Đạo văn ở Việt Nam – 3 bài

***

Chống đạo văn: “Có ai nói cho các em đâu!”

12/03/2018    07:33 GMT+7

 – Bao nhiêu phần trăm sinh viên đại học, học viên cao học ở các cơ sở đào tạo của Việt Nam biết cách viết một bài tiểu luận đảm bảo tiêu chuẩn về đạo đức học thuật? Bao nhiêu phần trăm biết cách trích dẫn đúng trong một luận văn, luận án tốt nghiệp?

Con số đó là cực kỳ thấp, kể cả ở những trường đại học tốp đầu Việt Nam. Đó là nhận định của chính các giảng viên đang giảng dạy trong trường đại học. Thậm chí, một bộ phận lớn vẫn còn rất xa lạ với khái niệm “đạo văn” và mới chỉ dừng lại ở những hiểu biết sơ khai về vấn đề này. 

Chống đạo văn: 'Có ai nói cho các em đâu!'

Sinh viên Việt Nam: Ý thức chống đạo văn gần như bằng 0

Thói quen phổ biến nhất của các sinh viên, học viên khi làm luận văn, luận án tốt nghiệp là tìm lại sản phẩm của các sinh viên khoá trước có cùng đề tài để “tham khảo”.

Nếu “tham khảo” theo hướng kế thừa và phát triển đề tài thì không có gì đáng nói. Nhưng không ít sinh viên sử dụng các tài liệu này như một nguồn liệu để “xào nấu” cho bài viết của mình. Việc sao chép nguyên si từ một vài câu tới một vài trang văn bản của người khác mà không có trích dẫn đầy đủ là không hiếm. Đó là mới chỉ tính ở bậc sau đại học. 

“Ngay cả ở những trường tốt, có chương trình liên kết với nước ngoài, viết và trả bài bằng tiếng Anh thì ý thức chống đạo văn của sinh viên cũng rất thấp” – ông Ngô Quý Nhâm, Trường ĐH Ngoại thương Hà Nội

Nếu tính ở bậc đại học, với những bài tập lớn, đồ án, tiểu luận thì hiện tượng này là… “khủng khiếp”.

Đó là tính từ mà ông Ngô Quý Nhâm, giảng viên khoa Quản trị kinh doanh, Trường ĐH Ngoại thương Hà Nội sử dụng để miêu tả mức độ nghiêm trọng của tình trạng đạo văn trong trường đại học Việt Nam.

Ngay cả ở những trường tốt, có chương trình liên kết với nước ngoài, viết và trả bài bằng tiếng Anh thì ý thức chống đạo văn của sinh viên cũng rất thấp, mặc dù yêu cầu về đạo văn đối với cấp đại học, cao học không cao như ở ngành nghiên cứu”.

Nguyên nhân chính, theo ông, là “có ai nói với các em đâu”.

“Nếu nói vui thì hồi học phổ thông, các em còn được dạy phải làm theo văn mẫu. Khi lên đại học, viết bài luận cũng gom ý ở các nguồn khác nhau ghép lại cũng đã là tốt lắm, đã là coi như có công sức của mình rồi. Từ đó tạo thành một thói quen cứ vô tư lấy, miễn là ‘xào nấu’ thành bài của mình là được” – ông chia sẻ.

“Trong tiếng Anh có một khái niệm gọi là ‘original work’, nghĩa là công sức của tác giả đóng góp vào bài viết đó. Chúng ta đang chưa khuyến khích được điều đó. Nói đúng ra, nỗ lực khuyến cáo, cảnh cáo, trừng phạt hành vi đạo văn gần như là con số 0 trong các trường đại học” – vị giảng viên này khẳng định.

Ông kể một ví dụ: Một luận văn từng bị phát hiện đạo văn, đề nghị hội đồng xử lý, nhưng rồi “lại có người ra vỗ vai bảo thôi, lại bỏ qua”.

“Thậm chí, mới đây, tôi cùng một nhóm bên Bỉ, Pháp phát hiện ra một luận án tiến sĩ ở một trường đại học hàng đầu Việt Nam sao chép nguyên si vài trang trên báo Vietnamnet, chứ không phải là từ tạp chí khoa học. Cuối cùng vẫn được bao che. Như thế thì trông chờ gì đối với bậc cử nhân” – ông nói.

Nói về vấn đề này, giảng viên Nguyễn Thị Thu Huyền, thạc sĩ giáo dục, khoa Khoa học Giáo dục, Trường ĐH Sư phạm TP.HCM chia sẻ câu chuyện hết sức buồn mà cô vừa chứng kiến trong học kỳ vừa qua.

“Tôi đã rất sốc khi dạy sinh viên năm 2 các học phần khác nhau, trong đó có học phần Phương pháp nghiên cứu khoa học giáo dục. Mặc dù được dạy và cả cảnh cáo trước về việc nghiêm cấm các hành vi gian lận, trong đó có đạo văn, nhưng khi chấm bài, tôi phát hiện có lớp tới 70% sinh viên vi phạm”.

Tôi kiên nhẫn đánh máy lại (do sinh viên nộp bài bằng bản in) để dò trên google và đều tìm thấy bằng chứng sao chép bài người khác của sinh viên. Rất nhiều em chép nguyên văn, không sửa một từ của tác giả khác. Thậm chí, khi tôi cho điểm 0 thì sinh viên gửi email lại thắc mắc và không nhận ra mình đã phạm một lỗi rất nặng”.

Theo cô Huyền, thực tế, sinh viên Việt Nam chưa được trang bị kiến thức đầy đủ về vấn đề đạo đức học thuật và khoa học. Vì chưa được trang bị, thậm chí là giới thiệu qua về đạo đức khoa học nên nhiều em không biết để mà tuân thủ.

Cô Huyền nhìn nhận, ngay cả học viên cao học, nghiên cứu sinh và người làm nghiên cứu lâu năm cũng có không ít người vẫn còn mù mờ về các quy chuẩn đạo đức khoa học. Do đó, khó có thể trách được sinh viên.

Tuy nhiên, cũng có trường hợp, sinh viên được biết nhưng vẫn phớt lờ do sự thiếu đồng bộ của các giảng viên hoặc từ trước tới nay, từ thời phổ thông đã được giáo viên châm chước những lỗi gian lận quá nhiều.                         

Trường Tây: Không khí chống đạo văn trong từng ngõ ngách

Giảng viên Ngô Quý Nhâm cho biết, khi anh còn học ở Anh, Pháp, các phòng IT, thư viện của họ liên tục xuất hiện những dòng chữ “hướng dẫn, cảnh báo đạo văn”.

Khắp nơi, trong khuôn viên trường đại học của họ đều có những dòng chữ như vậy. Nhưng ở các trường Việt Nam thì không có. Tìm tài liệu hướng dẫn tránh đạo văn thôi cũng khó. Còn bây giờ, khi tôi đang làm nghiên cứu sinh dưới sự hướng dẫn của một giáo sư người Pháp, nộp bài mà chỉ có vài phần trăm trùng lặp là các thầy đã tỏ ra không hài lòng”.

Thực tế, sinh viên Việt Nam chưa được trang bị kiến thức đầy đủ về vấn đề đạo đức học thuật và khoa học” – giảng viên Nguyễn Thị Thu Huyền, Trường ĐH Sư phạm TP.HCM

 Giảng viên này cũng từng chứng kiến câu chuyện một người bạn sao chép ý tưởng và cấu trúc một cuốn sách khi làm bài luận thời kỳ anh vẫn đang học Thạc sĩ bên Anh cách đây hơn chục năm. “Khi về nước, tôi bị câu chuyện đó ám ảnh và thôi thúc mình phải làm nghiêm túc”.

Cũng từng học thạc sĩ ở Trường Quản lý IESEG (Pháp), anh Bùi Trí Hùng cho biết, các trường ở đây đều rất coi trọng đạo đức trong học thuật, thậm chí ở cấp môn học cũng không được có hành vi sao chép.

“Học sinh, sinh viên bên đó cũng chấp hành rất nghiêm chỉnh. Nếu không biết thì tự viết theo suy nghĩ của mình, chứ không lấy kiến thức của người khác làm thành của mình” – anh Hùng nói.

“Có lần, trong nhóm tôi bị phát hiện có một người đạo văn. Đáng ra là bị đánh trượt cả nhóm. Nhưng vì sinh viên không chấp nhận quyết định đó của thầy, nên cuối cùng thầy cho cả nhóm chỉ đạt điểm trung bình”.

Những câu chuyện trên đây để cho thấy ở các nước tiên tiến, đạo văn kể cả ở bậc đại học cũng bị đánh giá là một hành vi vi phạm nghiêm trọng và bị xử phạt rất nặng. “Nhẹ là huỷ kết quả bài viết, nặng thì cho nghỉ học. Trong khi ở ta, việc xử phạt gần như không có” – ông Ngô Quý Nhâm nhận xét.

Môi trường học thuật ‘tranh sáng tranh tối’

Giảng viên Nguyễn Thị Thu Huyền chia sẻ, ở Trường ĐH Sư phạm TP.HCM nơi chị đang công tác, nhờ nỗ lực của một số giảng viên – phần lớn là những người đi học nước ngoài về – nhiều sinh viên đã được giới thiệu về đạo đức học thuật và vấn đề chống đạo văn.

Các giảng viên đó thường giới thiệu vào đầu các học phần, hoặc trong quá trình hướng dẫn sinh viên làm bài tập nghiên cứu, khoá luận.

“Tuy nhiên, biết thôi chưa đủ, ý thức tự kiểm soát chính mình để thực hiện nghiêm túc các quy chuẩn đạo đức khoa học từ sinh viên mới quan trọng. Trường tôi có cung cấp hướng dẫn về trích dẫn khi viết luận văn, luận án, bài báo khoa học. Nhưng có vẻ các hướng dẫn này mới tiếp cận học viên sau đại học và giảng viên, mà chưa tới được với sinh viên”.

Cô cho biết, bản thân các giảng viên cũng chưa ý thức đầy đủ tầm quan trọng của các quy định này với hoạt động học thuật hàng ngày của sinh viên. Các quy định về tiêu chuẩn đạo đức khoa học cũng chưa có, hình thức xử lý cũng chưa nêu cụ thể qua văn bản. Trường cũng chưa có phần mềm kiểm tra lỗi đạo văn cho giảng viên lẫn sinh viên. 

Vẫn có một số giảng viên, học giả biết rất rõ đạo văn là gì nhưng họ vẫn làm, do môi trường học thuật nói chung còn đang “tranh sáng, tranh tối” – TS. Đỗ Thị Ngọc Quyên

TS. Đỗ Thị Ngọc Quyên – chuyên gia độc lập nghiên cứu giáo dục đại học – đánh giá, hiện nay có khoảng cách rất lớn về cả hiểu biết lẫn ý thức chống đạo văn giữa nhóm các nhà nghiên cứu, giảng viên trẻ được đào tạo bài bản ở nước ngoài và các nhóm các giảng viên và học giả được đào tạo trong nước.

“Với nhóm thứ nhất, vì hướng đến hội nhập với giới nghiên cứu quốc tế thông qua hợp tác nghiên cứu và xuất bản bài báo khoa học chuyên ngành trên tạp chí quốc tế, họ có ý thức rất cao trong việc tránh vi phạm đạo văn và chống đạo văn. Họ hiểu ‘bản án’ mà mình nhận được nếu vi phạm sẽ là rất đắt. Hơn nữa, được đào tạo trong môi trường nghiêm ngặt về đạo đức nghiên cứu và đạo đức nghề nghiệp, tự mỗi bản thân họ hiểu giá trị của mỗi  công trình khoa học, nên có lòng tự trọng, có niềm kiêu hãnh để khẳng định bản thân và không đi sao chép không phù hợp công trình của người khác.

Ngược lại, với nhóm thứ 2, khái niệm đạo văn và liêm chính học thuật còn mới mẻ. Không phải trường đại học nào cũng đưa ra được quy định về đạo văn và đạo đức nghiên cứu. Với rất nhiều giảng viên, thậm chí giáo sư, phó giáo sư cũng không nắm rõ thế nào là đạo văn, tự đạo văn, kéo theo ý thức chống đạo văn không tốt. Vẫn có một số người biết rất rõ đạo văn là gì nhưng họ vẫn làm, do môi trường học thuật nói chung còn đang “tranh sáng, tranh tối”.

Theo TS Quyên, đáng tiếc là nhóm thứ 2 chiếm số lượng áp đảo, nên có thể nói khoảng cách giữa Việt Nam và các nước Tây Âu, Mỹ, Australia là rất lớn.

Có thể nói, việc chống đạo văn của chúng ta mới chỉ chập chững về khái niệm. Còn ở những hệ thống này, từ nhiều thập kỷ nay, việc chống đạo văn đã được thực hiện tương đối triệt để, đảm bảo không để lọt lưới đạo văn ở tất cả các hình thức xuất bản từ bài luận, luận văn, luận án ở đào tạo đại học đến cao học, tiến sỹ, và các bài báo khoa học. Các công cụ chuyên dụng để phát hiện đạo văn như Turnitin, iThenticate, hoặc Grammarly. Khoá luận, hay luận văn, luận án khi nộp đều phải nộp bản mềm để chạy qua các phần mềm này trước khi được chấm và thông qua” – TS. Quyên chia sẻ.

 

Nguyễn Thảo

***

Các trường “mon men” sử dụng phần mềm phát hiện đạo văn

13/03/2018    06:08 GMT+7

 – Nếu như ở các nước tiên tiến trên thế giới, đạo văn từ lâu đã được nhìn nhận là một sai phạm rất nghiêm trọng trong giới học thuật và được kiểm soát rất chặt chẽ, thì ở Việt Nam, một số trường đại học mới bước đầu thực hiện truyền thông nội bộ và trang bị những công cụ để phát hiện đạo văn.

Phần mềm kiểm tra trùng lặp văn bản do nhóm nghiên cứu ĐH Quốc gia Hà Nội xây dựng và phát triển

Theo tìm hiểu của Vietnamnet, một số trường đại học trong nước đã trang bị phần mềm phát hiện đạo văn gồm có: ĐH Quốc gia Hà Nội, ĐH Ngoại thương, ĐH Kinh tế quốc dân, ĐH Sư phạm Hà Nội, ĐH Tôn Đức Thắng, ĐH Hoa Sen, ĐH Kinh tế TP.HCM… Đây là những cơ sở giáo dục ĐH thuộc nhóm các trường đại học công lập tốp đầu hoặc những trường đại học ngoài công lập được đánh giá là có tinh thần hội nhập quốc tế tốt.

Từ năm 2016, ĐH Quốc gia Hà Nội bắt đầu đưa vào sử dụng phần mềm DoIt. Phần mềm này có khả năng phát hiện các chi tiết trùng lặp do nhóm của TS. Võ Đình Hiếu (Trường ĐH Công nghệ, ĐH Quốc gia Hà Nội) tự xây dựng và phát triển.

TS. Võ Đình Hiếu cho biết, phần mềm này hiện đang được tất cả các trường trực thuộc ĐH Quốc gia Hà Nội sử dụng như bước đầu tiên để phát hiện đạo văn. Tỷ lệ trùng lặp được xác định là đảm bảo tiêu chuẩn được đưa ra tuỳ thuộc vào mỗi chuyên ngành.

Hiện tại, phần mềm DoIt vẫn đang được thường xuyên cập nhật và phát triển hệ thống cơ sở dữ liệu.

“Đến nay, có khoảng 5.000 người đăng ký sử dụng phần mềm. Số lượng tài liệu hiện có của DoIt là hơn 10 nghìn. Mỗi ngày phần mềm xử lý khoảng 30-40 bài. Hiện tại, phần mềm được cho phép sử dụng miễn phí và ai cũng có thể truy cập” – TS. Hiếu chia sẻ.

Một giảng viên của  Trường ĐH Giáo dục (ĐH Quốc gia Hà Nội) – cơ sở đã bắt đầu sử dụng phần mềm DoIt được 2 tháng nay – cho biết, hiện trường này đang sử dụng phần mềm cho các luận văn, luận án của học viên sau đại học – khoảng hơn 200 luận văn cho đợt tốt nghiệp vừa qua. Sắp tới, trường sẽ áp dụng cho cấp đại học.

“Theo quy định, các luận văn sẽ phải chạy qua phần mềm trước khi nộp. Tỷ lệ trùng lặp đạt yêu cầu là trên dưới 20%”.

Sau khi xảy ra một số vụ việc lớn liên quan đến đạo văn, lãnh đạo trường rất quan tâm tới vấn đề này. Trong những ngày đầu tiên nhập học, trường đã đưa nội dung này vào phần trao đổi, phổ biến cho tân sinh viên.

Trong khi đó, một phần mềm phát hiện đạo văn phổ biến trên thế giới và cũng được các trường Việt Nam sử dụng nhiều nhất là Turnitin.

Một giảng viên khoa Toán, ĐH Sư phạm Hà Nội chia sẻ, nhà trường có những buổi tập huấn sử dụng phần mềm Turnitin cho giảng viên. Khi học viên cao học nộp luận văn, cũng phải có chữ ký của giảng viên là đã chạy qua phần mềm đó. “Nếu giảng viên ký rồi mà vẫn phát hiện sao chép, giảng viên phải chịu trách nhiệm. Mức cho phép là dưới 20%. Trường làm rất chặt chuyện này. Có quy chế công khai và quy định các biện pháp xử phạt rõ ràng”. 

Làm đúng, sinh viên ‘tá hoả’ 

Trường ĐH Tôn Đức Thắng là một trong những trường sử dụng phần mềm tự phát triển.

TS. Dương Thị Thuỳ Vân – Giám  đốc Trung tâm Công nghệ thông tin – cho biết, phần mềm đã được trường sử dụng khoảng 7 năm nay. Tất cả đồ án môn học, tiểu luận, luận văn, luận án của sinh viên, học viên cao học đều phải được kiểm tra qua hệ thống mới, nếu đạt yêu cầu mới được chấm điểm. Tuỳ đặc thù của từng môn học, giảng viên sẽ đưa ra tỷ lệ trùng khớp cho phép.

Với sinh viên, khi nộp bài qua hệ thống, các em sẽ tự kiểm tra được bài của mình đã đạt yêu cầu hay chưa. Nếu chưa đạt tỷ lệ cho phép, các em phải sửa lại. Đó là cách quản lý với các bài tập lớn, tiểu luận ở khoa. Với luận văn, đồ án tốt nghiệp, sẽ có thêm bước can thiệp của bộ phận quản lý cấp trường. Chúng tôi sẽ không dựa trên cơ sở dữ liệu trong trường với nhau, các khoá với nhau, mà kiểm tra giữa nguồn dữ liệu bên ngoài có được: hệ thống luận văn, báo cáo của các trường đại học trong và ngoài nước”.

Theo TS. Vân, sở dĩ phải chia thành 2 cấp độ kiểm tra vì thông thường đồ án môn học, bài tập lớn, các em thường sao chép của các khoá trên, độ sao chép ngoài trường rất ít, mà kiểm tra trên cơ sở dữ liệu lớn thì mất rất nhiều thời gian. Một môn học có hàng trăm sinh viên thì việc kiểm tra phải đáp ứng yếu tố thời gian.

Những ngày đầu mới triển khai, sinh viên trong trường đã rất “hoang mang” và “tá hoả” vì hàng loạt bài nộp của các em rơi vào tình trạng trùng lặp quá mức cho phép. Các em chưa nhận thức được thế nào là đạo văn, chưa biết cách trích dẫn đúng. Nộp bài lên lại bị trả về.

Khi đó, các thầy mới bắt đầu hướng dẫn lại cho sinh viên cách làm như thế nào. Không phải cứ phần cơ sở lý thuyết là mình chép nguyên si của người ta, mà phải viết lại theo cách của mình. Chính các thầy cũng phải thay đổi cách hướng dẫn. Ngày xưa các thầy cũng hay bỏ qua phần cơ sở lý thuyết, mà chú trọng vào phần cải tiến trong đề tài của sinh viên. Sau đó, cả thầy và trò mới bắt đầu ý thức về cách tham khảo, trích dẫn”.

Mất khoảng hơn một năm, thầy trò của trường mới bắt đầu thành thục các quy trình và mọi thứ đi vào ổn định. Đó cũng là thời điểm mà nhóm phát triển phần mềm bắt đầu mở rộng cơ sở dữ liệu. TS. Vân kể lại, thậm chí chị còn phải tới tiệm photocopy gần các trường đại học để tìm kiếm nguồn tài liệu, vì các em hay tới đây mua về chế bản lại thành bài của mình.

Những trường đại học đưa phần mềm vào sử dụng với cả các bài tập lớn, tiểu luận ở bậc đại học như Trường ĐH Tôn Đức Thắng không nhiều. Phần lớn đối tượng áp dụng hiện tại mới chỉ ở bậc sau đại học.

Riêng ở ĐH Khoa học và Công nghệ Hà Nội (USTH), các nội dung này được đưa vào một bộ môn có tên là Scientific Writting and Communication (SWC). Sinh viên sẽ được dạy cách viết từ báo cáo môn học, báo cáo thực tập, đề cương nghiên cứu, luận văn cho đến các bài báo khoa học để đăng trên tạp chí chuyên ngành.

Mục tiêu của môn học là giúp sinh viên có thể hoàn thành tốt các yêu cầu về viết và thuyết trình trong quá trình học, làm khóa luận tại trường cũng như khi đi thực tập và làm việc sau này.

TS. Nguyễn Trịnh Hoàng Anh, giảng viên khoa Năng lượng, Trường ĐH Khoa học và Công nghệ Hà Nội – người đang trực tiếp đứng lớp môn học này – thừa nhận, thông thường một học sinh phổ thông khi mới lên học đại học chưa có ý thức rõ ràng và đầy đủ về vấn đề đạo văn. Thông qua môn học này, các em đã được trang bị những kiến thức cơ bản về trích dẫn và các phương pháp trích dẫn.

“Ban đầu, các bạn chỉ nghĩ nếu chép y nguyên lại từ các tài liệu khác mới cần trích dẫn, còn nếu diễn đạt lại thì không. Nhưng sau khóa học, các bạn sinh viên đều có ý thức rằng việc sử dụng lại các tài liệu đã có trước đó dưới bất kì hình thức nào cũng đều cần tôn trọng quyền tác giả bằng cách trích dẫn đầy đủ và hợp lý” .

Giảng viên này cũng cho biết, do 100% giảng viên và nghiên cứu viên tại USTH đều là người nước ngoài hoặc được đào tạo từ các nước phát triển nên việc sử dụng hay hướng dẫn sinh viên sử dụng các công cụ kiểm tra đạo văn trong quá trình thực hiện công trình nghiên cứu là một điều phổ biến.

“Bên cạnh các phần mềm bản quyền, chúng ta có thể tìm được rất nhiều các công cụ miễn phí với cùng mục đích”.

Theo TS. Hoàng Anh, các công cụ đang được sử dụng chủ yếu hiệu quả đối với việc kiểm tra các tài liệu tiếng Anh, còn với tiếng Việt thì rất khó kiểm tra do cơ sở dữ liệu tiếng Việt ở các lĩnh vực chuyên ngành chưa được đầy đủ.

Tuy vậy, việc sử dụng phần mềm phát hiện đạo văn mới chỉ là bước rà soát đầu tiên để kết luận một sản phẩm khoa học có vi phạm lỗi đạo văn hay không.

Phần mềm chỉ là bước đầu tiên

Gs. Phan Thiện Nhân – Trưởng khoa Cơ khí, ĐH Quốc gia Singapore, phó Tổng biên tập tạp chí Physics of Fluids – chia sẻ, mỗi năm tạp chí này nhận được khoảng 1.400 bài viết gửi đến, và ông chịu trách nhiệm giám sát khoảng 250 bài.

Những bản thảo này sẽ được kiểm tra qua phần mềm iThenticate. Khi con số trùng lặp với cơ sở dữ liệu lên tới khoảng 30%, người kiểm duyệt sẽ xem xét lại và quyết định bản thảo đó có vi phạm lỗi đạo văn hay không. Phần mềm không thể làm được việc này.

“Tôi có thể từ chối bản thảo ở bước này mà không cần phải giải thích gì thêm nếu rõ ràng tác giả chỉ đơn giản là sao chép nguyên văn văn bản. Nếu tôi cho rằng nó không đơn thuần là sao chép, thì bản thảo sẽ được gửi tới một bộ phận khác để xem xét tiếp”.

GS Phan Thiện Nhân cho biết, trong trường hợp đạo văn (gồm cả tự đạo văn), tổng biên tập sẽ được cảnh báo, và các động thái tiếp theo sẽ được thực hiện, bao gồm cả việc không tiếp tục nhận bài viết từ những tác giả này.

Bài 3: Đạo văn ở Việt Nam: Đã đến lúc nói chuyện nghiêm túc

Nguyễn Thảo

***

“Đã phát hiện đạo văn nhưng lại vỗ vai nhau cho qua”

14/03/2018    05:30 GMT+7

 – Nhiều ý kiến cho rằng những người làm khoa học ở Việt Nam còn đang rất dễ dãi với nhau, từ cấp cử nhân cho tới các ứng viên GS, PGS. Những vụ kiện tụng, tố cáo đạo văn trong vài năm trở lại đây là một minh chứng rõ ràng cho tư duy qua quýt ấy.

Ý thức và hiểu biết của sinh viên còn rất sơ khai, trong khi giảng viên không đòi hỏi ở sinh viên bất cứ tiêu chuẩn đạo đức học thuật nào. Thậm chí, có luận văn đã phát hiện đạo văn nhưng lại vỗ vai nhau cho qua. Ở cấp cao hơn, những vị trưởng khoa, ứng viên PGS, GS bị tố cáo sao chép tới 50% luận văn của người khác. Vẫn còn có những tranh cãi “đạo văn hay trích dẫn thiếu chuyên nghiệp” chưa được giải thích thoả đáng.

Trong khi đó, công tác tuyên truyền, phổ biến về đạo đức học thuật ở các cơ sở đào tạo mới chỉ ở mức độ đơn lẻ, rải rác. Chế tài xử phạt ở cấp đại học gần như không có.

Một cơ sở lớn như ĐHQG Hà Nội cũng mới chỉ đưa ra văn bản chính thức hướng dẫn thực hiện trích dẫn trong các ấn phẩm khoa học vào năm 2017. Có chăng ở một số đại học ngoài công lập, việc này có phần được làm sớm hơn và chặt chẽ hơn các trường đại học công lập.

Đã đến lúc các trường, viện nghiên cứu, các cơ quan quản lý giáo dục cũng như mỗi cá nhân người làm khoa học cần phải nhìn nhận  vấn đề này một cách nghiêm túc.

Cần chế tài xử phạt mạnh mẽ

TS. Đỗ Thị Ngọc Quyên, chuyên gia độc lập nghiên cứu giáo dục đại học, cho rằng, hiện nay mức phát triển để hội nhập quốc tế trong giáo dục đại học Việt Nam có sự chênh lệch lớn giữa các trường.

“Đáng lẽ với vai trò đầu tàu, các trường tốp đầu khối công lập cần phải là những trường đi tiên phong trong chống đạo văn. Nhưng với các trường công lập, sức ì là một yếu tố cản trở lớn, trong khi với một số trường ngoài công lập mới thành lập thì dễ triển khai cái mới hơn. Tuy nhiên số này chiếm rất nhỏ. Vậy nên nếu chỉ dựa vào các trường để thúc đẩy chống đạo văn có thể sẽ ít hiệu quả hoặc sự thay đổi sẽ chậm. Tốt nhất Bộ GD-ĐT cần có động thái bằng các quy định cụ thể về đạo văn và cách thức trích dẫn”.

“Chúng ta làm mạnh vài vụ, giới học thuật sẽ phải tuân thủ nghiêm túc” – ông Ngô Quý Nhâm, Trường ĐH Ngoại thương Hà Nội

 Theo TS. Quyên, muốn thay đổi tư duy của cả hệ thống thì quy định về đạo văn phải thực hiện ở quy mô hệ thống, tức là toàn bộ các trường đại học, cao đẳng, viện nghiên cứu, các hội đồng khoa học, hội đồng chức danh, các tạp chí, nhà xuất bản cần phải áp dụng chặt chẽ các quy định này. Thậm chí khái niệm về đạo văn và cách thức trích dẫn cần phải được dạy từ bậc phổ thông cho học sinh.

Giảng viên Ngô Quý Nhâm (Trường ĐH Ngoại thương Hà Nội) cho rằng, sau khi đưa ra chuẩn mực chung và chế tài xử lý, các trường, viện nghiên cứu phải nghiêm túc thực hiện chuẩn mực đó một cách có hệ thống. “Bộ GD-ĐT cần phải đưa ra chuẩn chung. Các trường đại học bắt buộc phải có những quy chế cáo buộc và xử lý đạo văn. Những quy chế này phải trở thành cẩm nang cho sinh viên”.

Ông Nhâm cho rằng, mức độ xử phạt tuỳ trường hợp có thể từ cho làm lại tới huỷ kết quả, thậm chí cho nghỉ học. “Chúng ta làm mạnh vài vụ, giới học thuật sẽ phải tuân thủ nghiêm túc. Với các công cụ và hệ thống công nghệ thông tin như bây giờ, ngày hôm nay có thể che giấu được hội đồng, nhưng vài tháng sau, vài năm sau vẫn có thể phát hiện và bị xử phạt”.

Chế tài xử lý không chỉ dừng lại ở mức huỷ kết quả, trả hồ sơ, mà còn cần yếu tố răn đe, ví dụ như ở các hội đồng chức danh, với những TS bị kết luận đạo văn sẽ không được phép xét duyệt trong vòng một vài năm. “Vì thực tế vẫn có tình trạng bị cáo buộc đạo văn, xin rút, năm sau lại làm hồ sơ và bỏ bài cáo buộc đó đi, ứng viên lại được công nhận. Không còn cách nào khác là áp dụng những chế tài mạnh mẽ” – ông Nhâm nói.

‘Lòng tự trọng là nguyên tắc đầu tiên’

Các biện pháp luật hoá được nhắc đến nhiều trong câu chuyện chống đạo văn ở Việt Nam. Tuy nhiên, yếu tố được cho là quan trọng và quyết định nhất để duy trì sự trong sạch cho nền khoa học lại là một yếu tố chủ quan: Lòng tự trọng, sự liêm chính cá nhân của mỗi nhà khoa học.

GS. Phan Thiện Nhân, Trưởng khoa Cơ khí, ĐHQG Singapore, Phó Tổng biên tập tạp chí Physics of Fluids, chia sẻ, việc có bài báo xuất bản được coi là một quá trình bình thường đối với bất cứ giáo sư nào ở đây. 

Khi bị đối sánh, sớm hay muộn, nếu bạn đạo văn, ai đó sẽ phát hiện ra. Và khi điều đó xảy ra, tất cả những công trình của bạn sẽ đều bị nghi ngờ, và sự nghiệp của bạn sẽ đổ sập” – GS. Phan Thiện Nhân, ĐHQG Singapore

“Chúng tôi không bắt các giáo sư phải kiểm tra đạo văn, nhưng có cung cấp cho họ những công cụ (phần mềm iThenticate) để làm việc này”.

Theo ông, và cũng là yếu tố mà ĐHQG Singapore đánh giá cao nhất như một biện pháp để chống đạo văn, đó chính là sự liêm chính cá nhân. Liêm chính cá nhân là nguyên tắc đầu tiên trong bộ quy tắc ứng xử trong xuất bản của ngôi trường này.

Đạo văn là một sự sỉ nhục với tính liêm chính của cá nhân. Nếu bạn liêm chính, tất cả những sản phẩm của bạn sẽ được đánh giá cao và được tin tưởng. Nếu không, những điều tồi tệ hơn sẽ đến”.

Ông cũng cho rằng, với sự tiên tiến trong phân tích dữ liệu và các công cụ tìm kiếm, bất cứ điều gì bạn viết ra và xuất bản cũng đều được lưu trữ và đưa vào cơ sở dữ liệu.

“Khi bị đối sánh, sớm hay muộn, nếu bạn đạo văn, ai đó sẽ phát hiện ra. Đó không phải là vấn đề ‘nếu’ mà là ‘khi nào’. Và khi điều đó xảy ra, tất cả những công trình của bạn sẽ đều bị nghi ngờ, và sự nghiệp của bạn sẽ đổ sập.

Các cơ sở đào tạo có thể tuyên truyền, phổ biến rằng đạo văn sẽ bị coi là một hành vi vi phạm nghiêm trọng và phải bị xử phạt nặng, ví dụ như giáng chức. Trong tương lai gần, biện pháp này sẽ có tác dụng”.

3 cấp độ ngăn ngừa đạo văn

“Ngăn ngừa đạo văn trong trường học có 3 cấp độ.

Trước tiên, phải dựa vào sự thành thật của người học. Về nguyên tắc đạo đức, người thực hiện bất cứ công trình gì luôn phải rằng cam kết đây là sản phẩm của tôi, không kế thừa hoặc sao chép từ công trình nào đã được công bố trước đó. Cam kết đó cũng là cơ sở pháp lý để người ta có thể buộc tội anh khi phát hiện anh đạo văn. Có rất nhiều lĩnh vực khoa học mà cơ sở dữ liệu nhiều đến mức vô vàn, và không ai có thể biết hoặc kiểm tra hết được. Khả năng xảy ra đạo văn rất cao; nên cần có cam kết cá nhân.

Cấp độ thứ 2, với các bậc học từ cao học đến nghiên cứu sinh; số người học được hướng dẫn bởi một ông thày là không nhiều. Sự kiểm tra của người hướng dẫn là trách nhiệm phải làm và là kênh tốt nhất. Người thầy phải là người kiểm tra sơ bộ, chứ không đợi Hội đồng đưa phần mềm ra đối chiếu. Một người thầy có năng lực khoa học thực sự, đã từng tiếp xúc với học trò, hiểu năng lực của học trò đến đâu thì chỉ cần hỏi vài ba câu là có thể biết ngay rằng đề tài và đề cương do học trò trình là do anh ấy tự nghĩ ra hay đi “mượn” của ai.

Cấp độ thứ 3 mới là sử dụng phần mềm để kiểm tra. Việc sử dụng phần mềm chỉ thích hợp với số lượng đông đảo, ở cấp đại học; nơi mà ông thày không thể nào kiểm tra từng học trò xem có sao chép luận văn của học trò khóa trước hay không!

Ở Trường ĐH Tôn Đức Thắng từ lâu đã có Quy định về liêm chính học thuật; và cũng đã thành lập Ủy ban đạo đức khoa học từ lâu. Ủy ban này chịu trách nhiệm phân xử khi có công trình của người học hoặc giảng viên, nghiên cứu viên bị tố cáo là đạo văn…; và chúng tôi cũng đã dùng phần mềm để chống đạo văn từ 10 năm nay”.

GS. Lê Vinh Danh, Hiệu trưởng Trường ĐH Tôn Đức Thắng                   

Nguyễn Thảo

Advertisement

Trả lời

Điền thông tin vào ô dưới đây hoặc nhấn vào một biểu tượng để đăng nhập:

WordPress.com Logo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản WordPress.com Đăng xuất /  Thay đổi )

Facebook photo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản Facebook Đăng xuất /  Thay đổi )

Connecting to %s