ENGLISH: SUSTAINABLE ENERGY ACCESS PLANNING
Tóm tắt
Lập kế hoạch tiếp cận năng lượng bền vững (SEAP) nhằm phát triển một hệ thống cung cấp năng lượng mà có khả năng mang đến cho tất cả các đối tượng trong xã hội trong đó cả người nghèo và người không nghèo có thể tiếp cận bền vững với ít nhất một lượng năng lượng tối thiểu cho những nhu cầu thiết yếu. Loại kế hoạch này cũng sẽ nhận biết các công nghệ và lựa chọn nguồn tài nguyên thân thiện với khí hậu và môi trường để cung cấp năng lượng, và các các lĩnh vực liên quan đến cơ hội đầu tư.
Không giốn như lập kế hoạch về năng lượng và điện năng truyền thống, SEAP cân nhắc một cách rõ ràng
(i) mức độ tối thiểu chấp nhận được của dịch vụ năng lượng sạch hơn tới các hộ gia đình nghèo, cũng như nhu cầu năng lượng của những hộ khá giả;
(ii) mối liên hệ tương hỗ giữa khả năng chi trả và khả năng tiếp cận của năng lượng sạch hơn đối với người nghèo, sau đó là nhu cầu tạo lập dịch vụ năng lượng sạch hơn mà người nghèo có thể chi trả;
(ii) chi phí cho các lựa chọn để tiếp cận năng lượng của cả phía cung cấp và phía có nhu cầu (bên thứ hai có đặc thù là bị bỏ qua trong các kế hoạch cung cấp năng lượng truyền thống) nhằm xác định tổng chi phí và khả năng chi trả dịch vụ năng lượng cơ bản đối với hộ gia đình; và
(iv) sự bền vững của công nghệ và lựa chọn nguồn tài nguyên và những lợi ích của chúng.
Một khung chương trình toàn diện đã được phát triển nhằm nắm bắt những đặc tính này của SEAP. Khung chương trình SEAP được đề xuất và thảo luận trong báo cáo này, bao gồm việc đánh giá những điểm sau
• Mức độ nghèo về năng lượng. Việc đánh giá số lượng hộ gia đình nằm dưới mức nghèo về năng lượng và lượng năng lượng họ tiêu thụ cung cấp nền tảng cho việc đánh giá nhu cầu năng lượng cần thêm mà hệ thống cung cấp năng lượng có thể đạt tới theo chương trình tiếp cận năng lượng (EAP).
• Nhu cầu năng lượng. Đây là một đánh giá về nhu cầu hiện tại và tương lai của các hộ nghèo dùng cho thắp sáng, nấu ăn, sử dụng nước nóng, sưởi ấm, sử dụng các thiết bị điện khác, và các thiết bị tiêu tốn năng lượng khác, nhu cầu mà có thể được cung cấp ở mức tối thiểu chấp nhận được với các dịch vụ năng lượng cơ bản, ví dụ như mức đã được nêu ra trong Global Tracking Framework (World Bank/ESMAP and IEA 2013). Nhu cầu năng lượng của các hộ khá giả hơn và các khu vực khác (làm nghề thủ công, dịch vụ công cộng…) cũng đã được đánh giá. Mức tối thiểu chấp nhận được của các dịch vụ năng lượng cơ bản có thể, tuy nhiên, là không giống nhau giữa các nước với điều kiện khí hậu và các điều kiện khác khác nhau.
• Các nguồn năng lượng. Đánh giá nguồn năng lượng quyết định liệu có đủ các nguồn năng lượng cho nhu cầu hiện tại và tương lai cho khối lượng năng lượng mong muốn theo con đường đáng tin cậy và bền vững trong ngắn hạn, trung hạn và dài hạn.
• Chi phí. Các hệ quả chi phí của các lựa chọn và các chương trình tiếp cận năng lượng sạch hơn được đánh giá nhằm có thông tin về tổng mức đầu tư và các chi phí khác liên quan đến phát triển và thực hiện EAP với chi phí thấp nhất, và gánh nặng năng lượng lên các hộ nghèo (khả năng chi trả) trong chương trình. Toàn bộ chi phí của bên cung cấp và bên yêu cầu cho việc cung cấp này, trong đó đã được xác định trước theo mức dịch vụ năng lượng theo EAP, đều được đánh giá. Việc đánh giá có thể dễ dàng bị kéo dài để tạo ra thông tin về chi phí gia tăng phải gánh trong việc cung cấp các mức tiếp cận năng lượng khác nhau cho số dân mục tiêu hoặc mở rộng độ bao phủ của EAP trên khu vực rộng hơn hay dân số lớn hơn. Một phần quan trọng của đánh giá chi phí là tìm ra đường cong chi phí gia tăng của tiếp cận năng lượng (IEACC), đường này theo dấu của sự cung cấp năng lượng cho các mức tiếp cận khác nhau và chi phí gia tăng tổng tương ứng với mỗi đơn vị năng lượng sử dụng (có nghĩa là, với mỗi đơn vị thì tổng chi phí bao gồm cả chi phí cung và cầu). Đánh giá chi phí cũng giúp tìm ra đường cong chi phí gia tăng của cung cấp năng lượng, đường cong này chỉ xem xét các thành phần chi phí bên cung của EAP. IEACC giúp xếp hạng nguồn năng lượng sạch hơn, và các lựa chọn công nghệ bên cung và bên cầu theo chi phí trên từng đơn vị năng lượng được sử dụng.
• Lợi ích. Một chương trình tiếp cận năng lượng sạch có nhiều lợi ích. Nó có thể cải thiện chất lượng môi trường (đặc biệt là chất lượng không khí trong nhà), sức khỏe và an ninh năng lượng, và các lợi ích xã hội (ví dụ như nhiều cơ hội giáo dục hơn, tổng thu nhập tăng lên qua những hoạt động năng suất cao tại nhà và các cơ hội tuyển dụng tại địa phương, ít công việc nặng nhọc); giảm sự bất bình đẳng năng lượng giữa các quốc gia và các vùng trong một đất nước; và giảm phát thải khí nhà kính.
• Sự bền vững. Các lựa chọn công nghệ và nguồn cung cho tiếp cận năng lượng được cân nhắc trong EAP được đánh giá về mặt kỹ thuật, kinh tế, xã hội, môi trường và sự bền vững của tổ chức so với dòng đời của chúng – từ khi lắp đặt ban đầu tới vận hành và duy trì – căn cứ các chỉ thị liên quan.
• Khả năng chi trả. Đánh giá khả năng chi trả xác định lượng mà các hộ nghèo có thể chi trả cho các dịch vụ năng lượng cơ bản (ví dụ như thắp sáng, nấu nướng, sưởi ấm) và lượng dân số không thể chi trả như vậy. Khả năng chi trả có thể được đo bằng gánh nặng năng lượng (phần năng lượng hộ sử dụng và chi phí cho năng lượng trên tổng chi phí hoặc thu nhập). Một hộ gia đình mà có gánh nặng năng lượng vượt quá mức chịu đựng được coi là nghèo năng lượng. Đánh giá khả năng chi trả xem xét sự thay đổi trong các mức tối thiểu chấp nhận được của dịch vụ năng lượng cơ bản, các giá dịch vụ năng lượng tương ứng, và các mức thu nhập tại các quốc gia và địa phương, chứ không phải là yêu cầu một bộ tham số chung. Việc này được thực hiện không chỉ để xác định độ nghèo năng lượng và nhu cầu khi khởi động SEAP mà còn để đánh giá khả năng hộ nghèo có thể chịu được chi phí tiếp cận các dịch vụ năng lượng sạch hơn sau khi chi phí cung và cầu năng lượng đã được ước tính trong đánh giá chi phí thành phần.
Những đánh giá sau đây có sự liên kết với nhau: đánh giá độ nghèo năng lượng, việc mà sẽ xác định quy mô dân số nghèo năng lượng, với đánh giá nhu cầu năng lượng; đánh giá nhu cầu năng lượng với đánh giá chi phí, dựa trên dữ liệu công nghệ và đánh giá sự có sẵn tài nguyên, chi phí, và tiềm năng kinh tế; đánh giá chi phí và sự xác định lựa chọn công nghệ chi phí thấp nhất, với sự bền vững, khả năng chi trả (bao gồm các kế hoạch hỗ trợ cần thiết), và đánh giá lợi ích; đánh giá sự bền vững của một công nghệ hoặc một EAP, với nguồn, chi phí, lợi ích khả năng chi trả và các đánh giá khác.
Chương kết luận đưa ra một vài vấn đề liên quan tới thực thi khung SEAP. Tại thời điểm ban đầu của quá trình, các kế hoạch tiếp cận năng lượng và các nhà hoạch định chính sách cần giải quyết một số vấn đề liên quan tới chính sách trên cơ sở nghiên cứu độc lập, các mục tiêu phát triển quốc gia, các ưu tiên, và khả năng, khi không có các tiêu chuẩn phổ biến thích hợp. Ví dụ, các mức tối thiểu chấp nhận được của các dịch vụ năng lượng cơ bản, mà sự nghèo về năng lượng và đánh giá nhu cầu dựa theo đó, có thể khác nhau giữa các quốc gia và cả giữa các địa phương trong một nước bởi một số nhân tố, ví dụ như loại và số lượng thức ăn được nấu, các thiết bị được sử dụng, và sự biến đổi khí hậu và địa lý. Gánh nặng năng lượng tối thiểu chấp nhận được cũng có thể đặc trưng theo từng nước, phản ánh không chỉ các mục tiêu phát triển quốc gia và các ưu tiên mà còn khả năng tài chính và khả năng khác của các chính phủ nhằm duy trì các nỗ lực giảm sự nghèo năng lượng.
Một vấn đề khác liên quan đến yêu cầu dữ liệu. Khung SEAP có thể trở nên đặc biệt khó khăn để thực hiện trong một vùng không có sự tiếp cận với năng lượng sạch hơn. Các nguồn thông tin thứ cấp về các khu vực so sánh cần được dùng trong trường hợp này. Việc có một cơ sở dữ liệu hoàn chỉnh về kinh tế hộ gia đình điển hình và các đặc trưng sử dụng năng lượng của các địa phương khác nhau, phân loại dựa theo địa vật lý, kinh tế- xã hội, và các tiêu chí quan trọng khác, sẽ làm cho các cuộc khảo sát hộ gia đình tốn tiền và tốn thời gian cho mỗi khu vực mục tiêu trở nên không cần thiết.
Cuối cùng, việc sử dụng có hiệu quả khung SEAP trong phát triển các kế hoạch và chương trình tiếp cận năng lượng bền vững và hiệu quả sẽ phụ thuộc nhiều vào năng lực của các tổ chức lập kế hoạch và chương trình phát triển quốc gia và địa phương nhằm thực hiện các đánh giá khác nhau. Các hoạt động tăng cường năng lực liên quan tới khung SEAP do đó nên được thực hiện như một phần thường xuyên của các dự án và chương trình tiếp cận năng lượng.
DOWN TOÀN BỘ BÁO CÁO TIẾNG ANH TẠI ĐÂY: http://www.adb.org/sites/default/files/publication/160740/sustainable-energy-access-planning-fw.pdf