> Bài liên quan: Mở sòng bạc casino, thêm việc làm Nhưng cũng tạo ra tội phạm, gây phá sản và thậm chí tự tử – Nghiên cứu đã chỉ ra
P1 – Kinh tế sòng bạc: Kẻ được người mất khi hợp pháp hoá đánh bạc
P2 – Kinh tế sòng bạc: Kẻ được người mất khi hợp pháp hoá đánh bạc
XỔ SỐ NHÀ NƯỚC
Doanh thu xổ số đạt tổng cộng 41,4 tỷ USD trong năm 2003, mang lại tổng doanh thu cho liên bang là 19,9 tỷ đô la (Christiansen Capital Advisors, 2004). Điều này thể hiện doanh số trung bình hàng năm là $212 cho mỗi người lớn sống trong tiểu bang có phát hành xổ số, hay $372 cho mỗi hộ gia đình trên toàn quốc. Vào năm 1998, mỗi tiểu bang trong lục địa không có xổ số tiếp giáp với ít nhất một tiểu bang có xổ số, khiến cho việc chơi xổ số ngoài tiểu bang trở nên khả thi với một nhóm lớn người trưởng thành. Tuy nhiên, việc tham gia và chi tiêu vào xổ số trung bình hàng năm cao của tiểu bang có phát hành xổ số cao hơn rất nhiều và đáng kể so với các tiểu bang không có xổ số (Kearney).
Thời đại của xổ số nhà nước hiện đại bắt đầu vào năm 1964 ở New Hampshire. Sau khi New Hampshire đi đầu, New York và New Jersey sớm giới thiệu xổ số nhà nước tại các bang này. Xổ số lan rộng trên khắp đất nước chủ yếu theo trật tự địa lý, bắt đầu trên khắp Đông Bắc, sau đó về phía Tây, và cuối cùng đến Trung Đông và phía Nam. Năm 2004 Tennessee đã trở thành bang thứ 39, ngoài DC, vận hành xổ số nhà nước. Ở từng trường hợp, tiểu bang đã chấm dứt việc cấm xổ số trước đây và thành lập một đại lí cấp tiểu bang là nhà cung cấp duy nhất các sản phẩm xổ số. Bảng 1 liệt kê các thời gian thực thi.
Mỗi tiểu bang hiện có xổ số nhà nước đều cung cấp các trò chơi xổ số “ăn liền”. Trò chơi “ăn liền” – thường ở dạng vé xổ số cào – được giới thiệu lần đầu tiên vào năm 1974 là một sản phẩm do Xổ số Tiểu bang Massachusetts cung cấp. Những trò chơi này cho phép cho người tiêu dùng biết ngay lập tức là họ có thắng hay không và nếu giải thưởng nhỏ hơn một số tiền quy định nào đó, người chơi được nhận tiền tức thì. Vé số cào thường tốn một, hai hoặc năm đô la, nhưng các tiểu bang gần đây đã bắt đầu cung cấp vé tức thì có giá cao hơn với cơ hội giành được nhiều triệu đô la giải thưởng. Như được thể hiện trong Bảng 2, doanh thu trên các trò chơi xổ số cào tức thì chiếm gần một nửa tổng doanh thu của xổ số nhà nước.
Có nhiều tranh luận trong cộng đồng về việc sử dụng xổ số như một phương tiện để gây quỹ công cộng. Những người phản đối lập luận rằng xổ số nhà nước nhắm đến nhóm người thiểu số và người nghèo và họ chi tiêu cho xổ số thay cho tiêu dùng và tiết kiệm. Một số lo lắng rằng các chính phủ tiểu bang đang “lừa gạt” mọi người với kiểu “đặt cược của kẻ nhử mồi”, khai thác thông tin sai lệch về phía người tiêu dùng. Những người ủng hộ xổ số nhà nước phản đối rằng người từ tất cả các nhóm nhân khẩu học đều chơi xổ số. Họ lập luận rằng mọi người đều có nhu cầu với các trò cờ bạc và xổ số nhà nước tận dụng nhu cầu đó bằng cách cung cấp một sản phẩm thay thế cho các hình thức cờ bạc khác. Một số khác chỉ ra đặc trưng của doanh thu xổ số như một hình thức tự do mua các món hàng giải trí.
Tác động phân phối
Một số nghiên cứu đã điều tra các tiên đoán nhân khẩu học về cờ bạc xổ số và có khuynh hướng thấy rằng, trung bình, các sản phẩm xổ số nhà nước được tiêu thụ một cách không tương xứng trong người nghèo. (Các ví dụ gần đây bao gồm Worthington (2001), Hansen (1995), và Scott và Garen (1993) Clotfelter and Cook (1989) cung cấp đánh giá các nghiên cứu trước đó.) Kearney (sắp xuất bản) xem xét bằng chứng vi mô về người chơi xổ số từ Cuộc khảo sát Quốc gia về Đánh bạc năm 1998 do Hội đồng Nghiên cứu Ý kiến Quốc gia (NORC) thực hiện theo hợp đồng với NGISC. Dữ liệu cho thấy các xu hướng chung sau đây. Thứ nhất, cờ bạc xổ số phủ rộng khắp trong các nhóm khác nhau về chủng tộc, giới tính, và thu nhập hay giáo dục. Thứ hai, những phản hồi trong nghiên cứu cho thấy người da đen dành gần gấp đôi số tiền trên vé số so với những người da trắng hoặc gốc Tây Ban Nha. Theo báo cáo, chi phí trung bình của người da đen là 200 đô la mỗi năm, (so với) 476 đô la từ những người chơi xổ số năm ngoái. Nam giới da đen có chi tiêu trung bình cao nhất cho xổ số. Thứ ba, chi tiêu xổ số trung bình hàng năm tính theo đô la là tương đương nhau giữa các nhóm thu nhập thấp nhất, trung bình và cao nhất. Điều này ngụ ý rằng trung bình, các hộ gia đình thu nhập thấp có tỉ lệ chi tiêu vào xổ số tính trên gia sản nhiều hơn so với các hộ gia đình khác.
Điều thú vị là những phần thu lời được của xổ số nhà nước có vẻ khác nhau giữa các sản phẩm xổ số. So với những người chơi xổ số khác, người chơi xổ số thu nhập thấp có nhiều khả năng đặt cược vào các trò chơi ăn liền. Trong số những người trả lời khảo sát của NORC báo cáo về chơi xổ số, 38% trong nhóm những người thu nhập thấp nhất cho biết họ đã mua vé số cào ăn liền trong lần cuối cùng họ chơi xổ số, so với 27 và 19% trong số nhóm một phần ba những người thu nhập trung bình và nhóm một phần ba người thu nhập cao nhất. Người chơi thu nhập cao hơn có nhiều khả năng đã mua vé xổ số giải – 56% trong số đó thuộc nhóm một phần ba thu nhập cao nhất, 49% ở nhóm một phần ba trung bình và 39% ở nhóm một phần ba có thu nhập thấp nhất. Cuộc khảo sát NORC cũng hỏi người trả lời về trò chơi xổ số nhà nước yêu thích của họ. Xổ số cào ăn liền là trò chơi được yêu thích phổ biến nhất trong nhóm những người có thu nhập thấp nhất, trong khi xổ số giải cho đến nay được yêu thích nhất bởi những người có thu nhập cao hơn.
Tác giả Oster (2004) kiểm tra dữ liệu về doanh thu xổ số Powerball để phân tích mức độ thu lời được thay đổi như thế nào với giá trị của giải thưởng trong trò chơi xổ số một lần. Oster đánh giá dữ liệu bán hàng theo mã vùng cho 199 bản vẽ xổ số ở bang Connecticut, trong đó giải thưởng thay đổi từ 10 triệu đến 150 triệu đô la. Dữ liệu cho thấy mức độ thu lại được ít ở các giải xổ số cao. Một lý giải có thể là giải cao hơn làm tăng “thích thú” của đánh xổ số và những người giàu có khả năng cao hơn để đánh cược. Thêm vào đó, những người giàu có thể hiểu rõ hơn thực tế là giá trị kỳ vọng của một canh bạc tăng lên với giá trị giải thưởng, và những cá nhân đó phản ứng nhanh hơn với mức giá hiệu quả của một cuộc đánh xổ số.
Phát hiện mức độ thu lời thay đổi theo đặc điểm sản phẩm có ý nghĩa chính sách quan trọng. Một chính quyền có thể giảm thiểu phần lời – và có khả năng gây nghiện – của các sản phẩm xổ số tại bang mình bằng cách loại dần các trò chơi ăn liền . Vé số cào có lợi nhuận cao cho các tiểu bang, nhưng là sản phẩm đặc biệt thu hút người tiêu dùng có thu nhập thấp và tiềm năng trở thành người nghiện cờ bạc. Tuy nhiên, các tiẻu bang dường như đang chuyển hướng ngược lại bằng cách giới thiệu các trò chơi ăn liền có giá cao hơn. Chẳng hạn như, năm 2004, Connecticut giới thiệu một vé cào $20 và có ý định đưa ra một vé $30 vào mùa hè năm 2005. Một số xổ số tiểu bang, ví dụ California và West Virginia, gần đây đã giới thiệu “Máy chơi xổ số – Video Lottery Terminals ”- là những máy độc lập giống như “thiết bị đánh bạc điện tử – electronic gambling devices (EGD) độc lập hợp pháp, cung cấp các con bài và xổ số dạng video ở một số điểm dừng xe tải và nhà hàng, như ở Nam Carolina. Những máy chơi này gây tranh cãi đặc biệt. Các chuyên gia đánh bạc đã lưu ý rằng những máy như vậy có khả năng tạo ra sự phụ thuộc cho các con bạc và đã gọi chúng là “thuốc gây nghiện hạng nặng của cờ bạc – crack cocain ” (NGISC, 1999, tr.2-6).
Tác động đến hành vi của người tiêu dùng
Chi tiêu vào xổ số có tăng tiết kiệm và tăng tiêu thụ, hay chỉ đơn thuần là loại hình thức cờ bạc khác? Phân tích nhiều nguồn dữ liệu vi mô, Kearney thấy rằng khoản chi phí cho xổ số trong hộ gia đình hoàn toàn đến từ việc cắt giảm các chi phí không cho cờ bạc. Phân tích chính của tác giả xem xét dữ liệu chi tiêu hộ gia đình từ các hồ sơ khảo sát phỏng vấn từ năm 1982 đến 1998 thuộc Khảo sát chi tiêu ở người tiêu dùng (CEX) của Cục Thống kê Lao động (BLS). Trong thời gian này, 21 bang đã triển khai xổ số nhà nước. Phân tích thực nghiệm khai thác biến đổi giữa các tiểu bang trong thời gian mà xổ số được giới thiệu ở tiểu bang để so sánh thay đổi về chi tiêu hộ gia đình giữa các hộ ở tiểu bang có xổ số với các hộ ở các tiểu bang không có xổ số. Việc giới thiệu xổ số nhà nước có liên quan đến mức giảm trung bình 46 đô la mỗi tháng, hay 2,4% chi phí không cho cờ bạc của hộ gia đình. Con số này ngụ ý rằng chi tiêu hàng tháng của gia đình cho mỗi người lớn giảm 24 Đô la, so với doanh thu bán xổ số hàng tháng trung bình là 18 đô la cho mỗi người lớn ở các bang có xổ số.
Trong các hộ gia đình thuộc nhóm có thu nhập thấp nhất của mẫu phỏng vấn CEX, chi phí không cho cờ bạc giảm trung bình 2,5%, 3,1% khi xổ số nhà nước cung cấp các trò chơi ăn liền. Hơn nữa, dữ liệu cho thấy mức giảm đáng kể về mặt thống kê trong chi tiêu cho thức ăn tại nhà (giảm 2,8%) và thế chấp nhà, tiền thuê nhà và các hóa đơn khác (giảm 5,8%). Dữ liệu không cho biết hộ gia đình nào mua vé số, vì vậy những tác động trung bình này không tính đến thực tế là một phần lớn các hộ gia đình không tham gia đánh bạc xổ số. Đối với các hộ gia đình mua vé số, mức giảm chi phí không cho cờ bạc do đó phải lớn hơn đáng kể.
Để xác định xem sự thay đổi trong tiêu dùng gia đình từ chi tiêu không cho cờ bạc sang xổ số có làm tăng phúc lợi cho người tiêu dùng, chúng ta phải biết liệu người chơi xổ số có phải là những người chi tiêu có chừng mực, được thông tin hay không, hay liệu rằng, theo một số người khẳng định, các tiểu bang thực chất đang lợi dụng nhận thức sai lệch và lỗi lầm từ phía người tiêu dùng. Có bằng chứng cho thấy, bằng cách nào đó, nhìn chung, người tiêu dùng dường như đưa ra quyết định đúng đắn liên quan đến việc mua xổ số, nhưng theo những cách khác thì không.
Chơi bạc xổ số một phần là đầu tư, vì người tiêu dùng đang lựa chọn trên các tài sản rủi ro, và nó một phần là giải trí. Giả sử rằng các khía cạnh giải trí và tiền bạc của trò chơi xổ số có thể tách rời, hành vi tối đa hóa dự đoán rằng nhu cầu về các sản phẩm xổ số của người tiêu dùng sẽ phụ thuộc rõ ràng vào lợi nhuận dự kiến của nó, giữ các đặc tính của trò chơi liên tục. Để đánh giá liệu dự đoán này có tiếp tục hay không, Kearney phân tích dữ liệu về doanh số hàng tuần và đặc tính của 91 trò chơi xổ số từ năm 1992 đến năm 1998. Phân tích gợi ý rằng doanh số được thúc đẩy tốt bởi giá trị kỳ vọng của một canh bạc, kiểm soát những thời điểm đặt cược cao hơn trong cuộc chơi và các đặc tính không tạo ra của cải. Phát hiện này là thiết thực cho các thông số kỹ thuật thay thế, bao gồm kiểm soát các hiệu ứng cố định sản phẩm không được giám sát. Dữ liệu cũng tiết lộ rằng người tiêu dùng phản ứng với các tính năng trò chơi “giải trí” không tạo nên giàu có. Cùng với nhau, hai phát hiện này cho thấy rằng người tiêu dùng ít nhất là một phần – và nhiều khả năng là hoàn toàn – được thông tin, và có lí trí. Điều này phù hợp với những phát hiện này để khẳng định rằng người tiêu dùng tìm thấy tính giải trí bằng giá tiền của canh bạc (con số đã trừ đi giá trị kỳ vọng), và sau đó, trong khi họ đang đầu tư, họ là những người định giá được thông tin về các trò chơi.
Ngoài ra còn có bằng chứng về các quyết định đầu tư sai lầm từ phía con bạc xổ số nhà nước. Clotfelter và Cook (1993) và Terrell (1994) – cung cấp bằng chứng về “nguỵ biện của con bạc” trong số những người chơi xổ số. “Nguỵ biện của con bạc” là khái niệm sai lầm cho rằng lần rút thăm thứ hai sẽ nghịch đảo với lần rút đầu tiên. Ví dụ, nếu một máy đánh bạc không thắng trong một lúc nào đó, một số con bạc tin rằng đã “đến lúc” giành chiến thắng, hoặc ngược lại. Sử dụng dữ liệu từ số trò chơi tương ứng ở Maryland và New Jersey, họ thấy rằng số tiền đặt cược vào một số cụ thể giảm mạnh sau khi con số đã được rút và nó dần dần trở về mức cũ sau vài tháng.
Guryan và Kearney (2005) điều tra về việc liệu người tiêu dùng có phản ứng với vị trí của một vé số trúng thưởng hay không. Việc bán được vé số trúng thưởng tại một cửa hàng không ảnh hưởng đến khả năng nhà bán lẻ sẽ bán vé trúng thưởng trong tương lai. Do đó, nếu người tiêu dùng được thông tin đầy đủ coi vé xổ số là tài sản tài chính thuần túy thì doanh số bán hàng ở cấp cửa hàng sẽ không hưởng ứng theo một sự kiện như vậy. Tuy nhiên, dữ liệu bán hàng theo tuần từ toàn bộ các nhà bán lẻ xổ số ở bang Texas cho thấy rằng từ năm 2000 đến năm 2002 thì các nhà bán lẻ mà đã bán được một vé độc đắc sẽ trải qua đợt tăng doanh số tương đối của trò chơi thắng giải từ 12 đến 38% trong tuần tiếp theo, và rằng phản ứng cho doanh số bán hàng tăng theo giá trị của xổ số giải. Việc chia ngẫu nhiên các vé trúng thưởng cho các cửa hàng, có điều kiện về việc bán hàng đồng thời, cho phép mức tăng doanh số bán như vậy được hiểu là hệ quả liên quan đến việc có vé số thắng giải đã được bán ở đây. Trong phạm vi mà phản ứng cho lượng bán hàng phản ánh niềm tin rằng cửa hàng là “may mắn”, người tiêu dùng đang thể hiện một nhận thức phi lý về tính ngẫu nhiên. Nếu người mua xổ số nhận thức sai lầm về khả năng chiến thắng, hệ quả là họ phản ứng với một giá sai, và phải từ bỏ một tiêu dùng khác để đổi lấy những vé số. Hơn nữa, các tác giả thấy rằng sự gia tăng doanh số bán hàng mà nhà bán lẻ có vé số trúng giải đã trải qua tăng với tỷ lệ dân số địa phương bao gồm các học sinh trung học bỏ học, người lớn tuổi, và các hộ gia đình nhận trợ cấp công. Do đó, nếu phản ứng thực sự phản ánh một khái niệm sai lầm, các nhóm có hoàn cảnh kinh tế khó khăn có nhiều khả năng tán thành phản ứng này.
Hiệu quả tổng hợp của xổ số nhà nước đến phúc lợi của người tiêu dùng là mơ hồ. Đối với những người tiêu dùng lí tính, được thông tin – là những người thấy giá trị giải trí từ việc chơi xổ số, hoặc là những người được hưởng lợi từ việc tiếp cận cờ bạc dễ dàng, tiện ích của người tiêu dùng rõ ràng là tăng lên. Đối với những người phi lí trí hoặc hiểu lầm, phúc lợi có thể bị tổn hại.
(Còn nữa)
Dịch bởi Đào Thu Hiền