Dàn Cảnh Dân Chủ: Nam Việt Nam Trưng Cầu Dân Ý Truất Phế Bảo Đại Năm 1955

Viện Đại Học California
Chương trình Nghiên cứu Vành đai Thái Bình Dương

Năm 2005
Tiến Sĩ Jessica Chapman

Full English text: Staging Democracy – South Vietnam’s 1955 Referandum to Depose Bao Dai

Tóm tắt tiếng Việt của Đào Văn Bình:

Phóng viên Donald Lancaster, người ở Sài Gòn đã và chứng kiến biến cố ồn ào 1955 này, ghi nhận như sau “ Bởi vì Bảo Đại không có cơ hội tự biện hộ cho nên hệ truyền thông và báo chí do chính phủ kiểm sóat đã tha hồ nhục mạ ông.” Lancaster viết “ Diệm thích đánh bại kẻ thù hơn là nói chuyện với kẻ thù, ” và ông kết luận rằng điều này trước mắt đem lại sự ổn định tạm thời cho vùng nông thôn. Tuy nhiên ông hàm ý rằng thái độ đàn áp của Ô. Diệm tạo nên một sự yên bình nho nhỏ trong điều kiện tốt nhất, nhưng không hé mở một chi tiết nào về tương lai chính trị lâu dài của Miền Nam.

Cooper nhớ lại Diệm và Nhu, cả hai đã ra lệnh và khuyến khích vi phạm trắng trợn bầu cử, nhưng người Hoa Kỳ lại cố giữ bộ mặt tốt đẹp cho cuộc bầu cử. Lúc bấy giờ, với sự hợp tác của người Hoa Kỳ, Diệm có thể đạt được mọi mục đích và củng cố quyền lực tại NamViệt Nam vào cuối năm 1955. Tuy nhiên theo Cooper, những chương trình và chính sách của Diệm từ thời điểm đó “ đã đưa tới thảm họa không sao tránh khỏi.”

Những tác phẩm này, cùng với một vài cuốn sách khác, cấu thành một “ bản thảo lịch sử đầu tiên”; một nỗ lực của những người Hoa Kỳ đã can dự vào cuộc chiến tranh tại Việt Nam để giải thích những căn nguyên của nó. Gần đây, các sử gia đã duyệt lại những đánh giá của các ký giả về cuộc trưng cầu dân ý, dựa theo những tài liệu của chính phủ Hoa Kỳ mới vừa giải tỏa để đưa ra sự giải thích có tính tường tận việc Hoa Kỳ liên minh với Việt Nam

Trong cuốn sách đưa ra một khảo hướng mới về bộ tham mưu của Eisenhower ở Việt Nam , David Anderson đã lý giải rõ ràng vị trí của Hoa Thịnh Đốn trong cụộc trưng cầu dân ý truất phế Bảo Đại. Ông nói rằng các giới chức Hoa Kỳ lo lắng không muốn để Diệm thua cộng sản tại vùng nông thôn trong cuộc tổng tuyển cử dự trù vào mùa hè 1956. Để ngăn ngừa tình thế có thể xảy ra, các giới chức Bộ Ngọai Giao tìm cách tái cấu trúc Nam Việt Nam thành một chính thể cộng hòa, khuyến kích Diệm mở rộng nội các và kiến tạo một quốc hội để công bố tân hiến pháp.

Các giới chức Hoa Kỳ thận trọng không muốn tạo ra sự khủng hỏang trong mối liên hệ với Sài Gòn, quan sát một cách thụ động trong khi Ô. Diệm tổ chức cuộc trưng cầu dân ý với sự cố vấn tệ hại (ill advised referendum) và từ chối lời cố vấn của Hoa Kỳ là tránh gian lận kết quả bầu cử. Anderson kết luận rằng sự thắng cử không cân sức của chính quyền Nam Việt Nam cho thấy “đây không phải là tiêu biểu thực sự cho quyền lực và uy tín của Diệm. Nhược điểm của Hòang Đế, sự sáo trộn của đối lập chính trị và những yếu tố như thế đã giải thích chiến thắng của ông ta.”

Sử gia Seth Jacobs, mới đây trong cuốn biên khảo về Ngô Đình Diệm đã đi một bước xa hơn trong việc lên án cuộc trưng cầu dân ý như là một hài kịch phản dân chủ (undemocratic farce). Ông cho rằng “không có gì sống động hơn để chứng tỏ Diệm không quan tâm gì đến tiến trình dân chủ là cuộc truất phế Bảo Đại Tháng 10, 1955.”

Jacobs đã không lạc đề (đi quá xa) khi cho rằng cuộc trưng cầu dân ý Tháng 10 đã chứng tỏ bản chất độc tài của chế độ Ngô Đình Diệm. Sự bàn luận sơ qua của ông ta về cuộc vận động “lố bịch“ của Ô. Diệm làm giảm nhẹ ý nghĩa chính trị của cuộc trưng cầu dân ý ở Nam Việt Nam và cho thấy sự dựa vào các tài liệu viết bằng Anh Ngữ của tuyệt đại đa số các tác phẩm hiện tại biên khảo về việc can dự của Hoa Kỳ vào Việt Nam.

Cuộc khảo cứu văn khố Việt Nam hé mở một vài khía cạnh rất có ý nghĩa của cuộc Trưng Cầu Dân Ý Truất Phế Bảo Đại ngày 23-10-1955 mà các nguồn tài liệu của Hoa Kỳ rất tối nghĩa.

Mặc dầu Diệm về mặt truyền thống là tiêu biểu của một lãnh tụ độc đóan, không màng chi đến dân chủ, nhưng ông lại đưa ra những lời hứa hẹn về quyền dân chủ và quyền tự quyết trong suốt chiến dịch truất phế Vua Bảo Đại và chính nó đã tạo thành những xung đột về chính trị của Miền Nam trong tương lai.

Theo đúng xu hướng ngọai giao, Tony Smith đã viện dẫn “chủ nghĩa tư bản dân chủ cấp tiến” (liberal democratic capitalism), Hoa Kỳ đã hỗ trợ cuộc bỏ phiếu như là một phương tiện để quảng bá dân chủ tại Đông Nam Á.(19) Tuy nhiên, các giới chức Hoa Kỳ – từ Bộ Trưởng Ngọai Giao John Foster Dulles tới Đại Sứ tại Sài Gòn là Frederick Reinhardt lại lo lắng đến nhận xét của thế giới về cuộc trưng cầu dân ý hơn là những gì diễn ra trong nội tình Miền Nam. Nhắm mắt làm ngơ trước những mâu thuẫn giữa lời tuyên truyền về dân chủ và những hành động phi dân chủ của Diệm, coi nhẹ sự chống đối chính trị lan rộng và dai dẳng, Hoa Kỳ giúp tạo ra sự bất mãn của quần chúng từ đó gây tai họa cho chính phủ của Diệm cho đến khi ông bị thảm sát vào Tháng 11, 1963.

Giọng điệu đầu tiên của chiến dịch, Diệm và những người theo Diệm đã mô tả Bảo Đại như là một ông vua hư đốn về cả mặt đạo đức lẫn chính trị. Mặc dù trên thực tế Bảo Đại là một chính trị gia khôn khéo với tinh thần quốc gia kiên quyết, nhưng chính quyền Miền Nam (lúc bấy giờ) đã minh họa ông như là một kẻ tội lỗi và nhu nhược. Theo chiến dịch tuyên truyền, ông được mô tả như một kẻ hiếu sắc, rượu chè, tham lam và đần độn. Các nhà quan sát ghi nhận rằng những điều gán ghép này đã trực tiếp đưa tới (việc kết tội ông) thỏa hiệp với âm mưu tái lập chế độ thực dân, thông đồng với cộng sản và bao che cho những sứ quân “thóai hóa” và “phong kiến”. Nhân viên của Diệm và truyền thông Sài Gòn không tiếc lời phẫn nộ với Hòang Đế trong việc loan truyền những thất bại và như thế chẳng còn chỗ để ai nghi ngờ việc ông ta đã bị tước đọat mất thiên mệnh.

Trong tuần lễ trước ngày trưng cầu dân ý, đường phố Sài Gòn và các tỉnh rực rỡ với những bích chương, biểu ngữ, hình nộm Bảo Đại và rất nhiều kiểu sáng tạo để tố cáo Bảo Đại và khuyến khích người dân bỏ phiếu cho Diệm. Một trong những khẩu hiệu tiêu biểu là “Bù nhìn Bảo Đại bán nước”, “Bảo Đại nuôi dưỡng sòng bài, đĩ điếm”, “Hãy cảnh giác Bảo Đại gian ác, mê cờ bạc, gái, rượu chè, bơ sữa. Những ai bỏ phiếu cho Bảo Đại là phản bội quốc gia và bóc lột nhân dân.” Trong khi đó thì “Dồn phiếu cho chí sĩ Ngô Đình Diệm là xây dựng một xã hội công bằng và hạnh phúc,” và “Chào mừng Ngô Chí Sĩ vị cứu tinh của dân tộc. Diệt cộngg, truất phế Bảo Đại (bài phong) đả thực (dân) là nhiệm vụ công dân của một nước tự do.”

Thật vậy, cuộc bầu cử được vẽ ra, đủ thứ cả nhưng không phải là dân chủ. Một thành viên trong nội các cũ của Diệm là Cao Văn Luận nhớ lại một buổi nói chuyện trong đó Diệm than phiền là có quá nhiều mầm mống chống đối đe dọa gây hỗn lọan ở Miền Nam. Ông ta khẳng định rằng đất nước chỉ có một Phong Trào Cách Mạng Quốc Gia và một đảng là duy nhất là Đảng Cần Lao Nhân Vị (Personalist Labor Party) do Ngô Đình Nhu điều khiển. Vì thế chính quyền phải thanh tóan các đảng phái đối lập bằng vũ lực và loại trừ bất cứ khả năng đối lập chính trị công khai nào. Theo thống kê của một sử gia Miền Bắc về Mỹ-Diệm hoặc chế độ của Ô. Diệm được người Mỹ đỡ đầu, đã giết hoặc bỏ tù khỏang 93,362 binh sĩ đối lập, đảng viên và những người yêu nước giữa Tháng Bảy 1955 và Tháng Hai 1956 trong chiến dịch bạo động để thanh tóan đối lập. Có thể con số này đã được khuếch đại, nhưng chắc chắn nó biểu tỏ bầu không khí sợ hãi của người dân có thể đã làm ngăn trở tiến trình dân chủ.

Vào thời điểm mà cuộc bầu cử Quốc Hội tiến hành vào Tháng Ba 1956 những cuộc chống đối rải rác trước đây nay trở thành chín muồi. Đây một phần, chắc chắn là vì Diệm giải tán Hội Đồng Cách Mạng vào ngày 15 Tháng Giêng 1956 và một phần vì hàng lọat các cuộc bố ráp khiến hầu hết các đảng viên của các đảng phái phải sống lưu vong hoặc trốn vào chiến khu vùng Tây Nam Việt Nam. Họ cảm thấy bị lừa và phản ứng lại bằng cách liên kết với các đảng phái quốc gia khác đã bị lọai trừ để mạnh mẽ tố cáo Diệm đã dùng những phương tiện dân chủ giả hiểu để củng cố quyền hành. Tới Tháng Ba, họ cũng bắt chước cộng sản bằng cách dùng danh từ Mỹ-Diệm (America-Diệm) và thêm vào đó một số lời tố cáo như Tôn Giáo Trị (Religious Government) và Gia Đình Trị (Family Government)

Việc tái lượng giá Cuộc Trưng Cầu Dân Ý Truất Phế Bảo Đại vào 23 Tháng Mười lần này, qua sự soi sáng của các tài liệu Việt Ngữ cho thấy Diệm đã long trọng hứa hẹn dân chủ và quyền dân tộc tự quyết cho tòan dân Miền Nam. Cho tới ngày hôm nay, các sử gia đều đồng lọat kết luận rằng Diệm chỉ công bố dân chủ ở cửa miệng (lip service democratic) trên chính trường quốc tế để vui lòng người Mỹ đỡ đầu, song những lời cổ vũ ồn ào về dân chủ trình bày trong tài liệu này chứng tỏ rằng tự thân Thủ Tướng cũng tin tưởng vào những giá trị của dân chủ, ít ra trên bình diện trừu tượng. Trong khi cổ vũ dân chủ lại lọai trừ đối lập đó là một phần của cuộc “Cách Mạng Nhân Vị “ (Personalist Revolution) của anh em họ Ngô mà Edward Miller đã diễn tả “đó là cái nhìn rộng lớn để thấy Việt Nam có thể đã được chuyển hóa và tân tiến hóa như thế nào.”

Hơn thế nữa, việc không giữ đúng lời hứa về quyền bình đẳng và quyền tự do cá nhân đưa ra trong những cuộc vận động đã giúp giải thích nỗi bất bình của người dân Miền Nam Việt Nam phản ứng lại chế độ áp bức của Diệm những năm sau đó.

Từ Tháng Mười 1955, các nhóm chống đối tại Miền Nam đã tố cáo Diệm không những là nhà lãnh đạo bất tài (poor leadership) mà còn đạo đức giả (hypocrisy). Trong đỏan kỳ, Diệm thành công trong việc ngăn chặn trước cuộc tổng tuyển cử thống nhất đất nước dự trù vào năm 1956, thiết lập được một chính quyền tự trị (autonomous state), nhưng trong tiến trình này ông đã gieo rắc mầm mống chống đối cuối cùng đưa đến sự xụp đổ của chính ông và thất bại của Việt Nam Cộng Hòa.

Hơn thế nữa, sự không chú ý tới nội tình chính trị của Miền Nam khiến cho Hoa Kỳ chỉ đứng nhìn một cách thụ động trong khi Diệm tự làm suy giảm uy quyền của mình và cũng khiến Hoa Thịnh Đốn không có cách (ill equipped) để giải thích và đối phó với kết quả tệ hại cuối cùng khiến Diệm bội hứa và tiến hành chính sách đàn áp. Trong nhiều thập niên, các sử gia đã hết sức khó khăn (phải chật vật) để giải thích lý do tại sao Hoa Kỳ lại ủng hộ Diệm trong khi ông ta thi hành chính sách độc tài. Michael Latham và một số sử gia khác cho rằng Hoa Kỳ đã dựa trên phán đóan sai lầm về lý thuyết tân tiến hóa để biện minh cho việc ủng hộ chính sách chính trị đạo đức giả của Diệm.

♦ ♦ ♦

Tác giả xin chân thành cảm tạ những vị và những cơ quan dưới đây đã cố vấn và hỗ trợ:

The Pacific Rim Research Program, the Institute for International Education, the Institute on Global Conflict and Cooperation, Nguyen Van Kim, Mai Thi Tuyet Anh, Fredrick Logevall, Toshi Hasegawa,

Robert Brigham, Geerge Herring, Jessica Elkind, James Waite, Maeve Devoy, Carolyn Lewis, Sandra Dawson, Toshi Anono, John Abardelatti, David Shuster, Mark O’Tool, and the two anonymous readers for Diplomatic History.

♦ ♦ ♦

Phần Tài Liệu Tham Khảo: Quá nhiều, gồm 12 trang. Quý vị có thể vào website: http://repositories.cdlib.org/pacrim/Vietnam để thấy khối tài liệu phong phú viết bằng Anh, Pháp, Việt Ngữ mà tác giả đã nghiên cứu để hòan tất tập biên khảo này và được ghi chú theo các con số 1,2,3,4,5..

Bản dịch của Đào Văn Bình

Bình luận về bài viết này