Đọc các bài cùng chuỗi, xin click vào đây.
Chào các bạn,
Tiếp theo Dân ca La Chí, mình giới thiệu đến các bạn Dân ca La Ha hôm nay.
Dân tộc La Ha có tên tự gọi: La Ha, Klá, Phlạo. Họ còn được gọi với một số tên khác nhau như: Xá Cha, Xá Bung, Xá Khao, Xá Táu Nhạ, Xá Poọng, Xá Uống, Bủ Hà, Pụa. Với các nhóm địa phương: La Ha cạn (Khlá Phlao), La Ha Nước (La Ha Củng). Tiếng La Ha thuộc nhóm ngôn ngữ Kadai của hệ ngôn ngữ Tai-Kadai.
Người La Ha có mặt sớm ở miền Tây Bắc Việt Nam. Theo những tài liệu chữ Thái cổ thì vào thế kỷ XI, XII khi người Thái Ðen thiên di tới vùng đất này, họ đã gặp tổ tiên của người La Ha hiện nay. Chính vì vậy, khi làm lễ cúng Mường, người Thái vẫn còn tục đặt cỗ “trâu trắng” để tế thần Im Poi – một thủ lĩnh nổi tiếng của người La Ha vào đầu thế kỷ XI.
Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người La Ha ở Việt Nam có dân số 8.177 người, cư trú tại 20 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố. Tuyệt đại đa số người La Ha cư trú tập trung tại tỉnh Sơn La (8.107 người, chiếm 99,14% tổng số người La Ha tại Việt Nam). Ngoài ra người La Ha còn sinh sống tại Hà Nội (thống kê được 13 người), Đắk Nông (12 người).

Người La Ha sống chủ yếu bằng nghề làm rẫy theo lối du canh, do đó việc hái lượm đóng vai trò quan trọng hơn so với săn bắn và đánh cá. Ngày nay nhiều bản đã làm ruộng lúa nước. Người La Ha biết đắp bờ chống xói mòn nương; có nơi đã biết dùng phân bón. Người La Ha thường nuôi heo, gà. Họ cũng nuôi trâu, bò để cày kéo.
Người La Ha sống theo trưởng làng bản là Khun cai, hai người giúp việc Khun cai là Khun tang, Khun téng do dân cử ra.
Trai gái La Ha được tự do tìm hiểu nhau, không bị cha mẹ ép buộc cưới gả. Tuy nhiên việc cưới gả phải được cha mẹ ưng thuận. Để tỏ tình chàng trai phải đến nhà cô gái và dùng sáo, nhị, lời hát trước khi trò chuyện bình thường. Sau lễ dạm hỏi, nếu nhà gái không trả lại trầu do bà mối của nhà trai đưa tới thì chàng trai tổ chức lễ xin ở rể. Chàng trai phải ở rể từ 4 đến 8 năm… Hết hạn đó, lễ cưới được tiến hành.
Sau lễ cưới này, cô dâu được đón về nhà chồng, đổi họ theo họ chồng và không được quay về ở với bố mẹ đẻ nữa, dù chồng chết. Trường hợp người đàn bà goá đi bước nữa, người chồng thứ hai mang lễ cưới nhỏ Thu Cơi Poọng (làm gà báo cưới) đến gia đình người chồng thứ nhất chứ không cần có quan hệ gì với bố mẹ của người đàn bà goá. Người đàn bà goá đi bước nữa vẫn quan niệm rằng khi chết đi, hồn lại tìm về với người chồng chính thức đã làm lễ Thu Mà Phu. Vì vậy, ở một số nơi, bố mẹ đã chết cả mà chưa làm được lễ cưới Thu Mà Phu thì con phải làm lễ cưới đó cho bố mẹ để bố mẹ được sống với nhau ở thế giới bên kia.

Gia đình người La Ha là gia đình nhỏ theo chế độ phụ hệ. Không chỉ con cái mang họ cha mà vợ cũng phải mang họ chồng. Con gái không được thừa kế tài sản.
Người La Ha không có tục đốt xác như người Thái Ðen mà đem chôn. Người chết được đem chôn trong nhà mồ. Mái nhà mồ được lợp bằng tranh được dỡ một phần của mái nhà ở mang ra. Trong nhà mồ đặt những thứ cần thiết cho một cuộc sống như: giỏ cơm, quần áo, chăn, đệm. Sau khi đưa đám trở về nhà, người ta thường khua cối giã gạo để xua ma không quấy phá gia đình.
Bản làng của người La Ha thường có khoảng chục nóc nhà. Người La Ha ở nhà sàn, có hai cửa ra vào với thang lên xuống tại hai đầu nhà, một cửa vào chỗ để tiếp khách và một cửa vào chỗ dành cho sinh hoạt trong gia đình.
Người La Ha không dệt vải, chỉ trồng bông và đem bông trao đổi với người Thái lấy vải mặc. Do đó, trang phục của người La Ha giống trang phục của người Thái đen. Trước kia đàn ông búi tóc sau gáy nhưng đến nay chỉ còn vài cụ già và thầy cúng giữ tục này. Ðàn bà nhuộm răng đen, mặc giống người Thái Ðen. Một số nơi còn đeo thêm tạp dề ở phần váy trước hoặc khoác trên lưng khi rét. Phụ nữ chưa chồng búi tóc sau gáy, có chồng búi tóc trên đỉnh đầu giống người Thái Ðen. Có nơi từ em bé gái đến bà cụ già chỉ có một cách búi duy nhất là trên đỉnh đầu hoặc do ảnh hưởng của người Thái Trắng chỉ vấn tóc trần hoặc búi tóc sau gáy không phân biệt có chồng hay chưa.

Người La Ha thờ tổ tiên trong gian nhà “Hóng” như của người Thái. Thầy cúng Một lao cúng gọi hồn và đuổi tà ma. Hàng năm hoặc 2-3 năm một lần Một lao làm lễ cúng tổ tiên của mình và các vị thần linh khác. Trong số các vị thần linh ấy, “Thần dương vật” (Linga) và “Thần cung kiếm” là đáng sợ hơn cả. Bởi vậy, bàn thờ của Một lao bao giờ cũng có hình nộm dương vật, kiếm và cái mộc.
Trong lễ hội “Dâng Hoa Măng” (Pang A Nụn Ban) hàng năm, thày mo sẽ cầu khẩn các thần linh để muông thú không phá hoại mùa màng, cúng con ma xó để nó không quấy rầy sức khỏe dân làng… Phần lễ hội sẽ là những màn múa “Tăng Bu”, một điệu múa độc đáo của đồng bào La Ha rộn ràng và mạnh mẽ, đạo cụ chỉ là 1 ống tre trổ xuống tấm ván theo nhịp “chát chát”. Tiếp đến là các điệu múa được kết tinh từ nền văn hóa nông nghiệp, những động tác múa khỏe khoắn tượng trưng cho các hoạt động cày, bừa, cầu mưa, múa khăn, múa kiếm… Kết thúc lễ hội là điệu múa “A Sừng Lừng” – một điệu múa đặc sắc mang nét phồn thực ước muốn về sự phát triển, trường tồn của giống nòi.
Người La Ha có bộ lịch chiếc xương sườn trâu, chiều dài 30 phân, rộng hai phân, cong theo hình chiếc lá, trên lịch ghi những kí hiệu cụ thể để đoán định ngày xấu tốt, ngày cưới hỏi, làm nhà… được gia đình ông thầy cúng Hoàng Văn Păn lưu giữ. Cả bộ lịch có mười đốt, mỗi đốt 3 vạch tuơng ứng với 30 ngày trong tháng. Theo ông Păn thì, ngày tốt trên bộ lịch ghi là ngày con Rồng, vào ngày này có thể gieo lúa, làm nhà cưới vợ…

Ngoài bộ lịch sườn trâu thì thầy cúng Hoàng Văn Păn còn có bộ thẻ bói 30 chiếc đũa. Khi được sử dụng lúc bói thì những chiếc đũa cứ thoăn thoắt nhảy múa trên tay ông thầy mo cho tới khi có những chiếc đũa bị rơi xuống cũng chính là quẻ tương ứng với những điều tốt, điềm xấu của người được xem.
Người La Ha hát, làm thơ bằng tiếng Thái khá thạo. Hai điệu múa đặc trưng là Múa dương vật (Linga) và Múa cung kiếm.
Dưới đây mình có các bài:
– Thầy Lang người chủ trì Lễ hội Dâng Hoa Măng của người La Ha, Sơn La
– Người La Ha làm lễ hội tạ ơn thầy lang
– Cách tính ngày tốt, xấu độc đáo của người La Ha cổ
– Lịch xương trâu của người La Ha
– Phép toán tử vi và cách tính lịch kỳ lạ của người La Ha
– Nơi vợ chồng không dám bỏ nhau
– Trường kì ‘ăn cơm trước kẻng’
Cùng với 3 clips tổng thể văn hóa dân tộc La Ha để các bạn tiện việc tham khảo và thưởng thức.
Mời các bạn.
Túy Phượng
(Theo Wikipedia & DSVHSL)

Thầy Lang người chủ trì Lễ hội dân hoa măng của người La Ha, Sơn La
(TH-Cinet-DTV)
Theo quan niện của người La ha (Sơn La), lễ hội dân hoa măng phải được tổ chức tại nhà thầy lang. Thầy lang là người chủ trì và chuẩn bị các thủ tục, các loại lễ vật cần để làm lễ cúng…
Lễ hội dâng hoa măng (Pang a nụn ban) của đồng bào dân tộc người La Ha là để tỏ lòng cảm tạ, tri ân thầy lang có công vì sức khỏe cộng đồng, tổng kết khả năng cứu chữa bệnh tật của thầy lang, rồi truyền lại cách thờ cúng tổ tiên cho con cháu.
Theo thường lệ, lễ hội dâng hoa măng thường được tổ chức vào dịp đầu năm mới, trước ngày rằm hàng tháng trong ba tháng mùa xuân, khi mà công việc trên nương chưa nhiều, để con cháu, bà con bản dưới mường trên gặp nhau giao lưu văn hóa, văn nghệ.

Theo quan niệm của người La ha, lễ hội phải được tổ chức tại nhà thầy lang. Thầy lang là người chủ trì và chuẩn bị các thủ tục, các loại lễ vật cần để làm lễ cúng. Lễ vật cúng thần linh gồm có các lâm thổ sản trong rừng như các loại cây, củ, quả, măng tươi, hoa rừng trang trí cây nêu và các dụng cụ cần thiết khác, nhưng nhất thiết không được thiếu cây móc, cây chuối rừng (để dựng cây nêu cúng giữa nhà), măng đắng, gạo và trứng gà sống…
Bắt đầu vào cúng mời các thần, người phụ lễ thổi pí-sên (sáo cúng) để hòa quyện với lời hát cúng, cho lời hát mau đến với các vị thần che chở cho người La Ha. Cúng xong, thầy lang cho các con nuôi về dâng lễ, cúng mời các vị thần che chở cho người La Ha trường tồn, để có được sức mạnh như: Thần Hổ – Chúa Sơn Lâm thắng mọi dã thú, bảo vệ cuộc sống cho dân bản; Cúng con nhím – thần đất để gây cảm tình, để nó không phá lúa, phải mời về ăn nó sẽ bảo vệ thành quả lao động của mình, sống lâu, vững chắc như tảng đá lớn; Cúng con chim cu gáy – thần của các loài chim hay ăn lúa trên nương để bảo vệ lúa nương cho mình. Cuối cùng là cúng con ma cang cói, để nó không quấy rầy sức khỏe nhân dân.

Cúng các thần xong, thầy lang biểu diễn các trò mà ông đã chữa khỏi cho “bệnh nhân”. Ông giả làm người bị bướu cổ khi buộc cái bát ăn cơm vào cổ mình. Ông diễn các trò làm người què chân, người ngớ ngẩn, hình ảnh người đi coi nương vung cây sào, hú đuổi lũ chim, sóc cút khỏi nương nhà. Cuối cùng là trò giả làm con khỉ, ông bò quanh cây móc giữa nhà, vừa bò, vừa kêu chí chóe, mắt đảo nhìn rất nhanh, để tìm hoa, ngô, chuối lộc ở cây móc, lúc thì gãi tai, gãi bụng, lúc thì nhảy nhót, chộp lấy bắp ngô. Một tiếng súng nổ, ông giả lăn đùng ra chết, nhiều tiếng cười vang khen người thiện xạ.

Khi màn độc diễn của thầy lang kết thúc, dân bản vào ngay màn múa “Tăng Bu”, đạo cụ chỉ là 1 ống tre trổ xuống tấm ván theo nhịp “chát chát”, tay lúc vung ra sau, khi thì 2 tay cầm ống tre nghiêng sang bên trái, nghiêng sang bên phải, múa say sưa, phụ nữ múa mềm dẻo, khỏe khoắn, linh hoạt. Sau Tăng Bu, là các điệu Múa khăn – dùng các động tác múa khỏe khoắn thể hiện sức khỏe của trai gái trong bản, minh họa bằng các điệu múa tăng gia sản xuất như cày bừa, cầu mưa; các màn múa trống, múa kiếm, thể hiện tinh thần thượng võ, đồng thời kết hợp với chữa trị bách bệnh cho bà con dân bản, xua đuổi các loại thú rừng phá hoại mùa màng. Cuối cùng là điệu múa “A Sừng Lừng” một điệu múa độc đáo mang nét văn hóa phồn thực.
Ngày nay, lễ hội Dâng Hoa Măng vẫn được đồng bào dân tộc La Ha bảo tồn, lưu truyền và phát triển, tuy còn một số mặt hạn chế, nhưng vẫn thể hiện được những nét phong tục, văn hóa, tín ngưỡng đặc sắc của người La Ha.

Người La Ha làm lễ hội tạ ơn thầy lang
(TH-Cinet-DTV)
Hàng năm người La Ha tổ chức Lễ hội tạ ơn thầy lang nhằm tỏ lòng cảm tạ, tri ân thầy lang đã có công cứu, chữa bệnh tật cho bà con.
Lễ hội tạ ơn thầy lang được tổ chức vào trước ngày Rằm hàng tháng trong 3 tháng mùa xuân với sự tham gia tự nguyện của người bệnh được thầy lang chữa khỏi. Ngày khai lễ hội do thầy lang quyết định. Thầy lang là người chủ trì chuẩn bị về thủ tục, chuẩn bị các loại con vật, hoa rừng trang trí và các dụng cụ cần thiết khác, để tổ chức tại nhà thầy lang.
Khi đã cúng xong, thầy lang cho các con nuôi về dâng lễ, cúng mời các vị thần mà dân tộc La Ha che chở cho người La Ha trường tồn, để có được sức mạnh như Thần Hổ – chúa sơn lâm thắng mọi dã thú, bảo vệ cuộc sống cho dân bản. Cúng các thần xong, thầy lang biểu diễn các trò mà ông đã chữa khỏi cho “bệnh nhân”… Ông giả làm người bị bướu cổ khi buộc cái bát ăn cơm vào cổ mình. Ông diễn các trò làm người què chân, người ngớ ngẩn, hình ảnh người đi coi nương vung cây sào, hú đuổi lũ chim, sóc cút khỏi nương nhà. Cuối cùng là trò giả làm con khỉ (tô rôốc), ông bò quanh cây móc giữa nhà, vừa bò, vừa kêu chí chóe, mắt đảo nhìn rất nhanh, để tìm hoa, ngô, chuối lộc ở cây móc, lúc thì gãi tai, gãi bụng, lúc thì nhảy nhót, chộp lấy bắp ngô. Một tiếng súng nổ, ông giả lăn đùng ra chết, nhiều tiếng cười vang khen người thiện xạ…

Khi màn độc diễn của thầy lang kết thúc, dân bản vào ngay màn múa “tăng bu”, một điệu múa độc đáo của người La Ha, rộn ràng mạnh mẽ, đạo cụ chỉ là 1 ống tre trổ xuống tấm ván theo nhịp “chát chát”, tay lúc vung ra sau, khi thì 2 tay cầm ống tre nghiêng sang bên trái, nghiêng sang bên phải, múa say sưa, đặc biệt phụ nữ múa rất mềm dẻo, khỏe khoắn, linh hoạt.
Sau tăng bu, là các điệu múa cày bừa, cầu mưa, múa khăn, múa kiếm, múa trống. Cuối cùng là điệu múa “A sừng lừng”, một điệu múa độc đáo ở miền núi nhiều nơi, tuy về hình thức có vẻ phàm tục, nhưng lại xuất phát từ thực tiễn cuộc sống quá nghèo thuở xưa, nạn hữu sinh vô dưỡng rất phổ biến, người La Ha nghĩ ra phải thờ “dương vật” để hy vọng người La Ha con đàn cháu đống, mẹ tròn con vuông.
Lễ hội được tổ chức trước tiên là để tỏ lòng cảm tạ, tri ân thầy lang có công vì sức khỏe cộng đồng, thứ đến là “tổng kết” khả năng cứu chữa bệnh tật của thầy lang, rồi là truyền lại cách thờ cúng tổ tiên cho con cháu. Lễ hội còn là dịp đầu xuân năm mới, việc trên nương chưa nhiều, việc dưới ruộng không có, để con cháu, bà con bản dưới mường trên gặp nhau giao lưu văn hóa, văn nghệ, cùng nhau gìn giữ vốn văn hóa dân tộc, và tiếp nhận nền văn hóa các dân tộc anh em khác trên địa bàn.

Cách tính ngày tốt, xấu độc đáo của người La Ha cổ
(TH-Cinet-DTV)
Nhắc đến cộng đồng La Ha cổ, người ta nghĩ ngay đến bộ lịch bằng xương trâu, nhờ loại lịch này, họ có thể tính được ngày tốt, xấu và đặc biệt là biết được sự thay đổi thời tiết để điều chỉnh công việc cho phù hợp…
Dân tộc La Ha còn được gọi với một số tên khác nhau như: Klá, Phlạo, Xá Cha, Xá Bung, Xá Khao, Xá Táu Nhạ, Xá Poọng, Xá Uống, Bủ Hà, Pụa. Đồng bào La Ha hiện nay còn khoảng 6.000 người, cư trú chủ yếu ở địa bàn các huyện Than Uyên (Lai Châu) và Thuận Châu, Mường La (Sơn La).
Người La Ha có mặt sớm ở miền Tây Bắc nước ta. Theo những tài liệu chữ Thái cổ thì vào thế kỷ XI, XII khi người Thái Ðen thiên di tới vùng đất này, họ đã gặp tổ tiên của người La Ha hiện nay. Chính vì vậy, khi làm lễ cúng Mường, người Thái vẫn còn tục đặt cỗ “trâu trắng” để tế thần ¡m Poi – một thủ lĩnh nổi tiếng của người La Ha vào đầu thế kỷ XI.
Nhắc đến cộng đồng La Ha là người ta nghĩ ngay đến bộ lịch bằng xương trâu độc đáo. Nó được coi như một phần “gia phả” của người La Ha. Bộ lịch là chiếc xương sườn trâu, chiều dài 30 phân, rộng hai phân, cong theo hình chiếc lá, trên lịch ghi những kí hiệu cụ thể để đoán định ngày xấu tốt, ngày cưới hỏi, làm nhà…
Truyền thuyết của người La Ha kể rằng, ngày xưa, họ có một quyển sách xem ngày tháng nhưng bị một con trâu vô tình ăn mất. Từ đó, công việc và cuộc sống của họ gặp nhiều khó khăn do không phân biệt được ngày tốt, xấu.
Người La Ha liền mổ con trâu kia để lấy lại quyển sách, nhưng không thấy nên quyết định lấy chiếc xương sườn của nó để khắc lịch. Nhờ loại lịch này, họ có thể tính được ngày tốt, xấu và đặc biệt là biết được sự thay đổi thời tiết để điều chỉnh công việc cho phù hợp.
Trên mỗi xương sườn trâu, người La Ha khắc 30 vạch tương ứng với 30 ngày trong tháng và các ký hiệu với nghĩa tốt, xấu khác nhau. Theo người La Ha ngày tốt trên bộ lịch ghi là ngày con Rồng, vào ngày này có thể gieo lúa, làm nhà cưới vợ… Lịch xương trâu gắn bó mật thiết với đời sống của người La Ha và được xem như một tài sản quý.
Dù khó xem nhưng lịch bằng xương trâu trước kia rất phổ biến trong cộng đồng người La Ha. Vậy nhưng hiện nay, loại lịch này đã trở thành vật hiếm và hiện chỉ còn duy nhất một quyển được cất giữ trong bảo tàng, số người La Ha biết xem lịch cũng chỉ đếm được trên đầu ngón tay. Vì lịch rất quý, người ta bí mật cách xem nên ngày nay gần như thất truyền.

Nơi vợ chồng không dám bỏ nhau
Vợ bỏ chồng sẽ bị nhà chồng phạt vạ 3 con trâu, chồng bỏ vợ sẽ phải đền “tuổi thanh xuân” cho vợ bằng 3 lạng đồng bạc.
Còn nếu người chồng đi ngoại tình bị phát hiện sẽ phải đeo hai thanh gỗ vào cổ, đi khắp các bản hô to: “Tôi ngoại tình”…
Ngược lại, người vợ đi ngoại tình, chồng bắt được, anh em nhà vợ phải mua rượu cần, lợn bản sắm sửa mâm cơm sang xin lỗi bố mẹ chồng và chồng thay cho người đi ngoại tình.
Phạt nặng tội ngoại tình
Trong quan niệm của người La Ha (xã Nậm Ét, huyện Quỳnh Nhai, Sơn La), vợ chồng sống với nhau phải chung thủy, cấm kị việc “vợ nọ, con kia”. Tuyệt đối cấm anh em ruột, họ hàng lấy nhau.
Ông Quàng Văn Đoàn (bản Huổi Pao) bảo, riêng người La Ha không có chuyện đánh ghen như người dưới xuôi. Hình thức trị tội ngoại tình vô cùng độc đáo. Người chồng đi ngoại tình bị vợ hoặc anh em bắt được sẽ phải tự đi vào rừng, chặt một khúc gỗ của cây vương. Sau đó, dùng khúc gỗ này đẽo thành hai miếng nhỏ, đeo vòng qua cổ.
“Người này phải đi bộ khắp các bản, dùng một thanh gỗ khác gõ mạnh vào hai miếng gỗ vương, miệng hô to: “Tôi ngoại tình. Tôi ngoại tình”. Bao giờ đi hết đường mới được vợ cho phép về nhà nói chuyện”, ông Đoàn kể.
Chưa hết, sau đó người chồng phải mang một con lợn khoảng 30 kg sang làm cơm xin lỗi cả họ nhà vợ. Người chồng nào bị một lần xử phạt theo kiểu này, khiếp vía cả đời.
Còn nếu như người vợ ngoại tình bị bắt được, người La Ha lại có một cách xử rất riêng.
Trong tục cưới hỏi của người La Ha, anh em họ nhà vợ bao giờ cũng được ăn phần hơn. Cậu, chú, dì bên đằng vợ được xếp vào một mâm gọi là “lũng ta”. Khi bị bắt ngoại tình, vợ không được phép xin lỗi chồng và họ hàng nhà chồng.
Theo tục, “lũng ta” phải sắm rượu cần, lợn bản, gà bản, làm một vài mâm cơm để xin lỗi nhà chồng cho cháu gái. Tùy vào mức độ vi phạm mà mâm cơm xin lỗi to hay nhỏ. Ít thì một vài ché rượu cần, đôi gà, một con lợn. Nặng thì 4 – 5 ché rượu cần, đôi con lợn, dăm con gà.

“Tục bắt “lũng ta” phải đi xin lỗi cho cháu gái bởi vì, trước được ăn phần hơn. Ăn rồi mà không biết dạy con cháu, để nó đi ngoại tình thì đi mà xin”, ông Quàng Văn Phạo, một người dân khác ở đây, cho hay.
Ngoại tình đã thế, nhắc tới chuyện bỏ nhau, người La Ha coi đó như một nỗi sợ. Vì ai bỏ ai cũng đều bị phạt vạ hết sức nặng.
Vợ mà bỏ chồng trước, gia đình nhà chồng sẽ sang tận nhà vợ phạt vạ ba con trâu. Thời gian công sức người con trai đi ở rể được ước định bằng giá trị của ba con trâu.
Nhà nào có trâu thì phải trả bằng trâu, nhà nào không có trâu thì phải trả bằng tiền, khi xưa là bạc trắng. Ngược lại, khi người chồng bỏ vợ, gia đình vợ sang phạt vạ ba lạng đồng bạc.
Nói đoạn, ông Phạo đi vào buồng lấy ra một đồng bạc cho chúng tôi xem. Đó là một đồng bạc của Pháp, được ông Phạo cất giữ mấy chục năm nay.
“Mỗi đồng bạc này mà đem ra cửa hàng vàng họ trả một triệu đồng. Ở bản này còn ít nhà giữ được đồng bạc này lắm”, một phụ nữ trong gia đình ông Phạo cho hay.
Vợ chồng bỏ nhau, theo tục thì con trai theo bố, còn con gái theo mẹ. Sau khi đường ai nấy đi, hai người vẫn được phép qua thăm bố mẹ. Tuy nhiên, ngày bố mẹ mất, người La Ha kiêng kỵ việc con rể, con dâu cũ đến viếng.
Trưởng bản Huổi Pao Quàng Văn Pánh cười như nắc nẻ: “Ở đây họ không dám bỏ nhau đâu, bỏ có mà mất cả vợ lẫn trâu à!”.
Hai năm “cấm vận”
Bản Huổi Pao của người La Ha nằm tít trên đỉnh núi cao, nơi tận cùng của xã Nậm Ét. Sương mù giăng phủ quanh năm.
Từ trung tâm huyện, con đường duy nhất để vào để đi vào Nậm Ét rồi lên Huổi Pao là thuyền máy. Trời mưa, nước lòng hồ Thủy điện Sơn La như thêm phần hung dữ. Chiếc thuyền nhỏ chòng chành, nhiều phen như muốn lật nghiêng.

Trưởng bản Pánh dẫn chúng tôi đi một vòng quanh bản, rồi rẽ vào nhà ông Quàng Văn Phạo. Ông Phạo vừa bước sang tuổi 72, thân hình gầy gò, khắc khổ vô cùng. Vợ ông đang bệnh nặng, cả nhà đang quây quần chờ thầy mo đến cúng.
Nhấp chén nước ngâm rễ cây rừng, chúng tôi hỏi chuyện ông cưới vợ trước đây. “Không đơn giản đâu, không đơn giản đâu”, ông Phạo lắc đầu nguầy nguậy.
Cũng như nhiều thanh niên người La Ha khác, ông Phạo cũng phải đi ở rể khi lấy vợ. Ông lấy vợ ở xã Nậm Giôn (huyện Mường La). Gần chục năm trời đằng đẵng, ông nai lưng làm việc, báo đáp công ơn bố mẹ vợ vì đã có công sinh thành, nuôi dưỡng vợ mình.
“Nó bắt ở bao nhiêu thì phải mình phải ở bấy nhiêu thôi, người ít thì vài ba năm, người nào lâu thì hơn chục năm. Muốn về nhà mình thì phải xin phép, nó không cho là không được về. Không được làm trái ý bố mẹ vợ. Anh nào không chịu được cũng phải xin đấy”, ông Phạo gật gù.
Làm một bi thuốc lào rõ đanh, ông Phạo kể tiếp, cái đặc biệt nhất trong phong tục ở rể của người La Ha đó là trong vòng 2 năm đầu, vợ chồng không được “gần gũi” nhau. Nhà vợ bố trí cho con rể một góc riêng, cấm được mon men đến chỗ vợ. “Có đôi nào chưa đủ hai năm mà có bầu không”, chúng tôi hỏi. Đang uống dở chén nước, ông Phạo đột nhiên dừng lại: “Ồ ồ, không có đâu. Nó phạt chết đấy”.
Mấy phụ nữ người La Ha đang quanh quẩn bếp lửa, nghe ông Phạo nói bỗng cười phá lên. Câu chuyện của chúng tôi càng lúc càng cao trào.
“Tại sao đã là vợ chồng lại không được ngủ chung?”, chúng tôi hỏi tiếp. Ông Phạo cười: “Nó sợ mình lừa con gái nó chứ sao, hết hai năm thử thách nó mới cho vợ chồng ngủ với nhau”.
Sau từng đó thời gian, nhà trai được phép mang trâu bò lợn gà sang chính thức cưới vợ cho con trai. Người con gái chính thức được lên “tằng cẩu”, báo hiệu “tôi đã có chồng”. Hai vợ chồng có thể “gần gũi” và sinh con tại nhà vợ.
“Chuyện bình thường thôi, có người ở rể lấy vợ rồi đẻ con. Con trai gần đến tuổi cưới vợ, bố mẹ mới được phép đưa con về nhà nhìn mặt ông bà nội”.
Trường hợp, người con trai nếu mồ côi, không còn anh em họ hàng thì có thể sống tại nhà vợ đến hết đời.

(Theo Tuổi Trẻ)
Trước khi cưới, chàng trai phải sang ở rể cho bên nhà gái đến hơn chục năm. Lúc đón dâu về nhà, chàng rể cũng đón luôn cả đàn con dăm bảy đứa. Đó là tục lệ ở rể bao đời nay của người La Ha ở xã Nậm Păm, huyện Mường La, tỉnh Sơn La.
Đó là những nơi heo hút rừng sâu, bao đời nay bà con dân tộc thiểu số sống dựa vào thiên nhiên, định mệnh. Luật tục đã là một phần không thể thiếu trong đời sống của họ. Luật tục vùng cao luôn mang màu sắc kỳ bí, huyền thoại. Những luật tục đôi khi đẫm nước mắt vì khắc nghiệt, nhưng có lúc cũng lắm tiếng cười.
Giữa trưa, dưới chân núi Ha Bi, Lò Văn Sương (28 tuổi) vẫn say sưa ngồi đan lưới. Công việc hằng ngày của anh rất “đơn giản”: làm tất cả những gì nhà vợ giao và chỉ được nghỉ khi vợ cho phép. Bù lại anh được phép… ngủ với vợ dù chưa làm lễ cưới chính thức. Sương khoe: “Mình có em bé rồi, nó đang trong bụng mẹ ấy mà”. Thế nhưng khi tôi hỏi thăm lý lịch của vợ, Sương lúng túng như gà mắc đẻ: “Cán bộ chờ tí, mình sẽ đi hỏi nó tên gì, mình chưa biết tên nó”.
Dân số người La Ha khoảng 1.400 người, sinh sống ở các làng bản xa xôi tại vùng Tây Bắc, nhiều nhất là hai tỉnh Sơn La và Lào Cai. Người La Ha không có tục đa thê, trai gái được tự do tìm hiểu, nhưng nguyên tắc bắt buộc là nam giới khi lấy vợ phải ở rể trong nhiều năm.
Một người bà con bên vợ thanh minh giúp cho Sương: “Quê nó tận bên Bá Kiềm, sang đây ở rể chưa đầy năm. Mà vợ nó giao cho chăm sóc cả chục sào lúa, sắn ở bên kia đỉnh Ha Bi, cách đây hơn năm giờ đi bộ đường núi. Hôm nay cuối tuần, bố vợ lên thay nó mới được về nên rất ít biết chuyện bên nhà vợ, suốt ngày ở trên rẫy làm sao biết tên vợ được”.
Chạy đi chừng ít phút, Sương quay lại nói: “À, mình biết tên con vợ mình rồi, nó tên Lò Thị Hạt, tên bố nó là Lò Văn Chon, nhà nó có sáu người à”. Sương lại lúng ta lúng túng khi tôi hỏi dự định ngày cưới: “Ái chà, bố vợ chỉ mới cho mình làm lễ “thu khôm phạc” (lễ chung chăn, chung chiếu) thôi, còn lễ cưới to thì khi nào mình làm trả đủ công bố mẹ con vợ và bảo mang lễ vật sang thì mình mới tính, nó chưa cho phép đâu cán bộ ạ”.

Một “đàn anh” của Sương vừa hoàn thành “nghĩa vụ” ở rể là Lò Văn Tún. Tún khá may mắn vì bố vợ thương chàng rể siêng năng hay làm, nên ông chỉ bắt Tún ở rể ba năm rồi cho làm đám cưới. Khi tiễn con gái về nhà chồng, ông bố còn mát tay tặng con rể quý một con trâu và nhiều chăn bông, nệm ấm. Một năm sau khi làm đám cưới, vợ Tún mới sinh thằng cu. “Ấy là tao đã tình cảm với thằng Tún lắm rồi, hồi trước tao đi cưới vợ, ở rể như đi phu mở đường qua núi. Ở đến 12 năm mới được bố mẹ vợ tặng trâu và cho cưới, cực như trâu, được cái nó cho ngủ với vợ mỗi đêm”, ông Lò Văn Sả, bố vợ Tún, nói.
Năm nay đã bước sang tuổi 104 nhưng bà Lò Thị Hặc, người ở bản Huổi Liếng, xã Nậm Păm vẫn còn khỏe lắm. Bà có thể ngồi đan gùi, đan sọt cả buổi mà chẳng thấy đau lưng, nhức mỏi gì. Cạn hai chén rượu đầy, bà Hặc thì thầm kể: “Hồi trẻ, tao có đến 60 người yêu, trong số ấy một thằng ở cùng bản là được tao chọn cho ở rể. Vậy mà “cơi poóng” (lễ ăn hỏi) cũng phải mấy lần mới xong, vì cứ ra khỏi nhà một đoạn là thấy con nai, con hoẵng đằng xa. Ấy là điềm gở, phải quay về. Nhưng thằng ấy vẫn kiên nhẫn chờ đợi qua bao mùa trăng. Đến ngày “thu khôm phạc”, người nhà nó mang rượu ngon, lợn béo, vòng bạc, váy hoa… sang chất đầy cả một nhà tao mới cho chung chăn, chung chiếu. 12 mùa rẫy trôi qua, tao sinh cho nó bốn đứa con gái, một thằng con trai thì bố mẹ tao mới cho nó làm lễ cưới. Nhưng thế là nhanh lắm vì nhà nó giàu, mỗi năm dâng lễ vật ba đồng bạc nên được bố tao trừ đi một năm ở rể”.
Câu chuyện cưới xin đầy cam go của người La Ha đâu chỉ dừng lại thế. Dù đã có con cái đùm đề, nhưng trước khi rước vợ về chàng rể còn phải làm đám “thu mạ phu” (đám cưới to), mang cả bầu đoàn sang xin nhà gái cho “ngủ nhờ” để sáng hôm sau lôi trâu, bò, lợn, gà, cá ống, cá kép, rượu phu sin mang theo ra đãi đằng họ hàng nhà gái, xin phép tổ tiên cho đón dâu về nhà chồng. Lúc ấy bố mẹ già mới gật đầu và chia cho vợ chồng một con trâu, ít chăn nệm làm của hồi môn. Từ lúc ấy họ mới chính thức là vợ là chồng. Bà Hặc ở với chồng được 30 năm trước khi ông “quay đầu về núi”, thì gần nửa thời gian ông chồng phải ở rể nhà bà trước khi chính thức được bà gọi là chồng.
Cũng như chồng mình, bà Hặc cũng “bắt” bảy chàng trai La Ha xin được làm chồng bảy cô con gái của bà phải ở rể phụ việc nhà bà 8-9 năm, sinh con cháu đông đúc rồi mới cho sang làm đám cưới linh đình. Giờ thì họ đã lần lượt qua đời, chỉ còn người con trai út sau khi ở rể bảy năm bên nhà gái đã dẫn vợ và mấy đứa cháu nội về sum họp bên bà.
Ở Nậm Păm bây giờ, không biết có phải do ảnh hưởng thời đại kỹ thuật số hay không, mà thời gian ở rể của phần lớn các chàng trai thường ít hơn và các nghi thức cũng giản tiện hơn nhiều. Ông Lò Văn Hom, 50 tuổi, ở bản Huổi Liếng, nói: “Thời buổi này bọn trẻ không có kiên nhẫn chờ đợi lâu, với lại ai cũng có công việc, nếu ở rể lâu quá thì cũng khó khăn. Nhưng đó là phong tục tập quán của dân tộc mình có từ xưa, phải khuyên bảo bọn trẻ giữ gìn thôi”.
oOo
Ký Sự Sông Đà – Tập 15 – Người La Ha ở Liệp Tè:
Lễ hội Hoa Măng của người La Ha:
Người La Ha ở Việt Nam: