc cao trên lãnh thổ Trung Quốc và Myanmar vào lãnh thổ Thái lan và Lào. Để rồi vào mùa khô tiếp theo, khi lưu lượng và vận tốc nước chảy giảm dần, lượng cát lắng đọng tạm thời nầy tiếp tục di chuyển vào lãnh thổ Campuchia và Việt Nam, theo cách chúng lấp dần các hố sâu dưới đáy sông. Để rồi sang mùa mưa năm sau, khi lưu lượng và vận tốc nước chảy tăng lên, một phần hay toàn bộ lớp cát lắng đọng trong các hố này sẽ bị nước lũ mang đi, để rồi chúng sẽ được bù lại vào mùa khô tiếp theo. Với cơ chế tự nhiên này, thì cát đến được ĐBSCL cần thời gian dài từ vài năm đến vài chục năm!
Vì vậy, khi Trung Quốc xây dựng các đập thủy điện thì 50% lượng cát tạo ra hàng năm không di chuyển được vào lãnh thổ Thái Lan và Lào, phần còn lại thì bị ba quốc gia này khai thác cho các hoạt động phát triển hạ tầng và kinh tế, xã hội.
Các số liệu công bố gần đây cho thấy, từ năm 2009 đến nay, lượng chất rắn có trong phù sa gồm đá, sỏi, sạn, cát thô, cát mịn khi di chuyển vào lãnh thổ Thái Lan và Lào đã giảm từ 100 triệu tấn xuống còn khoảng 50 triệu tấn; hàm lượng thịt, sét, vật liệu hữu cơ chưa phân hủy và các chất hòa tan trong nước cũng giảm từ khoảng 70 triệu tấn xuống còn 10 triệu tấn.
Trong khi đó, lượng sỏi, sạn, cát thô, cát mịn do Thái Lan, Lào và Campuchia khai thác hàng năm (chủ yếu là cát) đã vượt xa con số 50 triệu tấn. Riêng Campuchia trong năm 2013 đã khai thác gần 30 triệu tấn cát.
Như vậy là từ năm 2010 đến nay, lượng cát di chuyển từ lãnh thổ Trung Quốc và Myanmar xuống đã không bù đắp đủ lượng cát do Thái Lan, Lào và Campuchia khai thác. Có thể nói là từ năm 2010, cát thô đã không còn về đến ĐBSCL của Việt Nam. Lượng cát mà chúng ta đang khai thác hàng năm là cát đã được lắng đọng từ hàng chục thậm chí là hàng trăm năm trước!
Nếu Lào xây dựng đập thủy điện Don Sahong ở phía Nam và Campuchia vẫn tiếp tục tốc độ khai thác cát như hiện nay, thì kể cả cát mịn cũng không còn để về đến ĐBSCL của Việt Nam!
Cát ở ĐBSCL là loại phù sa lắng đọng lâu dài, chúng tạo ra nền của đáy sông, cù lao và các tầng lưu trữ nước ngọt trong đất. Có thể nói cát như là “bộ xương” định hình cho diện mạo của ĐBSCL. Thiếu cát, với ĐBSCL sẽ là một thảm họa khó lường!