Tại sao quốc gia đang phát triển không nên bỏ qua giáo dục khai phóng

English: Why Developing Countries Should Not Neglect Liberal Education

Tác giả: David E. Bloom and Henry Rosovsky

Giá trị và tinh hoa từ đó được tìm thấy trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống, và hoàn toàn được chuẩn bị bằng giáo dục để chống lại tranh chấp vị thế và quyền lực vì tín thác của cộng đồng…

(Lời của Tổng thống Mỹ Thomas Jefferson, về nền giáo dục khai phóng giải quyết những lợi ích cho xã hội, trong một lá thư gửi John Adams năm 1813)

Giới thiệu

Văn minh phương Tây là cái nôi lâu đời của truyền thống giáo dục khai phóng, được định nghĩa là giáo dục nhấn mạnh vào sự phát triển toàn diện của một cá nhân ngoài việc đào tạo ngành nghề nghiệp (một cách hẹp hơn). Sự khởi đầu của triết lý này có thể được bắt nguồn từ bộ ba – trivium – các khoá học cơ bản của trường đại thời trung đại (gồm ngữ pháp, hùng biện, và tư duy logic) và bộ tứ – quadrivium (số học, hình học, thiên văn học và âm nhạc). Truyền thống đó vẫn tiếp tục, và ngày nay giáo dục khai phóng là một phân khúc quan trọng của giáo dục đại học ở tất cả các nước phát triển. Vai trò của giáo dục khai phóng trong việc nuôi dưỡng các nhà lãnh đạo và những công dân hiểu biết được công nhận trong cả lĩnh vực công và tư nhân. Không dễ để có con số thống kê toàn cầu nhưng dường như sự quan tâm đến giáo dục khai phóng đang phát triển ở nhiều nơi ở phương Tây.

Sự đối lập với các nước đang phát triển khá rõ ràng. Đặc biệt là khi những quốc gia này chỉ vừa giành được độc lập sau thế chiến thứ II, giáo dục khai phóng được coi như một sự xa xỉ và không cần thiết. Điều này được phản chiếu trong chương trinh giáo dục phổ thông và đại học thường gắn với đào tạo nghề hơn. Giáo dục khai phóng bị các chính phủ nước đang phát triển xa lánh như tầng lớp quý tộc, biểu tượng của những giá trị của Thực dân phương Tây đáng ghét, và quá đắt đỏ. Gần đây, có một vài biểu hiện rằng những thái độ này đang dần thay đổi, nhưng nhận thức về giáo dục khai phóng và giáo dục nói chung vẫn còn chưa được phổ biến.

Chúng tôi sẽ lập luận rằng, các nước đang phát triển, giáo dục khai phóng nên đóng một vai trò quan trọng trong các trường cao đẳng và đại học. Những gì sau đại diện cho suy đoán của chúng tôi dựa trên nghiên cứu và quan sát ở nhiều quốc gia khác nhau. Tất nhiên, chúng ta phải nhận ra rằng mỗi quốc gia đều là một trường hợp đặc biệt, và rằng chúng tôi không thể cung cấp bằng chứng cho tất cả những gì chúng tôi ủng hộ. Tuy nhiên, chúng tôi tin rằng giả thuyết của chúng tôi được hỗ trợ bởi lịch sử và logic.

Giáo dục khai phóng ở các nước đang phát triển

Được trích dẫn trong báo cáo mới đây về Tiểu ban chuyên trách về Giáo dục Đại học và Xã hội (năm 2000), khám phá tình trạng hiện tại và tương lai của giáo dục đại học ở các nước đang phát triển, một người được coi là ảnh hưởng của giáo dục khai phóng là người:

• có thể tư duy phản biện rõ ràng, hiệu quả, và có thể giao tiếp với độ chính xác, hợp lý và thuyết phục;

• có một cách đánh giá sâu sắc về phương cách tìm kiếm tri ​​thức và sự hiểu biết về vũ trụ, xã hội và chính con người chúng ta;

• có kiến ​​thức rộng về các nền văn hóa khác nhau ở các thời điểm khác nhau, và có thể đưa ra các quyết định dựa trên sự tham khảo rộng hơn về thế giới và lực lượng trong lịch sử hình thành nên thế giới;

• có một số hiểu biết và kinh nghiệm về tư duy có hệ thống về đạo đức vềcác vấn đề liên quan đến đạo đức và phẩm chất

• đã đạt được chiều sâu trong một số lĩnh vực tri thức.

Ở các nước đang phát triển, những người có những phẩm chất này theo truyền thống có xu hướng đến từ các tầng lớp giàu có. Tuy nhiên điều này đang ít đúng hơn ở các nước phương Tây, nơi giáo dục khai phóng ngày được ngày càng mở rộng không chỉ trong một vài thể chế chọn lọc. Ví dụ, ở Hoa Kỳ, số lượng và tỷ lệ phần trăm sinh viên tốt nghiệp đại học có trình độ học vấn giáo dục khai phóng có giảm nhưng sau đó tăng trở lại trong 30 năm qua.

 

Ở một số nước đang phát triển, nhu cầu nhân lực cho công nghiệp hóa nhanh đã giúp làm chậm sự phát triển của giáo dục khai phóng. Thay vì cung cấp cho sinh viên một kiến thức rộng, phổ quát, hệ thống giáo dục đại học Xô Viết tập trung vào dạy nghề và đào tạo chuyên ngành khác. Với sự tăng trưởng nhanh chóng của Liên bang Xô viết bắt đầu vào những năm 1930, mô hình nghề này lan truyền đến các nước cộng hòa và các quốc gia không phải là nước Nga đầu tiên, và sau đó là xa hơn nữa. Nhà triết học chính trị Irakly Areshidze (1999) đã mô tả những gì đã xảy ra dưới hệ thống của Liên Xô ở Gruzia:

Sau khi được chấp nhận [tại trường đại học], trong năm năm tiếp theo, sinh viên sẽ theo đuổi một nền giáo dục tập trung vào việc cung cấp cho họ [một] lượng kiến thức nghề cụ thể, giới hạn. Học sinh sẽ ghi nhớ thông tin từ sách giáo khoa và được giảng dạy bởi các giáo sư. Học sinh hiếm khi tham gia vào tư duy phân tích, phê phán, thảo luận trên lớp và viết.

Ở nhiều nước đang phát triển, việc thiếu tư duy phản biện thường có thể được xem là sự yêu thích cho những người nắm quyền. Như Lão Tử đã nói trong Đạo Đức Kinh hơn 2.500 năm trước, “Người ta khó bị cai trị vì họ có quá nhiều tri thức.” Nhiều nhà độc tài thời hậu thuộc địa có chăng vì lợi ích riêng của họ, thì việc đầu tư vào giáo dục nghề nghiệp hơn là giáo dục khai phóng âu cũng là dễ hiểu.

Chính sách tài trợ đã tiếp tay cho sự tập trung vào đào tạo nghề. Các tổ chức như Ngân hàng Thế giới đã quảng bá cơ sở hạ tầng và các các học viện mạnh mẽ như là chìa khóa cho sự phát triển. Những hệ thống này đòi hỏi công nhân lành nghề. Xây dựng cơ sở hạ tầng vật chất và vận chuyển đòi hỏi các kỹ sư; thiết lập một hệ thống tài chính mạnh mẽ đòi hỏi các những nhà kiểm toán và ngân hàng; và thiết lập một hệ thống y tế đòi hỏi nhân viên được đào tạo về y học hiện đại. Do đó, không có gì đáng ngạc nhiên khi hệ thống giáo dục đại học ở nhiều nước đang phát triển đã hướng tới chuyên môn hóa sớm nhằm tạo ra những sinh viên tốt nghiệp “có việc làm ngay”.

Có một số lý do quan trọng khác lý giải tại sao các gia đình thích gửi con đến các trường tập trung vào các kỹ năng nghề nghiệp chuyên môn hơn. Đầu tư vào giáo dục đại học, cả về chi phí trực tiếp và cơ hội, là một sự bảo đảm về tài chính vững chắc hơn cho phần lớn các gia đình nghèo. Mặc dù học phí có thể được miễn phí hoặc được trợ giá nhiều, nhưng sách vở và chi phí sinh hoạt phải tự chi trả, và gửi một đứa con học đại học khi nó có thể kiếm tiền cho gia đình có thể là một sự hy sinh to lớn. Do đó, mong muốn về lợi ích nhanh chóng là điều dễ hiểu và các khóa học chuyên nghiệp thường được xem là cung cấp sự bù đắp nhanh hơn và chắc chắn hơn giáo dục khai phóng.

Sự cần thiết cho giáo dục khai phóng

Bằng cách dạy học sinh tư duy như thế nào thay vì tư duy ề cái gì, và cách học như thế nào hơn là học cái gì, giáo dục khai phóng tạo ra những sinh viên tốt nghiệp có khả năng thích ứng tốt hơn và đáp ứng nhu cầu của một môi trường kinh tế và xã hội thay đổi nhanh. Nhưng trong sự vội vàng để đáp ứng với một thế giới thay đổi nhanh chóng, rất dễ dàng để bỏ qua các mục tiêu dài hạn. Quan điểm cho rằng các kỹ sư chỉ nên học các khía cạnh kỹ thuật trong ngành của họ, ví dụ, bỏ qua tác động xã hội và môi trường trong công việc. Kỹ năng thiết kế và bảo trì đường bộ là điều cần thiết cho tất cả các quốc gia, nhưng nếu các nhà lập kế hoạch và các nhà hoạch định chính sách không nhận ra và xem xét các quan điểm của người dân địa phương, các tác động tiêu cực đến xã hội thì dự án có thể vượt quá tầm kiểm soát và cuối cùng có thể đe dọa đến lợi ích kinh tế. Một ví dụ khác, thực phẩm biến đổi gen (GM) đang tạo ra một nhu cầu rất lớn và ngày càng cấp thiết một cơ quan chuyên môn kỹ thuật mới ở các nước đang phát triển. Tính chuyên nghiệp là cần thiết nếu các quốc gia này tận dụng lợi ích của các loại thực phẩm đó (ví dụ, dinh dưỡng, sức khỏe, chi phí), trong khi tìm cách giảm thiểu rủi ro (ví dụ, các loài xâm hạimới, bệnh thực vật, động vật và người mới không có được biết đến chữa bệnh, và phụ thuộc nông nghiệp lớn hơn trên các nhà cung cấp hạt giống phát triển trong nước). Thực phẩm biến đổi gen cũng gây ra nhiều vấn đề phức tạp vượt ra ngoài tầm kiểm soát của khoa học, bao gồm các vấn đề liên quan đến đạo đức, quy định công cộng, thực hành kinh doanh, đời sống cộng đồng, toàn cầu hoá và quản trị thế giới. Thật khó để tưởng tượng các nước giải quyết những vấn đề này và các vấn đề tương tự một cách hiệu quả mà không có sự lãnh đạo, hoặc ít nhất là sự trợ giúp từ các cá nhân hưởng nền giáo dục khai phóng mạnh mẽ.

Nhiều lợi ích của giáo dục khai phóng là hữu hình dưới hình thức thu nhập cao hơn và tích luỹ chủ yếu cho những cá nhân nhận giáo dục. Nhưng cũng có những lợi ích vô hình, nhiều trong số đó được hưởng bởi các thành viên khác của xã hội. Mặc dù rất khó để đưa ra bằng chứng thuyết phục, chúng ta có thể nghĩ về sáu kênh chính thông qua đó xã hội mong được hưởng lợi từ các chương trình giáo dục khai phóng. Đương nhiên, khả năng ứng dụng và tầm quan trọng sẽ khác nhau giữa các quốc gia. Tất cả các hình thức giáo dục đại học tạo ra lợi ích quốc gia nhưng giáo dục khai phóng tạo ra một bộ lợi ích cụ thể thông qua các kênh được mô tả dưới đây.

Kênh đầu tiên là kinh tế. Chúng tôi nghĩ rằng các lãnh đạo doanh nghiệp có nhiều khả năng đổi mới hơn nhờ các nghiên cứu thường từ giáo dục khai phóng. Đối với các nền kinh tế đang phát triển, sự đổi mới này có thể có nghĩa là chuyển sang các lĩnh vực mới, hiệu quả hơn và thích ứng với các công nghệ phát triển ở nơi khác để tạo việc làm mới và giảm nghèo ở nhà. Giáo dục khai phóng, khuyến khích mọi người đặt câu hỏi và thách thức tư duy và thực hành thông thường, có thể là một chất xúc tác quan trọng giúp tăng tính thông thoáng của nền kinh tế. Ngoài ra, theo quan sát của Thomas Jefferson, giáo dục khai phóng có thể nâng cao giá trị xã hội về khía cạnh công trạng, trái ngược với địa vị xã hội hay sự giàu có từ sinh thời. Ở nhiều nước đang phát triển, sự lạm dụng quyền hành làm cản trở phát triển kinh tế.

Kênh thứ hai, giáo dục ảnh hưởng đến việc hoạch định chính sách. Không có công thức tiêu chuẩn nào để đạt được mục tiêu phát triển, nhưng từ phần lớn bằng chứng chúng tôi cho rằng quản trị tốt, quản lý kinh tế vĩ mô tốt, quan tâm đến giáo dục và sức khỏe, và hội nhập vào nền kinh tế thế giới là những động thái hữu ích. Tất cả các công cụ phát triển này (một số trong đó – như y tế và giáo dục – là mục tiêu của bản thân) đòi hỏi cả kiến ​​thức chung và chuyên môn cũng như kỹ năng.

Ảnh hưởng của giáo dục khai phóng trong việc tham gia hoạt động chính trị cũng là một nguồn lợi cho cộng đồng. Người lãnh đạo mạnh giúp đất nước đi lên, nhưng một người dân tri thức và tích cực có thể giúp cân bằng cán cân quyền lực quốc gia. Dân chủ đại diện, đóng góp tích cực vào việc duy trì nền kinh tế và ổn định xã hội lâu dài ở phương Tây, phụ thuộc mật thiết vào đại đa số công dân hiểu biết và có khả năng thích ứng và làm việc với những ý tưởng phức tạp. Bằng việc lan tỏa tri ​​thức và gia tăng tranh luận, mở rộng giáo dục khai phóng không chỉ ở các nhóm ưu tú mà sẽ giúp công dân tham gia nhiều hơn.

Kênh thứ tư là ảnh hưởng đến gắn kết xã hội. Bằng cách đưa ra loạt các quan điểm khác nhau và khuyến khích các sinh viên kết nối giữa các ngành và nền văn hóa khác nhau, chúng tôi hy vọng rằng giáo dục khai phóng thúc đẩy lòng vị tha và hiểu biết lẫn nhau. Giáo dục khai phóng cũng giúp nuôi dưỡng ý thức cộng đồng và cùng nhau làm việc hướng tới mục tiêu. Và, bằng cách mở rộng và làm sâu sắc thêm kiến ​​thức về lịch sử, nghệ thuật và khoa học, nuôi dưỡng niềm tự hào về văn hóa và sự tôn trọng với người khác. Do đó, giáo dục khai phóng có thể có ảnh hưởng mạnh mẽ đến tinh thần cộng đồng, mà các nước đang phát triển và phát triển hướng tới nếu xã hội của họ phải làm việc cùng nhau để giải quyết vấn đề và nắm bắt cơ hội.

GIảm chảy máu chất xám là điểm thứ năm giáo dục khai phóng có thể mang cho xã hội. Người có cơ hội nhận được một nền giáo dục được thiết kế tốt, có các cơ sở giáo dục nước ngoài ngay tại nước sở tại có nhiều khả năng theo đuổi việc học và tránh chi phí đi ra nướic ngoài. Điều này có thể mang lại những lợi ích cho phụ nữ, khi gia đình của họ có thể miễn cưỡng để họ học ở nước ngoài. Tương tự như vậy, những sinh viên học tập ở các nước khác có nhiều cơ hội trở về nhà hơn, bởi biết rằng ở đó họ cũng tìm thấy một môi trường nhiều cảm hứng. Một ích lợi đến từ thực tế nữa là, nền giáo dục khai phóng thúc đẩy văn hóa học tập suốt đời, thúc đẩy sự phát triển của một nền văn hóa trí tuệ sôi động và khuyến khích các chuyên gia được đào tạo ở các quốc gia khác về làm việc tại quê hương, vì lợi nước mà làm.

Kênh cuối cùng liên quan đến toàn cầu hóa. Chúng tôi tin rằng giáo dục khai phóng thúc đẩy sự gắn kết không chỉ bên trong, mà còn giữa các cộng đồng, dân tộc. Nghiên cứu các tôn giáo của thế giới, ví dụ, có thể giúp học sinh thấy sự liên kết lẫn nhau đồng thời hiểu biết và đánh giá cao sự khác biệt. Văn học, lịch sử và ngôn ngữ đã làm sáng tỏ cách suy nghĩ trong quá khứ và hiện tại của một quốc gia. Trong một thế giới ngày càng hội nhập, sự đồng cảm với các nền văn hóa khác có thể khuyến khích cả hai có mối quan hệ hòa bình, tương tác kinh doanh và văn hóa hiệu quả.

Toàn cầu hóa cũng đang thay đổi khí hậu kinh tế thế giới. Giao thương giữa các quốc gia cho phép nhiều nền kinh tế di chuyển đến các khu vực mới. Phát triển kinh tế thành công thường đi kèm với việc chuyển đổi chuỗi giá trị công nghiệp. Do đó, đào tạo trong một lĩnh vực chuyên môn cụ thể nhanh chóng trở nên lỗi thời, và khi sự nghiệp của mỗi cá nhân trở nên đa dạng hơn, thì sự linh hoạt, cũng như khả năng nhanh chóng học các kỹ năng mới, là bắt buộc. Công nghệ càng phát triển nhanh chóng thì những yêu cầu này càng được chú trọng, vì các máy móc của tương lai sẽ ít giống với các máy móc trong quá khứ. Kiến thức đã trở thành một lợi thế cạnh tranh cốt lõi cho cả cá nhân và nền kinh tế, và các kỹ năng chung được nuôi dưỡng bởi nền giáo dục khai phóng dường như sẵn sàng để hướng tới phát triển về giá trị hơn là chỉ các kĩ năng chuyên môn.

Những cách làm việc mới đang đi cùng xu hướng hướng tới hội nhập toàn cầu. Như Michael Gibbons (1998) đã lập luận, sự gia tăng số lượng tri thức có nghĩa là, “dù kể bạn đang ở đâu, hơn 99% kiến thức cần thiết nằm ở nơi khác.” Vì vậy, các kết nối mới phải được phát triển, xuyên suốt các ngành và các nền văn hóa khác nhau. Mạng lưới chuyên gia, “nổi phồng như mật mía trên lò” như việc nguồn lực trí tuệ từ “khu vực này đến khu vực khác, vấn đề này cho vấn đề khác, nhóm lại thành nhóm”, có khả năng đẩy các nền kinh tế tiến lên. Tư duy cũng như cách làm này là điểm chìa khóa cho một nền giáo dục khai phóng tốt, khuyến khích sinh viên kết nối các ngành học và rút ra ý tưởng của người khác, đồng thời làm việc cùng nhau để thúc đẩy học tập và giải quyết các vấn đề.

Chúng tôi hiểu rằng mối liên hệ giữa lợi ích xã hội và cá nhân liên quan đến các kênh này là sự kết hợp giữa hy vọng và thực tế. Cơ hội có thể vẫn chưa được khai thác, và ngay cả một nền giáo dục tuyệt vời cũng không thể một mình ngăn chặn tất cả các kết quả xấu. (Đơn cử, Đức Quốc Xã là một ví dụ điển hình về sự xuất hiện kết quả xấu mặc dù có nền giáo dục quốc dân nổi tiếng thế giới). Tuy nhiên, các kênh phản ánh những điều khả dĩ, những  điều đã xảy ra trong các xã hội khác nhau khi chuyển hóa cộng đồng từ nghèo trở nên tốt hơn.

Phát triển một nền giáo dục khai phóng

Những người thiết kế chương trình giáo dục khai phóng tại các nước đang phát triển đang gặp phải một số câu hỏi quan trọng.

Câu hỏi đầu tiên là dạy gì. Giáo dục khai phóng ở phương Tây theo thời gian đã phát triển một thực đơn rộng rãi, trong đó có cả lịch sử, chính trị, văn học, ngôn ngữ, khoa học, vật lý và sinh học. Các nước đang phát triển có cơ hội học hỏi từ kinh nghiệm của phương Tây, nhưng họ cũng cần tính đến khía cạnh kinh tế, xã hội và chính trị của nước mình. Ủy ban phát triển nông thôn Bangladesh (BRAC) gần đây đã thành lập một trường đại học cung cấp nền giáo dục khai phóng, nhằm mục đích phản ánh nhu cầu và nguyện vọng của xã hội Bangladesh bằng cách đào tạo ra những sinh viên tốt nghiệp, những người sẽ làm việc để giảm nghèo và khắc phục các vấn đề nghiêm trọng của quốc gia trong các lĩnh vực chăm sóc sức khỏe, giáo dục và việc làm. Báo cáo của Nhóm Công tác về Giáo dục và Xã hội cao hơn (2000, 85) tóm tắt chiến lược thiết kế chương trình giáo dục khai phóng như sau:

BRAC bắt đầu với một đại chương trình nghiên cứu về các nhà tuyển dụng tiềm năng, sinh viên và phụ huynh, cũng như các trường đại học địa phương thành công. BRAC muốn … đảm bảo không chỉ khả năng tài chính thông qua tỷ lệ nhập học ban đầu tốt, [mà còn] chất lượng sinh viên sau tốt nghiệp sẽ hấp dẫn với các nhà tuyển dụng địa phương tiềm năng; điều này, đồng thời, sẽ móc nối trở lại để duy trì việc ghi danh tiếp tục của sinh viên tại cơ sở giáo dục.

 

Nghiên cứu của BRAC cho thấy rằng các nhà tuyển dụng đang tìm kiếm sinh viên tốt nghiệp với khả năng phân tích, kỹ năng viết, sử dụng tiếng Anh và giao tiếp tốt. Khả năng suy nghĩ độc lập và chủ động công việc cũng được đánh giá cao. BRAC nhận thấy rằng sự tham gia của các bên liên quan chính trong quá trình thiết kế chương trình giảng dạy có lẽ là cách tốt nhất để tối đa hóa lợi ích cho xã hội. Phù hợp với loại hình giáo dục khai phóng chúng tôi đang tán thành, sinh viên đại học tại BRAC được yêu cầu theo đuổi một loạt các chủ đề đa dạng, bao gồm kết hợp một số lượng đáng kể các khóa học bên ngoài khu vực chuyên môn chính của họ.

Nội dung của chương trình giáo dục khai phóng sẽ thay đổi một cách tự nhiên giữa các quốc gia. Mỗi quốc gia sẽ cần phải học các bài học ở nơi khác và áp dụng sáng tạo phù hợp với nhu cầu riêng của quốc gia mình. Ví dụ, ở khi Nam Phi, nơi tiếng Anh được nói rộng rãi, nên có thể không cần các khóa học ngôn ngữ giống như Hàn Quốc, thay vào đó có thể tập trung đặc biệt vào nhu cầu của đất nước để xây dựng các thể chế mạnh mẽ. Theo đó, các chủ đề như luật, triết học, kinh tế và chính trị có thể quan trọng hơn. Thiết kế một chương trình giáo dục khai phóng cung cấp cơ hội để đặt câu hỏi cơ bản về những gì quan trọng đối với một xã hội cụ thể. Nó mang lại cơ hội để tập trung vào lịch sử, văn hóa và giá trị của đất nước. Điều này sẽ giúp tiếp thêm sinh lực cho toàn bộ hệ thống giáo dục đại học – và, theo thời gian, có thể thay đổi cách xã hội nghĩ về bản thân nó.

Sau khi đã xác định việc dạy gì, người dạy tiếp theo cần quyết định về phương pháp dạy. Mô hình người học thụ động kiểu thuộc lòng là đặc trưng cho rất nhiều thể chế giáo dục đại học tại các quốc gia đang phát triển, khiến vấn đề này trở nên đặc biệt quan trọng. Phương pháp mới yêu cầu sinh viên cần chủ động, thích ứng hơn trong hợp tác thực hiện những công việc mà một xã hội tri thức yêu cầu. Một hệ thông giáo dục khai phóng phát triển có thể mang lại cho những cử nhân khởi đầu trong việc phát triển những kĩ năng cần thiết trong làm việc nhóm để giải quyết vấn đề và tìm kiếm giải pháp.

Tuy nhiên trên thực tế, việc tìm kiếm những giảng viên có thể tham gia vào việc học tương tác là trở ngại chính cho sự phát triển giáo dục khai phóng ở các nước đang phát triển, bởi vì truyền thống “học tập chủ động” quá yếu.

Các cải cách cần thiết sẽ chỉ diễn ra nếu các khía cạnh chính trị được xem xét một cách thực tế. Các nhà hoạch định chính sách và các bên hữu quan cũng phải thừa nhận/nhận thức rằng trong cải cách, các khía cạnh kỹ thuật và sư phạm quan trọng, tuy nhiên chúng chỉ là một phần của câu chuyện. Các bên quan tâm – từ sinh viên đến phụ huynh đến các nhà giáo dục các cấp, từ doanh nghiệp đến các nhà tài trợ – đóng góp để thực hiện, và nếu bất kỳ nhóm nào cảm thấy bị bỏ qua, sự thành công của cải cách có thể bị đe dọa.

Câu hỏi thứ ba mà các nhà thiết kế chương trình giảng dạy đối mặt là làm thế nào để làm cho sinh viên nhận thức được giá trị của giáo dục khai phóng. Hiện nay, như chúng ta đã thấy, đào tạo chuyên ngành thường có sức hút mạnh mẽ hơn các môn học tổng quát. Việc cộng tác với các nhà tuyển dụng trong việc thúc đẩy giáo dục khai phóng là rất quan trọng. Ví dụ, Đại học Quốc gia Singapore đã đưa ra một chương trình giáo dục khai phóng mới cho một số sinh viên đại học, với mục tiêu đầy tham vọng rằng những sinh viên này có thể sánh ngang với các trường đại học có nền tảng lâu đời hơn thành lập ở các nước phát triển (www.nus.edu.sg ). Nỗ lực này có sự hỗ trợ của các công ty địa phương, những tuyên bố về giá trị của khóa học có thể có ảnh hưởng mạnh mẽ đến phụ huynh và học sinh (Task Force, 90). Sự có mặt của một chương trình giáo dục khai phóng là không thể cản làn sóng đào tạo nghề/chuyên môn. Do đó, những nỗ lực hòa hợp là cần thiết để nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của giáo dục khai phóng đối với cả cá nhân và xã hội.

Tiếp cận giáo dục là vấn đề chính cuối cùng. Do tỷ lệ sinh viên và giáo viên thường thấp, giáo dục khai phóng có xu hướng đắt hơn so với đào tạo chuyên môn, và do đó không phải tất cả học sinh ở các nước nghèo hơn đều có thể được cung cấp một khóa học giáo dục khai phóng. Những trường đại học với truyền thống xây dựng lâu đời trong lĩnh vực giáo dục sẽ có thể cung cấp các chương trình chuyên sâu hơn, nhưng để giáo dục khai phóng đóng góp đầy đủ hơn cho xã hội, việc mở rộng quy mô vượt ra ngoài các nhóm ưu tú là cần thiết. Đại học tư nhân Aga Khan của Pakistan (AKU) sử dụng một số khoản tài trợ để cấp học bổng để mở rộng khóa học nghệ thuật và khoa học tự do còn non trẻ của mình vượt ra ngoài các nhóm giàu có.

Mặc dù khó để khái quát hóa về chủ đề này bởi các hệ thống giáo dục chuyên nghiệp rất đa dạng, việc thiết lập giáo dục phổ thông như một thành phần của các khóa học kỹ thuật và chuyên nghiệp là một phương pháp đầy hứa hẹn để mở rộng tiếp cận giáo dục khai phóng. Điều này sẽ giúp mở rộng việc học của các chuyên gia và cung cấp cho họ một nền tảng tốt hơn để đối phó với những điều kiện kinh tế – xã hội thay đổi. Thúc đẩy giáo dục khai phóng trong các khóa học chuyên nghiệp cũng sẽ giúp các sinh viên đó kết nối các mục tiêu xã hội rộng hơn tương tác với bản thân họ, với nhiều người khác ở các quốc gia của họ. Học sinh có thể được giáo dục nghệ thuật khai phóng trong một năm trước khi chuyển sang khóa học chuyên ngành của họ; hoặc, cả hai có thể chạy đồng thời. Theo mục tiêu này, Trường AKU (www.aku.edu) khẳng định rằng, sinh viên tốt nghiệp từ trường y khoa của mình có thể “có khả năng lãnh đạo trong các vấn đề liên quan đến xã hội”.

Hầu hết các nước đang phát triển sẽ thấy không thể và cũng không cần thiết cung cấp cho tất cả các sinh viên hệ cao đẳng và đại học của mình một nền giáo dục khai phóng. Vì vậy, không phải tất cả, hoặc thậm chí hầu hết sinh viên cần phải có một nền tảng kiến thức chung. Xây dựng một hệ thống giáo dục đại học, trong đó nhiều loại tổ chức phục vụ các mục đích khác biệt sẽ là điều cần thiết cho các nước đang phát triển, và một số tổ chức chắc chắn sẽ sử dụng rất ít giáo dục khai phóng trong đào tạo. (Điều này cũng áp dụng ở các nước phát triển.) Nhưng việc tăng số lượng sinh viên với nền tảng giáo dục khai phóng cơ bản sẽ giúp gỡ bỏ cái mác ưu tú và tăng cường nguồn vốn nhân lực quốc gia. Theo báo cáo rủi ro và triển vọng (Task Force, 87) cho thấy, các tổ chức giáo dục đại học “phải trở nên khoan dung hơn ở điểm đầu vào. . . đảm bảo rằng những học sinh chưa có nền tảng giáo dục trung học cơ sở rộng có cơ hội bắt kịp và đạt được tiềm năng của họ.” Trên tinh thần này, chương trình nghệ thuật khai phóng của trường AKU đang xem xét khả năng kết nối bắc cầu các khóa học giúp học sinh trung học cơ sở có nền tảng giáo dục kém hơn/nghèo từ các nước láng giềng để vượt qua khoảng cách.

Kết luận

Trong việc thực thi một chương trình giáo dục khai phóng, các nhà hoạch định chính sách và các nhà giáo hiện đang đối mặt với một số thách thức. Cũng như thiết kế các khóa học và làm cho chúng phù hợp với nhu cầu của xã hội, thúc đẩy các lợi ích của giáo dục khai phóng sẽ là cần thiết cùng với những nỗ lực thu hút sinh viên bên ngoài đối tượng mục tiêu truyền thống.

Những nỗ lực này hứa hẹn sẽ mang lại rất nhiều giá trị. Trong quá khứ, giáo dục khai phóng đã được nhiều nhà hoạch định chính sách phát triển trên thế giới coi là xa hoa và chỉ dành cho người giàu. Ngày nay, giáo dục khai phóng là điều cần thiết. Các nhà lãnh đạo với tầm nhìn vượt xa những lợi ích kinh tế ngắn hạn của một nền giáo dục chú trọng chuyên môn cao có cơ hội đóng góp đáng kể lâu dài cho sự phát triển của các nước họ.

David E. Bloom là Clarence James Gamble Giáo sư Kinh tế và Nhân khẩu học tại Trường Y tế Công cộng Harvard, và Henry Rosovsky là Giáo sư Đại học Geyser Emeritus và nguyên là Trưởng Khoa Nghệ thuật và Khoa học tại Đại học Harvard.

 

 

1. Larry Rosenberg và Mark Weston cung cấp những bình luận và hỗ trợ hữu ích.

2. Những người tham gia tại hội thảo của Hội đồng Anh tổ chức tại Bath, Vương quốc Anh, tháng 3 năm 2002, lưu ý rằng việc nâng cao câu hỏi “Điều gì khiến một người có học thức?” Có thể tự nó là một chất xúc tác tiềm năng cho cải cách ngoại khóa rộng hơn. Báo cáo đầy đủ buổi hội thảo xem thêm tại http://www.tfhe.net/seminar/report_of_the_seminar.htm

3. Theo tình hình hiện tại, Carol M. Baker, trong “Giáo dục khai phóng cho một xã hội toàn cầu” (một báo cáo năm 2000 của Carnegie tại New York) nói, “Năm 1995, 40% các bằng cấp được trao cho nghệ thuật khai phóng. Và số lượng đại học nghệ thuật khai phóng đạt mức cao nhất mọi thời đại là 466.000. ”Báo cáo có sẵn tại http://www.carnegie.org/sub/pubs/libarts.pdf.

4. Một báo cáo mới của Hiệp hội các trường cao đẳng và đại học Mỹ chỉ ra tầm quan trọng của việc học tập “chủ động” – những sinh viên học với mục đích, học hỏi nhiều hơn và chuẩn bị tốt hơn để sử dụng những gì họ đã học để cải thiện xã hội. Xem Kỳ vọng lớn hơn: Một tầm nhìn mới về học tập như một quốc gia học đại học, có sẵn tại http://www.greaterexpectations.org. Khi đề cập đến tình hình của Hoa Kỳ, báo cáo tuyên bố: “Giáo dục đại học tốt nhất cho thế kỷ XXI sẽ dựa trên nền giáo dục khai phóng tạo ra một cá nhân chủ động trong học tập và cuộc sống, được trao quyền, hiểu biết và có trách nhiệm.”

5. Quan điểm mới nổi ở Hoa Kỳ là khác nhau. Hiệp hội các trường đại học và cao đẳng Mỹ nói rằng giáo dục khai phóng nên có sẵn cho tất cả học sinh. Xem www.greaterexpectations.org.

6. Đại học Aga Khan (1994). Tương lai của Đại học Aga Khan: Sự tiến hóa của một tầm nhìn. Báo cáo của Ủy ban của Thủ tướng. Có sẵn tại http://www.akunet.org/aku.

Areshidze, Ivakly. 1999. Giáo dục khai phóng và chính phủ ở Georgia. http://www.psigeorgia.org

Gibbons, Michael. 1998. Phát biểu tại Hội nghị Thế giới về Giáo dục đại học. Paris: UNESCO, ngày 5-9 tháng 10.

 

Tiểu ban chuyên trách về giáo dục đại học và xã hội 2000 ở nước đang phát triển. Higher education in developing countries: Peril and promise. Washington, DC: World Bank/UNESCO

2 bình luận về “Tại sao quốc gia đang phát triển không nên bỏ qua giáo dục khai phóng

  1. Ở nước ta, có lẽ khi nào đại học có quyền tự trị, trong đó có quyền tự trị học thuật, thì giáo dục khai phóng mới có điều kiện phát triển.

    (University autonomy has four main dimensions: organisational, financial, staff and academic autonomy.

    Organisational autonomy refers to a university’s ability to decide freely on its internal organisation, such as the executive leadership, decision-making bodies, legal entities and internal academic structures.

    Financial autonomy refers to a university’s ability to decide freely on its internal financial affairs. The ability to manage its funds independently enables an institution to set and realise its strategic aims.

    Staffing autonomy refers to a university’s ability to decide freely on issues related to human resources management, including recruitments, salaries, dismissals and promotions.

    Academic autonomy refers to a university’s ability to decide on various academic issues, such as student admissions, academic content, quality assurance, the introduction of degree programmes and the language of instruction.

    http://www.university-autonomy.eu/ )

    Cám ơn Ánh Quyên dịch bài này.

    Thích

  2. Tuy vậy, trước khi giáo dục khai phóng có điều kiện tốt nhất để phát triển thì có lẽ chúng ta cũng nên chuẩn bị nền tảng cơ bản.

    (Nếu ở trong điều kiện thô sơ mà chúng ta cố gắng phát triển tốt nhất thì mới cơ sở để tin rằng, khi ở trong điều kiện tốt nhất chúng ta sẽ phát triển tốt nhất.)

    Giáo dục nghệ thuật là một phần của giáo dục khai phóng. Đầu tư phát triển giáo dục nghệ thuật là nền tảng để phát triển giáo dục khai phóng.

    Giáo dục nghệ thuật bao gồm văn, vẽ, võ, vũ,…

    Thích

Bình luận về bài viết này