“Cánh cửa” Thanh niên Xung phong

(trích Chương VII Bên Thắng Cuộc – Tác giả Huy Đức)

Từ tháng 8-1975, ông Võ Văn Kiệt đã giao cho Thành đoàn tổ chức một lực lượng thanh niên xung phong đi “thí điểm” khai khẩn đất hoang. Cuối năm ấy, ông Võ Văn Kiệt triệu tập Ban Thường vụ Thành đoàn đến nhà riêng ông Phan Minh Tánh, bí thư Trung ương Đoàn Thanh niên Cách mạng miền Nam. Vào họp, ông Kiệt giao nhiệm vụ: “Thành phố cần một lực lượng, lực lượng đó là thanh niên xung phong. Giao Thành đoàn đứng ra tổ chức, cần Thành ủy hỗ trợ gì, Thành ủy sẽ đáp ứng”. Ông giải thích: “Phải tạo ra một môi trường để mọi thanh niên đều có thể tham gia lao động để có suy nghĩ tích cực và để hãnh diện về bản thân mình”.

Ông Võ Ngọc An năm ấy ba mươi mốt tuổi, đang là ủy viên Thường vụ Thành đoàn phụ trách báo Tuổi Trẻ, nhớ lại: “Lúc đó, nghe ông Kiệt nói cảm thấy như đang nghe một điều gì đó thật thiêng liêng”. Sau cuộc họp ấy, ông Võ Ngọc An lãnh trách nhiệm huy động tiền bạc để may hàng ngàn bộ đồng phục xanh.

Hàng chục năm sau, nhiều người dân Thành phố nhớ tới ngày 28-3-1976, không chỉ vì tính hoành tráng của cuộc biểu dương lực lượng ở sân vận động Thống Nhất với một “rừng người” áo xanh, tay cầm cuốc xẻng, mà ở cách mở đầu bài nói chuyện của một bí thư cộng sản. Thay vì, “các đồng chí” như cách xưng hô thống trị thời bấy giờ ở trên mọi diễn đàn, ông Võ Văn Kiệt đã làm nhiều thanh niên ứa nước mắt khi nói: “Các em đoàn viên, thanh niên yêu quý!”. Trong số hàng vạn thanh niên có mặt hôm ấy không chỉ có con em Cách mạng. Theo yêu cầu của ông Võ Văn Kiệt, Thành đoàn đã vận động được cả những thanh niên nghiện xì ke, ma túy, có người đã từng là “đĩ, điếm”, có người là “lính ngụy”. Theo ông Võ Ngọc An, trong số ấy có một đại úy Sài Gòn, cha anh đã từng bị giết nhầm bởi “Việt Cộng”. Những thanh niên ấy, từ sau ngày 30-4, thông qua cách cư xử của các cán bộ phường, thông qua những ngôn từ cao ngạo trên báo đài, biết được thân phận của mình, dám mong chi có ngày một ông bí thư gọi mình là “các em yêu dấu”.

Với tư cách là một nhà lãnh đạo Đảng, ông Võ Văn Kiệt cũng nói về truyền thống theo cách của mình: “Tôi cũng xin phép được bày tỏ với lứa tuổi hai mươi của đất nước đã hết đau thương và từ đây thẳng đường đi tới chủ nghĩa xã hội với tất cả tấm lòng trìu mến và kỳ vọng thiết tha của những lớp thanh niên nối tiếp nhau đã từng tham gia khởi nghĩa Nam Kỳ, cách mạng Tháng Tám…”. Ông nói tiếp: “Lý tưởng của họ, ước mơ của họ chính là hiện tại mà hôm nay các em đang sống. Nếu các em sau này có điều kiện ôn lại kỹ càng một giai đoạn cách mạng hùng vĩ đã qua của dân tộc, các em sẽ biết thương yêu vô hạn Tổ quốc Việt Nam nghìn lần yêu dấu. Các em sẽ mạnh lên gấp bội vì một niềm tin ở nhân dân và đất nước”.

Bài diễn văn được chấp bút bởi nhà báo Thép Mới, một người viết tùy bút nổi tiếng, tác giả của bài “Tre Việt Nam” in trong sách giáo khoa được thuộc lòng bởi nhiều thế hệ. Tinh thần của ông Võ Văn Kiệt, có lúc, được ông Thép Mới thể hiện với giọng văn nồng nàn. Ông Võ Văn Kiệt, lúc này, vẫn để cho Thép Mới sử dụng hình tượng Pavel, hình tượng về một thế hệ quên mình để “tạo lập nên nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên”. Tuy không hùng hồn như ông Trần Bạch Đằng, nhưng cái đẹp của thanh niên theo ông Kiệt vẫn là lao động374. Kết thúc bài diễn văn, ông Kiệt nói: “Chúng tôi xin nhiệt liệt chào mừng những lớp công dân xã hội chủ nghĩa của thành phố chúng ta từ đây nối tiếp nhau nẩy nở và trưởng thành trên những công trường lao động tình nguyện. Chúc các em thành công thắng lợi, trên trận tuyến mới, trận tuyến lao động vinh quang”. Không có mặt ở sân vận động Thống Nhất sáng 28-3-1976, nhưng giáo sư trung học Trần Ngọc Châu vẫn chịu ảnh hưởng bởi bài diễn văn. Năm ấy, ông Châu nằm trong toán vận động thanh niên đi thanh niên xung phong của Quận đoàn I. Ông Trần Ngọc Châu kể: “Bài diễn văn của ông Võ Văn Kiệt được quay ronéo, chúng tôi cho họp dân ở phường, đọc những đoạn cảm động nhất”.

Theo ông Trần Ngọc Châu thì khi ấy, phường đoàn cũng có chuyện, họ lập danh sách và thường xuyên bắt tập trung những thanh niên chưa có công ăn việc làm, khiến nhiều người bất mãn. “Cộng sản” và “đồng chí” là những khái niệm rất xa cách và có khi là ác cảm với thanh niên, cho nên theo ông Châu: “Nhiều người chỉ vì thấy ông bí thư cộng sản gọi họ là em mà đi. Có người học thuộc nhiều đoạn trong bài diễn văn của ông Võ Văn Kiệt”. Ông Châu trước đó là giáo viên Anh văn, đã có bằng cao học triết, thế nhưng sau một thời gian đi vận động người khác, chính ông Châu cũng nhận ra con đường để trụ lại trong chế độ tốt nhất là phải “chọn cánh cửa” này375.

Nguyễn Nhật Ánh376 cũng đã chọn thanh niên xung phong như là một con đường để giải tỏa áp lực nặng nề của lý lịch. Sau ngày 30-4-1975, ông hàng xóm làm thợ mộc ở phường Nhật Tảo, Quận 10, bố của ba cô con gái khá xinh mà sinh viên Nguyễn Nhật Ánh dạy kèm, bỗng nhiên trở thành chủ tịch khóm, về sau là chủ tịch phường. Nguyễn Nhật Ánh, khi ấy vừa học xong chương trình đệ nhất cấp ở Đại học Sư phạm, được ông thợ mộc đưa lên phường lo việc giấy tờ. Theo “tinh thần Chỉ thị 222”, năm 1976, anh được phép tốt nghiệp sau khi học thêm tám tháng “chính trị”. Tuy nhiên, Ánh không được phân công công tác chỉ vì cha anh lúc đó đang phải đi “học tập” do từng là trưởng Ty Thông tin Chiêu hồi Tỉnh Quảng Tín377.

Nguyễn Nhật Ánh trở về phường Nhật Tảo khi cô con gái ông chủ tịch đã trở thành bí thư Phường Đoàn. Cô bí thư chiếu cố thầy giáo cũ của mình, mỗi khi có “phong trào” lại gọi Nguyễn Nhật Ánh vác loa đi đọc bản tin hoặc kẻ lên tường những câu khẩu hiệu “xây dựng chủ nghĩa xã hội”. Đổi lại, anh có thù lao mười ký gạo mỗi tháng. Nguyễn Nhật Ánh cũng tiếp cận bài diễn văn của ông Võ Văn kiệt thông qua những lần đi vận động thanh niên xung phong. Anh kể: “Khi mọi người đi hết, tôi chợt nhận ra, không lẽ mình cứ ăn bám bà dì hoài, năm 1977, tôi cũng lên đường”.

Chỉ huy Lực lượng Thanh niên xung phong khi ấy là ông Võ Viết Thanh. Năm 1975, khi ông Võ Văn Kiệt cần một sỹ quan trẻ biệt phái sang thanh niên xung phong, Đại úy, Tiểu đoàn trưởng Võ Viết Thanh đã được chọn. Ông Thanh nhớ lại: “Khi xuống U Minh, tôi cũng hơi suy nghĩ, đang là một sỹ quan được quân đội trọng dụng, giờ ra nằm giữa rừng, gian khổ không kém chi thời chiến”.

Thanh niên xung phong thuộc nhiều thành phần, có người là tướng cướp, có người xuất thân là trí thức, sỹ quan, nhưng chủ yếu là thanh niên học sinh. Theo ông Võ Viết Thanh, họ chịu đựng gian khổ không thua gì những chiến binh. Giữa rừng U Minh, giữa Chiến khu Dương Minh Châu… mùa mưa thì nước ngập mênh mang, mùa khô thì phải chia từng giọt nước ngọt, ăn không đủ no, rồi thì đỉa, vắt và đủ thứ bệnh tật, nhưng chỉ có một thứ thuốc lá duy nhất để chữa là “xuyên tâm liên”. Thế mà họ đã sống với nhau không câu nệ quá khứ. Đa phần đều trưởng thành. Ông Võ Viết Thanh thừa nhận, chính ông cũng phải dần dần mới “bắt được nhịp sống với họ”. Ông Thanh nói: “Hơn sáu vạn con người không biết Cách mạng là gì, chỉ nghe lời ông Sáu Dân mà kiên gan, bền bỉ”.

Một năm sau ngày phát động “phong trào thanh niên xung phong”, tại cuộc gặp mặt những “đại biểu thanh niên xung phong tiên tiến”, ngày 3-3-1977, ông Võ Văn Kiệt đã gọi thanh niên xung phong là một “trường đại học”. Ông Kiệt cho rằng sở dĩ các chàng trai cô gái đã “trưởng thành trên nhiều mặt” là vì họ đã “thấy được tiền đồ tương lai của mình nằm trong tiền đồ, tương lai của đất nước, dân tộc… Nhiều đồng chí đã xác định với tình cảm và lý trí sâu sắc lao động là vinh quang”378.

Môi trường thanh niên xung phong ở thời điểm ấy đúng là đã tạo ra không ít câu chuyện kỳ diệu379. Trước “giải phóng”, Vũ Hoàng Vi là một tướng cướp. Lúc đầu, Vi chỉ định “trà trộn” vào lực lượng thanh niên xung phong như là một nơi để trốn. Nhưng tung tích của Vũ Hoàng Vi bị tổ chức phát hiện. Anh không những không bị bắt mà còn được vận động thuyết phục. Lần đầu tiên, Vi nhận ra có một nơi tôn trọng mình, anh lao động tốt, được tuyên dương, được cho đi học, được đưa lên làm đại đội trưởng và về sau còn được kết nạp Đảng.

Trong những bài phát biểu với thanh niên xung phong về sau, ông Võ Văn Kiệt vẫn tiếp tục gọi họ là “các em”. Nhưng khi phát biểu với những “thanh niên tiên tiến”, ông đã gọi họ là “đồng chí”. Trong một đại hội thanh niên tiên tiến khác, ông Võ Văn Kiệt đã đưa một đội viên vốn là một tay anh chị nổi tiếng, “Bảy Đầu Bò”, ngồi chung trên ghế chủ tịch đoàn với mình. Nếu như trong những ngày đầu, nhiều thanh niên miền Nam hết sức dị ứng với cách Cách mạng xưng hô với nhau, thì ở thời điểm ấy “đồng chí” lại là một sự thừa nhận mà nhiều thanh niên tìm kiếm.

Năm 1977, Nguyễn Nhật Ánh đang tham gia đào kênh Ba Gia ở Hố Bò, Phú Hòa. Lúc này anh đã có nhiều tác phẩm đăng trên tờ Tuổi Trẻ, nhưng với lý lịch cha là trưởng ty “chiêu hồi”, anh vẫn không được kết nạp Đoàn. Khi ấy, thanh niên xung phong ở trong những lán tranh, vách nứa, một bên là nơi ngủ của nam, một bên là nữ; phần giữa lán kê những bộ bàn ghế tạm do chính họ làm. Một buổi tối, chi đoàn nhóm họp nơi khoảng giữa lán có kê bàn ghế đó. Đang họp, một người trong Ban Chính trị Liên đội phát hiện ra Nguyễn Nhật Ánh đang nằm chèo queo trên giường, lập tức “phần tử chậm tiến” Nguyễn Nhật Ánh bị đuổi ra ngoài. Hôm ấy mưa, trời tối như bưng, Nguyễn Nhật Ánh phải đi ra, lang thang giữa rẫy khoai mì, mặt ướt đẫm vì nước mưa và nước mắt. Anh nhớ lại: “Tôi có cảm giác như bị đẩy ra khỏi đồng loại”. Nhưng cho dù cảm giác về thời đại mới ra sao thì Nguyễn Nhật Ánh cũng không có lựa chọn nào khác là phải “quay vào”, phải chứng tỏ mình là một thanh niên tiên tiến.

Ngày 26-3-1978, mười hai giờ đêm, ông Võ Văn Kiệt lên, Nguyễn Nhật Ánh, Trần Ngọc Châu và nhiều thanh niên khác được gọi dậy: bên ngoài, đuốc được đốt lên và nhiều thanh niên của chế độ cũ, trong đó có Trần Ngọc Châu, từ đêm ấy, “vinh dự được đứng trong hàng ngũ của Đoàn”. Theo ông Trần Ngọc Châu: “Ông Võ Văn Kiệt đến, mặc bộ đồ thanh niên xung phong, đầu đội nón tai bèo, đứng lên đánh trống. Hình ảnh một ông Kiệt sừng sững đã đọng lại trong ký ức của lực lượng thanh niên xung phong”. Ông Châu nói: “Khi ấy, vào Đoàn là thiêng liêng lắm”. Đoàn thiêng liêng lắm, nhưng “ánh đuốc” trong đêm ấy không thể rọi sáng đến tất cả mọi người. Cũng như Trần Ngọc Châu, Nguyễn Nhật Ánh đã dùng cuốc chim, cuốc đá ong đào kênh cho đến khi hai tay tóe máu mà vẫn không được vào Đoàn chỉ vì cha là “Ngụy”. “Cánh cửa thanh niên xung phong” mà ông Kiệt thiết lập vẫn không đủ rộng cho các thanh niên miền Nam bước vào chế độ mới.

1 bình luận về ““Cánh cửa” Thanh niên Xung phong

Bình luận về bài viết này