Tò mò: Lực đẩy bên trong một tâm trí khao khát học hỏi

 English – Curiosity: The Force Within a Hungry Mind

Kích thích sự tò mò của học sinh bằng cách khuyến khích các em câu hỏi có giá trị, tìm kiếm những khoảnh khắc có thể dạy-học được, xây dựng các bài học dựa trên môi trường thực tế và tư duy phê phán.

Điều gì làm cho trẻ  muốn học? Theo nghiên cứu, đó là niềm vui thích của việc khám phá – nguồn năng lượng tiềm ẩn thúc đẩy học tập, tư duy phản biện và lý luận. Chúng tôi gọi đây là khả năng/năng lực tò mò, và chúng tôi nhận ra năng lực này ở trẻ em khi thấy chúng khám phá môi trường xung quanh, nghiền ngẫm sách và thông tin, đặt câu hỏi, khám phá các khái niệm, thao tác dữ liệu, tìm kiếm ý nghĩa, kết nối với con người và thiên nhiên, và tìm kiếm kinh nghiệm học tập mới.

Tiếp tục đọc “Tò mò: Lực đẩy bên trong một tâm trí khao khát học hỏi”

Những học trò yếu kém muốn thầy cô và cha mẹ biết điều gì?

English:  What Failing Students Want Us to Remember

Nhìn học sinh hơn chỉ là điểm số
Em không phải điểm số của em
Em vẫn có thể có đóng góp đầy ý nghĩa
Em không phải là một sự thất vọng
Hãy để em là chính em
Đừng bỏ cuộc. Hãy tìm cách giúp em.

Bằng cách nhìn học sinh hơn chỉ là điểm số ở trường, chúng ta có thể giúp những đứa trẻ đạt được tiềm năng của các em.

Các trường học của chúng tôi ở Hoa Kỳ hoạt động chủ yếu như những trung tâm phân cấp thành tích: điểm số đạt được, học sinh được theo dõi bằng cách chia chúng vào các nhóm thành tích, theo đó phần thưởng được trao cho những học sinh thực thoả mãn được tiêu chuẩn. Nếu trẻ không đạt mức mong đợi (vì bất kỳ lý do nào), chúng thường bị gắn mác tiêu cực như ” không có khả năng đọc,” “yếu” hoặc ” kém ” Tiếp tục đọc “Những học trò yếu kém muốn thầy cô và cha mẹ biết điều gì?”

Hiệu quả của một hệ thống giáo dục

English: UNESCO Education system education

Một hệ thống giáo dục chất lượng được khái niệm hoá trong khung khổ phân tích/dự đoán Chất lượng Giáo dục phổ cập (UNESCO General Education Quality Analysis/Diagnosis Framework (GEQAF) ) là một hệ thống mà chất lượng giáo dục được cung cấp công bằng và hiệu quả. Do đó, cách thức phân bổ, quản lý và sử dụng nguồn lực ở các cấp độ khác nhau của hệ thống giáo dục là yếu tố quan trọng, mang tính quyết định cho một hệ thống giáo dục chất lượng. Việc cải thiện hiệu quả nguồn lực giáo dục có thể giúp giải phóng nguồn lực đáng kể để giải quyết các vấn đề về chất lượng giáo dục. Có nhiều bằng chứng cho thấy trong nhiều trường hợp, nhiều nguồn lực hơn không có nghĩa là kết quả tốt hơn về chất lượng giáo dục và kết quả học tập (xem: Resources and student achievement). Ngành giáo dục cần tiết kiệm nguồn lực nội bộ bằng cách giảm các biện pháp thiếu hiệu quả trước khi đưa ra giải pháp tăng nguồn lực cho ngành. Tiếp tục đọc “Hiệu quả của một hệ thống giáo dục”

Tranh luận về hiệu quả hệ thống giáo dục, nhưng đừng dựa vào đó để xếp hạng các quốc gia

English: Debate education efficiency, but don’t rank countries on it

Gần đây trên thế giới có một sự bùng nổ việc quan tâm đến tính hiệu quả của hệ thống giáo dục, phần lớn từ những nghiên cứu quốc tế so sánh về trình độ của của rất nhiều khảo sát từ học sinh ở nhiều nước khác nhau.

Những so sánh được thực hiện qua các nghiên cứu này như chương trình đánh giá học sinh sinh viên quốc tế (PISA) của tổ chức Hợp tác  và Phát triển Kinh tế hay qua những bài kiểm tra quốc tế về trình độ toán học và đọc hiểu, đã trở thành một yếu tố quan trọng trong việc hoạch định chính sách giáo dục trên toàn thế giới.

Đương nhiên, việc những đứa trẻ làm toán tốt hay đọc giỏi như thế nào trong các bài kiểm tra không chỉ là khía cạnh quan trọng duy nhất của một  hệ thống giáo dục. Trong môi trường bị ràng buộc về tài nguyên, thì chi phí giáo dục hợp lý là điều không thể bỏ qua. Theo đó, một báo cáo mới được thực hiện, giải pháp cho giáo dục mang tên GEMS, một chi nhánh tư vấn ở Luân Đôn của công ty GEMS Education có trụ sở tại Dubai điều hành các trường học trên toàn thế giới, chắc chắn sẽ gây tranh cãi xung quanh tính hiệu quả của các hệ thống giáo dục. Tuy nhiên xếp hạng như vậy thực sự rất có vấn đề. Tiếp tục đọc “Tranh luận về hiệu quả hệ thống giáo dục, nhưng đừng dựa vào đó để xếp hạng các quốc gia”

Thu hút công chúng quan tâm đến các nghiên cứu khoa học – A practical guide to Public engagement to scientific findings

Ngày nay, thu hút công chúng quan tâm đến các kết quả nghiên cứu khoa học  cần được khích lệ trong giới nghiên cứu, Tài liệu này sẽ đưa ra những chỉ dẫn hữu ích để viết các dự án có tác động thực tiễn. Năm bước chính của chỉ dẫn sẽ giúp các nhà nghiên cứu truyền thông với công chúng các nghiên cứu khoa học của mình: Giới hạn, thu hút cộng đồng, lên kế hoạch, thử nghiệm và phổ biến

Tải tài liệu tại đây PDF downloadable here.

Nowadays, public engagement is highly encouraged among researchers. In this guide, you will find useful tips on how to plan and write your next project so it has a real impact. Five steps will guide you in communicating your research: Scoping, Involving people, Planning, User-testing and Dissemination.

PDF downloadable here.

SÁNG TẠO TRONG DẠY VÀ HỌC (cho bậc đại học)

 

Chào các bạn,

Bài chia sẻ này là kết hợp những kinh nghiệm của mình và báo cáo trong một tập huấn mà mình có được tham dự về Innovation in Learning and Teaching – Sáng tạo trong dạy và học, một điểm mà giáo dục đại học Việt Nam còn phải nỗ lực cố gắng rất nhiều.

Mình tham dự của GS Richard Felder, North Carolina State University. Giáo sư có vài chục năm kinh nghiệm về sáng tạo trong phương pháp dạy học, đặc biệt là cho khối ngành công nghệ kỹ thuật. GS Richard Felder thường được các trường đại học công nghệ hàng đầu ở Châu Á mời đến giảng dạy về phương pháp giảng dạy trong giáo dục bậc đại học.

Sáng tạo trong dạy và học là những điều cực kỳ thiết yếu không chỉ cho các giáo viên mà cho tất cả các học sinh, sinh viên. Và một trong điểm sáng tạo đó là cần phải hiểu cách học và dạy của mình ra sao – teaching and learning style của mình ra sao để phát huy và cùng hỗ trợ nhau phát triển. Tiếp tục đọc “SÁNG TẠO TRONG DẠY VÀ HỌC (cho bậc đại học)”

Ngân hàng thế giới cảnh báo về “khủng hoảng giáo dục” toàn cầu

English: World Bank warns of ‘learning crisis’ in global education

Báo cáo Phát triển Thế giới năm 2018 kêu gọi những giải pháp hữu hiệu, hành động rõ ràng.

Hàng triệu học sinh, sinh viên ở những nước có thu nhập thấp và trung bình phải đối mặt với nguy cơ bị tước đoạt các cơ hội hoặc chỉ nhận được mức lương thấp bởi ngay từ bậc tiểu học và trung học, trường lớp đã không dạy chúng thành công trong cuộc sống. Trong cảnh báo về khủng hoảng giáo dục toàn cầu, báo cáo cho rằng trường học mà không đi đôi với học tập và giáo dục thì không chỉ làm lãng phí cơ hội phát triển con người, mà còn là thiệt thòi lớn cho trẻ em và người trẻ nói chung toàn cầu.

Theo Báo cáo Phát triển Thế giới năm 2018: “Hiện thực hóa lời hứa Giáo dục” nhận định, nếu không có học tập và giáo dục, giáo dục sẽ không thể thực hiện mục tiêu xóa nghèo, tạo ra cơ hội và sự phồn vinh cho tất cả mọi người. Ngay cả khi đã được đào tạo ở trường nhiều năm, hàng triệu đứa trẻ vẫn không thể đọc, viết hay làm những con toán đơn giản. Khủng hoảng giáo dục đang nới rộng khoảng cách xã hội thay vì thu hẹp lại.  Những trẻ em vốn chịu thiệt thòi vì nghèo đói, xung đột vũ trang, phân biệt giới tính hay khuyết tật cơ thể nay trở thành những người trưởng thành trẻ tuổi không có cả những kỹ năng sống cơ bản nhất.

“Cuộc khủng hoảng giáo dục này đồng thời cũng là cuộc khủng hoảng đạo đức và kinh tế” Chủ tịch Ngân hàng Thế giới Jim Yong Kim nhấn mạnh. “Nếu đi đúng hướng, giáo dục tốt sẽ cho người trẻ một công việc tốt, thu nhập tốt hơn, sức khỏe tốt và một cuộc sống không còn nghèo khó.”
Với cộng đồng, giáo dục thúc đẩy sự đổi mới, củng cố tổ chức, và tăng liên kết xã hội. Nhưng tất cả lợi ích này có được nhờ việc học tập và giáo dục, và và trường học mà không có giáo dục chỉ làm ta bỏ lỡ những cơ hội. Hơn thế, đây là điều bất công tại các xã hội có khủng hoảng, trẻ em càng cần được hưởng nền giáo dục tốt để thành công trong cuộc sống sau này.
Tiếp tục đọc “Ngân hàng thế giới cảnh báo về “khủng hoảng giáo dục” toàn cầu”

Châu Á “nhập khẩu” mô hình giáo dục Phần Lan: Vì sao không thành công?

TT – Phần Lan, với dân số 5 triệu người, trở thành quốc gia có nền giáo dục tiên tiến trên thế giới những năm gần đây. Nhiều quốc gia đã cử các học giả, nhà nghiên cứu sang tìm hiểu mô hình giáo dục của đất nước này, nhưng lại không thể áp dụng hiệu quả. Vì sao?

Châu Á "nhập khẩu" mô hình giáo dục Phần Lan: Vì sao không thành công? Phóng to

Giáo viên hướng dẫn học sinh trong lớp ở Phần Lan – Ảnh: FT

tuoitre.vn_Bí mật thành công của nền giáo dục Phần Lan chính là chất lượng dạy học, lấy học sinh làm trung tâm và đội ngũ giáo viên được quan tâm và ưu tiên hàng đầu, chứ không chạy đua theo thành tích.

Tất cả giáo viên đều được đào tạo nghiêm ngặt, phải có bằng thạc sĩ mới được đứng lớp và họ được xem là những chuyên gia giáo dục. Phần Lan lựa chọn và tuyển dụng giáo viên rất kỹ lưỡng. Chẳng hạn trong năm 2010, có 1.258 sinh viên đăng ký chương trình đào tạo giáo viên tiểu học nhưng chỉ 123 người (9,8%) được chấp nhận để tham gia chương trình đào tạo giáo viên tiểu học trong thời gian năm năm. Mức lương hằng năm của một giáo viên tiểu học từ 40.000-60.000 USD và giáo viên làm việc 190 ngày/năm.

“Chương trình đào tạo giáo viên tiểu học năm năm rất tốn kém, nhưng đội ngũ giáo viên được đào tạo ra đều có năng lực cao và được xã hội tôn trọng” – Jari Lavonen, trưởng khoa sư phạm tại đại học Helsinki, cho biết.

Chương trình dạy học linh động

Hàn Quốc băn khoăn chuyện học bằng tiếng Anh

Tiếp tục đọc “Châu Á “nhập khẩu” mô hình giáo dục Phần Lan: Vì sao không thành công?”

Việt Nam nghiên cứu nhập khẩu chương trình giáo dục Phần Lan

Việt Nam nghiên cứu nhập khẩu chương trình GD Phần Lan
(PLO)- Việt Nam và Phần Lan trao đổi về khả năng mua bản quyền xuất bản các sách về toán, khoa học, tiếng Anh, chương trình STEM; nhập khẩu chương trình đào tạo bậc tiểu học, phổ thông, ĐH của Phần Lan…

Bộ trưởng Bộ GD&ĐT Phùng Xuân Nhạ cùng đoàn công tác của Bộ GD&ĐT vừa có chuyến thăm và làm việc với nhiều cơ quan giáo dục của Phần Lan.

Theo đó, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Văn hóa Phần Lan Sanni Grahn-Laasonen, Bộ trưởng Phùng Xuân Nhạ đã chứng kiến ký kết 18 biên bản ghi nhớ giữa các trường ĐH và trung học của Việt Nam với các đối tác Phần Lan, mở ra nhiều cơ hội học tập tốt hơn cho học sinh, sinh viên Việt Nam.

Các biên bản ghi nhớ tập trung chủ yếu vào bốn lĩnh vực: Chuyển giao tài liệu về chương trình và sách giáo khoa, chuyển giao công nghệ đào tạo trực tuyến, khuyến khích mở thêm trường phổ thông Phần Lan ở Hà Nội (bên cạnh dự án trường phổ thông Phần Lan ở TP.HCM đang trong quá trình hoàn tất); hợp tác ĐH để cùng liên kết đào tạo một số lĩnh vực; phối hợp đào tạo và bồi dưỡng giáo viên.

Cũng trong dịp này, Bộ trưởng Phùng Xuân Nhạ đã hội đàm với bộ trưởng Thương mại và Phát triển Phần Lan. Hai bên đã trao đổi về khả năng mua bản quyền xuất bản các sách về toán, khoa học, tiếng Anh, chương trình STEM; nhập khẩu chương trình đào tạo bậc tiểu học, phổ thông, ĐH của Phần Lan; thúc đẩy các hoạt động hợp tác, dự án về khởi nghiệp…

TN

Các nhà giáo dục liệt kê danh sách những thái độ vô lý của cha mẹ Việt Nam

English:  Educators compile list of complaints about parents’ irrational attitudes

nhà giáo dục những người là chủ sở hữu của các cơ sở giáo dục ở Hà Nội và TP HCM đã phàn nàn về thái độ và thái độ vô lý của cha mẹ ở Việt Nam . Sau đây là một số mối quan tâm của họ:

1. Cha mẹ Việt Nam giáo dục trẻ em như là thú cưng. Họ muốn một con cá leo cây và một con khỉ bơi được dưới nước. Và họ có xu hướng tức giận khi con của mình không thể làm những việc mà con người khác có thể làm được.

2. Chu cấp cho các con một cách mù quáng. Kênh truyền hình quốc gia VTV vài ngày trước cho biết một người cha già ở tỉnh Nam Định làm việc cật lực tại Hà Nội để kiếm tiền cho con trai học đại học.

Con trai ông hơn 18 tuổi không kiếm được tiền để mua thức ăn cho bản thân và người cha già của mình, mà vẫn sống với số tiền khiêm tốn của cha ông. Đáng ngạc nhiên là cha mẹ Việt Nam nghĩ rằng làm tất cả những điều có thể cho con cái của họ và phục vụ con cái là điều cần thiết. Tiếp tục đọc “Các nhà giáo dục liệt kê danh sách những thái độ vô lý của cha mẹ Việt Nam”

“Quen với người chết hay sao mà cúi đầu chào tiễn họ?”

Chuỗi bài:

  • “Quen với người chết hay sao mà cúi đầu chào tiễn họ?”
  • Làm sao để người ta không quen người chết vẫn cúi chào
  • Giáo dục hiện nay cũng dạy chào đám tang tuy nhiên

***

“Quen với người chết hay sao mà cúi đầu chào tiễn họ?”

02/07/2016 16:49 GMT+7

TT – Buổi trưa, giờ tan học, trước cổng trường tiểu học đang có rất nhiều phụ huynh chờ đón con, người thì dõi mắt tìm kiếm, người gọi tên con mình… 

Tiếp tục đọc ““Quen với người chết hay sao mà cúi đầu chào tiễn họ?””

Learning With Documentary Films: Strategies to Engage Students

Documentaries and film can bring the world to students in very real ways. Cleary Vaughan-Lee, Education Director for Global Oneness Project, tells us how and shares resources and strategies. And join Cleary and me on Twitter this Thursday, October 29 at 8pmET/5pmPT for #GlobalEdChat! We will delve deeper into how to use film in the classroom.

edweek Why do we need stories? Stories are universal and create connections across time, place, and cultures. Now more than ever, we need stories to help us understand and connect to our fast-changing world. Impactful stories—a book, a film, or an oral story passed down from generations—have the power to bring us closer to something much greater than ourselves. Tiếp tục đọc “Learning With Documentary Films: Strategies to Engage Students”

UNESCO: Giáo dục – Kho tàng tiềm ẩn (P14) Tạm kết phần giới thiệu báo cáo của Delors

ENGLISH: Learning the Treasure within – Jacques Delors

Báo cáo Ủy ban quốc tế UNESCO về giáo dục cho thế kỷ 21– Những điểm nổi bật 

UNESCO: Giáo dục – Kho tàng tiềm ẩn (P1)

UNESCO: Giáo dục – Kho tàng tiềm ẩn (P2)

UNESCO: Giáo dục – Kho tàng tiềm ẩn (P3)

UNESCO: Giáo dục – Kho tàng tiềm ẩn (P4)

UNESCO: Giáo dục – Kho tàng tiềm ẩn (P5)

UNESCO: Giáo dục – Kho tàng tiềm ẩn (P6)

UNESCO: Giáo dục – Kho tàng tiềm ẩn (P7)

UNESCO: Giáo dục – Kho tàng tiềm ẩn (P8)

UNESCO: Giáo dục – Kho tàng tiềm ẩn (P9)

UNESCO: Giáo dục – Kho tàng tiềm ẩn (P10)

UNESCO: Giáo dục – Kho tàng tiềm ẩn (P11)

UNESCO: Giáo dục – Kho tàng tiềm ẩn (P12)

UNESCO: Giáo dục – Kho tàng tiềm ẩn (P13)

UNESCO: Giáo dục – Kho tàng tiềm ẩn (P14)

Đánh giá ảnh hưởng của Báo cáo UNESCO Delors 1996: Giáo dục – Kho tàng tiềm ẩn

Đánh giá ảnh hưởng của Báo cáo UNESCO Delors 1996: Giáo dục – Kho tàng tiềm ẩn

https://i1.wp.com/ecx.images-amazon.com/images/I/512ZLvBLRJL._SY344_BO1,204,203,200_.jpg

Chương 9: Hợp tác quốc tế: ngôi làng giáo dục toàn cầu

    • Chính những nhu cầu hợp tác quốc tế – phải được xem lại triệt để được nhận thấy trong lĩnh vực giáo dục. Hợp tác quốc tế là một vấn đề không chỉ đối với các nhà hoạch định chính sách giáo dục và nghề dạy học mà cho tất cả những ai đang tham gia tích cực vào đời sống cộng đồng.

Tiếp tục đọc “UNESCO: Giáo dục – Kho tàng tiềm ẩn (P14) Tạm kết phần giới thiệu báo cáo của Delors”