English: TOP 10 BUSINESS & HUMAN RIGHTS ISSUES
Ngày 10/12/2016 đánh dấu ngày nhân quyền quốc tế – Viện nhân quyền và kinh doanh (IHRB – Institute for human rights and business) công bố danh sách hàng năm lần thứ 8 về 10 vấn đề đầu tiên về nhân quyền và kinh doanh cho những năm tới.
Những thách thức về nhân quyền dự kiến trong năm 2017 phản ánh sự thay đổi rõ rệt trong định hướng kinh tế, chính trị, xã hội ở cấp độ toàn cầu. Nguy cơ xói mòn của hệ thống quốc tế duy trì bảo vệ nhân quyền và các nguyên tắc của pháp luật có thể tác động đến xã hội, kinh tế và các doanh nghiệp.
Các phong trào nhân quyền đối mặt với một tương lai khó khăn trong năm 2017 và điều này là trách nhiệm của tất cả các thành viên tham gia – xã hội dân sự, các chính phủ cũng như các doanh nghiệp – để đấu tranh cho các đề người dân quan tâm và giúp nhân quyền có liên quan đến cuộc sống hàng ngày của người dân.
1. BẤT BÌNH ĐẲNG: VAI TRÒ CỦA GIỚI KINH DOANH
Tại Mỹ, những người trong nhóm 1% đảm bảo hơn một nửa tất cả lượng tăng trưởng kể từ khủng hoảng tài chính năm 2008 – 2009.
Như Trung tâm kinh tế và quyền xã hội đề cập, sự bất bình đẳng đáng báo động thể hiện ở cả nguyên nhân và hậu quả của vi phạm nhân quyền: vi phạm nhân quyền không chỉ dẫn tới sự bất bình đẳng, làm xói mòn quyền lao động, tăng phân biệt đối xử và làm tăng các rào cản với việc tham gia chính trị, mà xã hội bất bình đẳng còn có thể tạo nên những thách thức với sự bảo vệ trên diện rộng về quyền con người.
Mối liên hệ giữa hoạt động kinh doanh và tăng bất bình đẳng có thể nhìn thấy trong việc trốn thuế thu nhập doanh nghiệp và ưu tiên lợi ích cổ đông, điều này dẫn đến phân phối lệch lạc về thu nhập và của cải, tạo khoảng cách giữa người lao động và cổ đông hưởng lợi –bao gồm những cá nhân giàu có nhất thế giới và những tập đoàn lớn nhất (bất bình đẳng theo chiều dọc – “vertical inequality”). Nền kinh tế “Tập trung tri thức” có thể làm trầm trọng thêm mức độ bất bình đẳng, khi mà các công việc sản xuất giảm và thị trường lao động nhìn thấy ranh giới tăng lên giữa công việc tay nghề cao, thu nhập cao và công việc dịch vụ tay nghề thấp, thu nhập thấp.
Và trong khi thế giới đang tiến gần hơn tới bình đẳng giới trong nhiều thập kỷ gần đây, phụ nữ vẫn ở thế bất lợi thế đáng kể so với nam giới qua một loạt các chỉ số xã hội, kinh tế và chính trị (bất bình đẳng theo chiều ngang – “horizontal inequality”. Ví dụ như, pháp luật và chính sách trên thế giới ngăn cấm phụ nữ tiếp cận một cách bình đẳng về vấn đề đất đai, tài sản và nhà cửa.
Khó khăn tương tự, sự phân biệt đối xử về kinh tế và xã hội dẫn đến việc có ít hơn và nghèo nàn hơn các sự lựa chọn cho phụ nữ, khiến họ dễ bị tổn thương, trong đó bao gồm cả nạn buôn bán người.
Một số quốc gia đã chỉ ra rằng các chính sách đúng đắn có thể khuyến khích các nền kinh tế sáng tạo và cạnh tranh trong khi thúc đẩy bình đẳng hơn.
Nhưng các thách thức là có thật – làm thế nào để tăng trưởng toàn diện hơn, kinh doanh có trách nhiệm hơn và việc phân bổ các nguồn lực công bằng hơn. Nói cách khác, làm thế nào để đảm bảo phân phối của cả và tiếp cận các nguồn lực nhiều hơn trên các nhóm xã hội, dù theo giới tính hoặc chủng tộc, tôn giáo, sắc tộc, hay theo cách khác, cũng như giữa người giàu nhất và nghèo nhất.
Những năm tới đây sẽ chứng kiến sự chú ý nhiều hơn đến việc làm thế nào để doanh nghiệp có thể làm việc với chính phủ và nhân tố khác để đóng vai trò tích cực hơn trong cuộc chiến chống bất bình đẳng và phát huy sự tôn trọng các quyền cơ bản. Hỗ trợ của doanh nghiệp trong mức lương cơ bản là một bước tiến quan trọng, cũng như các chiến lược sử dụng nhân lực địa phương, cải thiện giáo dục và đào tạo các kỹ năng kinh doanh, bao gồm các sáng kiến dành riêng để trao sức mạnh cho phụ nữ và mở rộng cơ hội học nghề.
2. Nền kinh tế tự do: gia tăng công việc làm trên Internet
Sự lan truyền Internet và sử dụng rộng rãi công nghệ thông tin cho phép chúng ta làm việc với số lượng người lớn theo một cách hợp tác, hoặc theo những gì được gọi là làm việc nhóm lớn. Tương tự như vậy, chúng ta ngày càng có thể đảm bảo dịch vụ khi cần bằng việc áp dụng những ứng dụng được quản lý bởi các hãng. Công cụ mới của nền kinh tế tự do đã làm cho quá trình kinh doanh hiệu quả hơn và giảm chi phí.
Xu hướng này đã tạo nên những thách thức cơ bản đến việc làm tự nhiên. Một số công ty đang có xu hướng chuyển những nhân viên cố định thành những nhân viên thời vụ hoặc đề xuất những hợp đồng không giờ – “zero hour contracts”. Điều này đảm bảo tính linh hoạt của người lao động – tuy nhiên cũng khiến họ dễ bị tổn thương. Thông thường, những người lao động không có sư bảo vệ từ các tổ chức của người lao động và không được coi là nhân viên của công ty sử dụng dịch vụ của họ, tại một số quốc gia, điều này có nghĩa là người lao động có thể ít có khả năng đươc tiếp cận với lợi ích quan trọng như bảo hiểm y tế.
Tiến bộ về công nghệ thường có giá trị trung lập và tác động của nền kinh tế tự do có thể giảm khoảng cách cho phụ nữ. Nhiều phụ nữ muốn linh hoạt hơn khi họ có con và một số khẳng định rằng nền kinh tế tự do đảm bảo cho họ có nhiều sự lựa chọn hơn. Nhưng những bằng chứng đang lẫn lộn. Trong khi, bề ngoài, việc tổ chức công việc như vậy có vẻ như hấp dẫn hơn đối với phụ nữ, các nhà kinh tế học lại có quan điểm khác nhau về các tác động lâu dài đối với phụ nữ trong lực lượng lao động. Điều này có những hàm ý về kinh tế chỉ ra rẳng phụ nữ tiếp tục có thu nhập thấp hơn nam giới. Thông thường, sự linh hoạt đi kèm với công việc có thu nhập thấp hơn. Những lo ngại về sự an toàn và chi phí ban đầu cao cũng cản trở phụ nữ tìm kiếm những công việc ổn định trong nền kinh tế tự do, như nghề lái xe.
Trong năm 2017, nhu cầu của người tiêu dùng và áp lực cạnh tranh có thể thúc đẩy các nền công nghiệp khác lặp lại mô hình này, tạo những thay đổi quan trọng của các nhân tố dựa vào các chức năng của từng cá nhân. Các công ty áp dụng công nghệ mới nên thực hiện các bước để đào tạo nhân viên và làm cho việc áp dụng công nghệ trở nên dễ dàng hơn cho lượng lớn hơn người tìm việc có những cơ hội. Sự can thiệp của chính phủ có thể trở nên cần thiết tại nơi có chứng cứ rõ ràng về những hợp đồng không đảm bảo quyền người lao động, làm tổn hại nhân quyền và hạn chế quyền đàm phán tập thể.
Thách thức đối với chính phủ các nước sẽ là duy trì quyền, nghĩa vụ trong khi thúc đẩy thay đổi công nghệ – điều có thể mang đến lợi ích cho các ngành công nghiệp và dịch vụ. Gần đây, một tòa án ở Anh đã phán quyết rằng những người lái xe- người đã ký hợp đồng với Uber là nhân viên của họ và công ty đang phản kháng phán quyết đó. Khi tranh cãi xuất hiện, vẫn còn nhiều việc phải làm để tìm ra sự đồng thuận – làm thế nào để mang lại lợi ích từ lợi thế công nghệ và bảo vệ các quyền trong nền kinh tế tự do.
3. Người tị nạn: đặt chiến lược kinh doanh
Ngày nay, có hơn 65 triệu người thất nghiệp trên thế giới, con số cao nhất trong lịch sử ghi nhận. Hơn 21 triệu người được ghi nhận là người tị nạn– họ vượt qua các biên giới quốc tế trong cuộc tìm kiếm sự an toàn.
Với người tị nạn, quyền làm việc là thiết yếu để giảm những tổn thương, tăng khả năng hồi phục và bảo vệ nhân phẩm. Công việc của họ có thể mang lại lợi ích cho hoat động kinh tế địa phương và sự phát triển của quốc gia. Phần lớn những người tị nạn làm trong khu vực phi chính thức, do quy định pháp luật và những hạn chế đối với quyền việc làm của họ.
Năm 2016 lần đầu tiên chứng kiến, phụ nữ và trẻ em gái chiếm hơn 1 nửa dân số tị nạn toàn cầu. Nơi được phép làm việc, người lao động nữ di cư đóng góp to lớn vào chuỗi giá trị toàn cầu, góp vào tỷ lệ lớn hơn trong thu nhập của họ dù thu nhập thấp hơn nam giới. Những phụ nữ lao động nhập cư thường dành nhiều tiền hơn cho giáo dục, sức khỏe và chăm sóc gia đình. Giá trị lao động của họ thường không được thừa nhận, không được trả công và không được đào tạo. Với nhiều phụ nữ nhập cư, những khó khăn về văn hóa có thể vượt qua trong công đồng của họ nếu họ được tham ra lực lượng lao động.
Khi bị ngăn cản tham gia lao động trong nền kinh tế thông thường do tình trạng tị nạn, sự dịch chuyển của người tị nạn không thể tránh khỏi để đến khu vực kinh tế không chính thức đã làm tăng đáng kể sự tổn thương với điều kiện làm việc bóc lột. Những cuộc điều tra cho thấy rằng mạng lưới buôn bán người đang trở nên tàn bạọ và hiệu quả trong việc khai thác và thu lợi nhuận từ các tổn thương của người di cư và tị nạn.
Năm 2017 hứa hẹn tiếp tục xu hướng phá vỡ kỷ lục về số lượng người tị nạn toàn cầu. Vai trò mới của hợp tác quốc gia và toàn cầu được yêu cầu, nơi nhiều thành viên chia sẻ trách nhiệm đảm bảo việc làm bền vững, chính sách thị trường lao động, đào tạo và giáo dục để hỗ trợ sinh kế bền vững và thu hút người tị nạn hiệu quả hơn về mặt xã hội và nguồn lực con người.
Đối với chính phủ các nước trước dòng người tị nạn, kêu gọi hành động là cần thiết với thành viên tham gia khu vực tư nhân để thực hiện các cam kết mới, đo lường được và có ý nghĩa đối với việc tuyển dụng, giáo dục và trao sức mạnh cho người tị nạn. Lập kế hoạch sáng tạo như các chương trình học nghề hay các khu công nghiệp mới, có thể vừa khai thác kỹ năng của người tị nạn vừa lấp những thiếu hụt trong các lĩnh vực và thị trường.
Doanh nghiệp cần thiết lập những chiến lược rõ ràng cho việc tuyển dụng người tị nạn. Điều này nên tập trung vào việc sử dụng tối đa các tài năng và kinh nghiệm mà người tị nạn mang lại, áp dụng những kinh nghiệm từ các cách giải pháp đươc thiết lập cho giới tính, dân tộc, khuyết tật và những nỗ lực rộng lớn hơn và tích cực tham gia vào việc hưởng ứng chính sách người tị nạn. Các doanh nghiệp cũng phải lường trước các trường hợp của việc tuyển dụng bất hợp pháp và thiết lập các phương pháp rõ ràng để giảm thiểu và khắc phục, bao gồm làm việc với các nhà cung cấp để đảm bảo thanh toán đúng tiền lương và phí.
4. Các hiệp định thương mại: đảm bảo nhân quyền trong kỷ nguyên mới
Năm 2017 và xa hơn sẽ thiết lập để chuyển hoá cách các hiệp định kinh tế, thương mại và đầu tư giữa các quốc gia được đàm phán. Những hiệp định thiếp lập các điều khoản cạnh tranh giữa các công ty, quy định về thuế, điều kiện làm việc, tiêu chuẩn môi trường, thủ tục khiếu nại và nhiều hơn nữa – các quốc gia thiết lập các quy tắc này không chỉ đối với các hoạt động kinh tế, mà còn đối với cách mọi người sẽ bị ảnh hưởng và đối xử.
Các thỏa thuận này sẽ được thực hiện trong thời gian phát triển chủ nghĩa dân tộc, chủ nghĩa dân túy và chính trị bảo hộ mậu dịch, có nghĩa là những lời lẽ đằng sau giao dịch thương mại được thiết lập để thay đổi một cách đáng kể. Một khả năng rất thực tế rằng những đàm phán sẽ được thúc đẩy bằng các nhận thức ngắn hạn về lợi ích của chính những quốc gia, chứ không phải được quyết định bởi tiềm năng của lợi ích chung lâu dài của sự cởi mở biên giới và chia sẻ cam kết để giải quyết những hậu quả xấu không lường trước được của thương mại tự do.
Có nguy cơ là việc bảo vệ người lao động và cộng đồng bị ảnh hưởng bởi những tác động của giao dịch thương mại, nguy cơ bị xói mòn nếu việc bảo vệ được coi là rào cản với công việc mới và hồi phục nền kinh tế. Những ảnh hưởng này diễn ra tại các phân đoạn khác nhau của dân số theo các cách khác nhau, bao gồm cả nam và nữ, điều này có nghĩa sự mất cân bằng giới tính có thể ảnh hưởng kết quả chính sách thương mại và phát triển kinh tế.
Những cảm giác bị bỏ lại đằng sau bởi sự thay đổi công nghệ và tự do thương mại nhận thấy sự thiếu vắng trầm trọng của cơ quan tôt chức, thiếu sự lên tiếng. Chương trình nghị sự về nhân quyền đã không đáp ứng một cách đầy đủ với sự xói mòn của xã hội và kinh tế, điều này đã làm cho hàng triệu người cảm thấy bất bình đẳng và bỏ lại đằng sau sự thay đổi nhanh chóng của nền kinh tế.
Năm 2017 cho thấy thời điểm quan trọng cho các phong trào nhân quyền. Tất cả những người bảo vệ nhân quyền phải suy nghĩ lại những giả định về cách họ tham gia và định hướng lại với thực tế, bao gồm cả trong lĩnh vực thương mại. Điều này phải bắt nguồn từ việc nhân quyền được truyền thông như thế nào – không chỉ giả định rằng trích dẫn các hiệp ước quốc tế là hiển nhiên hoặc đã là thuyết phục, mà làm cho chương trình nghị sự thuyết phục, dễ hiểu và tác động đến cuộc sống hàng ngày.
Những người đứng đầu doanh nghiệp có vai trò quan trọng để thực hiện, kể cả bằng việc kêu gọi một sân chơi bình đẳng, thực sự toàn cầu và dựa trên sự tôn trọng nhân quyền, cũng giống như họ duy trì cam kết về khí hậu. Công việc của Tổ chức lao động quốc tế về thuế, chính sách tài khóa để đạt các tầng bảo vệ xã hội chứng minh những gì giải quyết bất bình đẳng, quyền lợi kinh tế và xã hội có thể mang kết quả trong thực tế. Công cụ để phân tích ảnh hưởng tiềm năng về vấn đề giới của các giao dịch thương mại trước khi chúng được áp dụng là giai đoạn đầu tiên. Do đó, nỗ lực hơn nữa là điều bắt buộc và được bảo hộ bởi cộng đồng nhân quyền toàn bộ.
Nắm bắt thời điểm đột phá thông qua biện pháp này và các biện pháp khác, bao gồm chia sẻ thông tin, các khoản đầu tư lớn cho giáo dục, đào tạo và các bước tiếp theo để truyền bá những rủi ro của mở cửa kinh tế, có thể mang đến sự khác nhau trong việc đảm bảo sự tôn trọng nhân quyền và môi trường trong các điều khoản thương mại trong nhiều năm tới.
5. Chuỗi cung ứng: San bằng sân chơi
Chuỗi giá trị phức tạp là đặc trưng cơ bản của nền kinh tế toàn cầu, kết nối giữa các quốc gia phát triển và đang phát triển, nguyên liệu và thành phẩm, người sản xuất và người tiêu dùng. Tự do hóa và đổi mới công nghệ đã cho phép các quá trình sản xuất phải được chia nhỏ thành các thành phần nhỏ hơn và nhỏ hơn, thuê bên ngoài để tận dụng chi phí lao động rẻ nhất hoặc quy định có lợi nhất
Trong cuộc đua để giảm chi phí, các tiêu chuẩn về lao động và an toàn thường bị ép nhiều nhất. Ở các nước công nghiệp phát triển, một xu hướng giảm lao động thể hiện ở các hợp đồng ngắn hạn, hợp đồng không giờ trong nhiều lĩnh vực công nghiệp,đang trở thành tiêu chuẩn thực hành để duy trì sự sắp xếp nhân sự sơ sài nhất có thể. Đồng thời, sự dịch chuyển trong công việc có tay nghề thấp tiếp tục tăng. Người lao động thường xuyên phải trả phí môi giới để đảm bảo công việc của họ, đặt mình vào nguy cơ của gán nợ, cưỡng bức lao động và các hình thức khác của chế độ nô lệ thời hiện đại. Tổ chức lao động quốc tế ước tính 21 triệu người (một nửa là phụ nữ), đang bị mắc kẹt trong lao động cưỡng bức, trong đó 90% là trong chuỗi cung ứng. Phần lớn người lao động không có quyền truy cập vào bảo vệ công đoàn hoặc bồi thường pháp lý nếu lạm dụng xảy ra.
Trao sức mạnh cho phụ nữ vẫn phải là ưu tiên hàng đầu đối với chính phủ và các doanh nghiệp cũng như để cho những lợi ích của sự phát triển và thịnh vượng được chia sẻ một cách công bằng dọc theo chuỗi giá trị. Trên toàn cầu, phụ nữ có xu hướng ít được hội nhập vào các chuỗi giá trị hơn so với nam giới, do đó ít có khả năng tham gia vào lợi ích kinh tế. Việc thực hiện chương trình nghị sự phát triển bền vững (SDG5 – Sustainable Development Agency ) về bình đẳng giới và chương trình nghị sự phát triển bền vững (SDG8-Substainable Develpment Agency) về việc làm bền vững và tăng trưởng kinh tế là nền tảng để đảm bảo rằng phụ nữ và trẻ em gái được cải thiện trong việc tiếp cận với giáo dục và đào tạo, tài chính và dịch vụ, và cơ hội công việc có tay nghề cao cùng tiềm năng đưa ra quyết định có ý nghĩa.
Năm 2015, nhà lãnh đạo G7 cam kết sẽ “thúc đẩy các điều kiện làm việc tốt hơn bằng tăng tính minh bạch, thúc đẩy nhận biết và phòng ngừa rủi ro và tăng cường cơ chế khiếu nại. Cam kết cũng nhấn mạnh trách nhiệm tham gia của chính phủ và các doanh nghiệp để thúc đẩy chuỗi cung ứng bền vững và khuyến khích thực hiện tốt nhất.
Điều quan trọng là các cam kết để duy trì các tiêu chuẩn quốc tế trong chuỗi cung ứng toàn cầu được hồi sinh, bắt nguồn từ Hội nghị thượng đỉnh G20 năm 2017 dưới sự chủ tọa của Đức. Cải thiện bảo vệ nhân quyền nằm ở trung tâm của san lấp mặt bằng sân chơi dọc theo chuỗi giá trị toàn bộ.
6. Sự cho phép cung cấp thông tin: lĩnh vực của dữ liệu lớn
Nguyên tắc “tự nguyện, báo trước và được cung cấp thông tin” là nội dung quan trọng về thủ tục đã tồn tại từ lâu trong mối liên hệ giữa quyền đất đai và văn hóa của người dân bản địa. Nội dung này cùng với các lĩnh vực khai thác tương tự, kể từ khi mở rộng đến cộng đồng phải đối mặt với những áp lực tương tự và đang trở thành tâm điểm trong các lĩnh vực như dược phẩm, ví dụ trong phạm vi của các thử nghiệm lâm sàng hoặc trong công nghệ thông tin và truyền thông, như hộp thông tin chúng ta đánh dấu khi online.
Năm 2017 sẽ là năm xã hội phản ánh sâu sắc về sự cho phép cung cấp thông tin thực sự có ý nghĩa là gì. Các doanh nghiệp tại tất các các ngành công nghiệp có thể nhìn thấy nhu cầu ngày càng rõ ràng về quy trình đồng thuận và làm thế nào để giáo dục cho người tiêu dùng và khách hàng về những gì họ đang đồng ý trong thực tế khi họ chấp nhận các điều khoản.
Trong phạm vi của dữ liệu lớn, một số ý kiến đồng ý rằng sự cho phép không còn là khái niệm có ý nghĩa. Nhưng đối với việc từ bỏ sự cho phép cho đến bước tiến không thể tránh khỏi của những rủi ro của các thuật toán của một thế giới phân biệt ngầm và rõ ràng. Phương tiện truyền thông xã hội sẽ mở ra cho người sử dụng các hình thức mới của việc ức hiếp và lạm dụng dựa trên giới tính, sắc tộc hay xu hướng tình dục. Ví dụ, các thuật toán tìm kiếm có thể tạo ra kết quả hoàn toàn khác nhau cho các thuật ngữ tìm kiếm tương tự cho những người đàn ông trẻ tuổi và phụ nữ phụ thuộc vào việc tính từ “đen” được thêm vào.
Đến năm 2020, sẽ có 352.000.000.000.000.000.000.000 byte (hoặc 352 zettabyte) dữ liệu của thế giới. Trong năm 2009, toàn bộ World Wide Web được ước tính là khoảng 0,5 zettabyte thông tin. Người ta ước tính rằng nếu tất cả những lời nói đã từng được nói trong lịch sử nhân loại được số hoá, con số này sẽ vào khoảng 42 zettabyte.
Trong vòng ba năm tới, hơn 70% trong số zettabyte này sẽ nằm trong tay các công ty tư nhân, quản lý và trao đổi bằng máy móc tăng lên, cùng với sự can thiệp của con người ít đi. Điều này được nắm giữ bởi tất cả các các công ty, không chỉ trong lĩnh vực công nghệ thông tin, tham gia vào xã hội trong một cuộc thảo luận về những dữ liệu này là cho cái gì và được sử dụng như thế nào. Nếu không mọi người sẽ giả định có các hợp tác được đưa ra và sự cho phép của chính phủ làm những gì họ muốn với dữ liệu của họ, làm huỷ hoạc quyền riêng tư hơn nữa.
7. Tự do ngôn luận: trách nhiệm trong thời đại truyền thông xã hội
Các công ty truyền thông – cho dù là phát thanh, báo in, giải trí, hoặc trên Internet – đang ở ranh giới của các cuộc tranh luận về tự do ngôn luận. Một mặt, các công ty này là những người giữ gìn quyền của nhà báo và những người khác đối với quyền tự do ngôn luận và tiếp nhận thông tin. Mặt khác, họ có sức mạnh để kiềm chế lời nói của những người không đồng ý với các điều khoản tham gia, hoặc những người có quan điểm khác với chủ tờ báo hoặc biên tập viên.
Mức độ trách nhiệm của các công ty truyền thông về nhân quyền đã được thể hiện khác nhau tùy thuộc vào loại phương tiện truyền thông trong câu hỏi. Các công ty làm việc nhờ Internet thường ganh đua họ chỉ phân phối các thông tin được cung cấp bởi các hãng khác và không chịu trách nhiệm về nội dung thực tế.
Tuy nhiên, báo, tạp chí, các công ty truyền thông, chịu trách nhiệm về nội dung mà các công ty công bố và hầu hết các quốc gia đều có một số hình thức cơ quan quản lý để đảm bảo sự công bằng trong truyền thông bằng báo in và phát thanh. Các công ty truyền thông xã hội phức tạp hơn trong phương thức này.
Sự đa dạng ngày càng tăng của các công ty truyền thông xã hội hiện nay đã trở thành trung gian quan trọng trong các cuộc đối thoại công cộng, và thường là nguồn tin tức đầu tiên cho mọi người. Các công ty như vậy, như Facebook và Twitter, đang phát triển các tiêu chuẩn cộng đồng của chính mình, ngay cả khi các công ty cho rằng họ không phải chịu trách nhiệm cho những gì xuất hiện trên trang web của mình. Những lời chỉ trích đặt câu hỏi cho khẳng định này.
Việc phổ biến những lời nói thù ghét nhằm vào phụ nữ và dân tộc thiểu số là lĩnh vực được quan tâm đặc biệt của nhiều chính phủ và nhóm xã hội dân sự. Phụ nữ trở thành mục tiêu của việc lạm dụng của những kẻ bài bác phụ nữ và lời thù ghét và một số ít phụ nữ danh tiếng đã từ bỏ một số các trang mạng xã hội phổ biến.
Một vấn đề tồn tại ở tất cả các công ty truyền thông – truyền thống và xã hội – đó là quảng cáo, và năm 2017 có thể sẽ thấy áp lực lớn từ các nhóm vận động để gây ảnh hưởng đến các quyết định của phương tiện truyền thông thông qua quảng cáo của họ. Tiền lệ đã tồn tại trên thế giới như rút quảng cáo từ một tờ báo địa phương cho việc công bố tên của các cá nhân đồng tính nữ và đồng tính nam (điều này phơi bày cho cá nhân này sự bức hại hoặc bạo lực có thể xảy ra) hoặc rút chương trình khuyến mãi cho các nội dung gây hoang mang và thù ghét đối với người tị nạn và nhập cư. Nhưng áp lực như vậy có thể thực hiện cả hai chiều, và các chiến dịch vận động cộng đồng có thể đại diện cho tất cả các hệ tư tưởng, kể cả những người không quan tâm tới hoặc thù địch với nhân quyền.
Khi các hoạt động chính trị trên thế giới trở nên tranh cãi nhiều hơn, điều bắt buộc với công ty truyền thông là tham khảo ý kiến các chuyên gia nhân quyền và những người ủng hộ tự do ngôn luận để cho các công ty này hoạt động theo cách tôn trọng các tiêu chuẩn quốc tế.
8. CÔNG NHÂN XÂY DỰNG: xây dựng cơ sở hạ tầng thế giới
Xây dựng là một ngành tuyển dụng lớn – chiếm khoảng 7% lực lượng lao động toàn cầu. Ngành xây dựng bao gồm nhiều lao động có tay nghề và lao động phổ thông – những người thiết kế cơ sở hạ tầng và xây dựng, tạo nên ngành công nghiệp cần nhiều lao động. Công nhân nhập cư là đặc trưng tiêu biểu của ngành công nghiệp này trên toàn cầu bởi ngành xây dựng không thể được thuê ngoài và chuyển giao các dự án trong lợi ích chu kỳ từ các đóng góp ngắn hạn của người nhập cư. Mô hình kinh doanh có đặc điểm là thầu phụ ở tất cả các cấp và sắp xếp công việc thường không chính thức cho những người ở tầng thấp nhất – nơi công việc là khó khăn và lương thấp.
Công nhân xây dựng nhập cư phải đối mặt với một loạt các điều kiện bóc lột, bao gồm cả việc nộp lệ phí tuyển dụng để bảo đảm việc làm, giữ hộ chiếu, và muộn hoặc không được thanh toán tiền lương.
Những yếu tố này có thể tạo ra những tình huống gán nợ hoặc lao động cưỡng bức. Trên một số địa điểm xây dựng, điều kiện làm việc có nhiều nguy hiểm, việc cung cấp điều kiện an toàn và sức khỏe không đủ. Chỗ ở cho lao động xây dựng nhập cư cũng thường không đáp ứng được các tiêu chuẩn phù hợp.
Với lực lượng lao động chủ yếu là nam giới, tác động đối với phụ nữ có xu hướng khác. Lương thấp và điều kiện trong ngành xây dựng có thể có tác động nghiêm trọng đến cuộc sống gia đình phụ thuộc vào tiền lương hoặc tiền gửi về. Điều này làm ảnh hưởng khả năng của công nhân xây dựng để tự nâng lên thoát khỏi đói nghèo hoặc cho xã hội để đáp ứng những thách thức khác do các mục tiêu phát triển bền vững của Liên Hợp Quốc.
Các công ty tiến bộ trong lĩnh vực này đang bắt đầu hợp tác trên một số sáng kiến đầy hứa hẹn, có thể giúp chính thức hóa các tầng thấp hơn của ngành công nghiệp và ngăn chặn việc lợi dụng. Đây là một phần do có nhiều hơn phương tiện truyền thông và giám sát xã hội dân sự và pháp luật ở một số nước, như Luật nô lệ hiện đại tại Anh.
Những phát triển này bao gồm: một tiêu chuẩn đạo đức lao động cho các ngành công nghiệp bằng việc Thành lập Nghiên cứu Xây dựng; một sáng kiến mới dựa trên các chương trình đào tạo Cùng vững mạnh hơn – Stronger Together được dẫn dắt bởi Viện Giám Định Xây dựng; một hiệp hội toàn cầu của các công ty xây dựng và kỹ thuật; Xây dựng có trách nhiệm, điều sẽ tập trung vào phúc lợi của công nhân; và kiểm tra đồng bộ cùng với tổ chức công đoàn xung quanh về phát triển cơ sở hạ tầng World Cup tại Qatar, một ví dụ tích cực cho nước chủ nhà khác.
2017 sẽ cần phải nhìn thấy những nhà lãnh đạo xúc tác cho phần còn lại của ngành để tôn trọng và trao sức mạnh cho hàng triệu phụ nữ và nam giới xây dựng cơ sở hạ tầng của thế giới.
9. CƠ CHẾ CHỊU TRÁCH NHIỆM: đạt được tiến bộ
Năm 2016 đã thấy việc tiếp tục nỗ lực để tăng trách nhiệm pháp lý đối với việc tham gia của doanh nghiệp trong các vi phạm nhân quyền.
Ở tầm quốc tế, tháng 06/2016, Văn phòng Cao ủy Nhân quyền Liên Hiệp Quốc đưa ra những kết quả và gợi ý từ Dự án về trách nhiệm và giải quyết vấn đề nhân quyền – Accountability and Remedy Project. Báo cáo nhận được sự hoan nghênh từ Hội Đồng Nhân quyền Liên Hợp Quốc, bao gồm việc hướng dẫn cho các quốc gia để tăng cường hệ thống pháp luật trong nước đối với các trường hợp kinh doanh liên quan đến vi phạm nhân quyền.
Ngoài ra, Ủy ban Liên hợp quốc về Quyền Kinh tế, Xã hội và Văn hóa đã công bố một dự thảo luận chung về nghĩa vụ nhà nước theo Công ước Liên Hợp Quốc liên quan đến các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa và nhà nước có thể bị ảnh hưởng như thế nào bởi hoạt động kinh doanh.
Phiên họp thứ hai của nhóm công tác liên chính phủ nhiệm vụ phát triển một công cụ ràng buộc pháp lý được đề xuất về quyền kinh doanh và con người cũng đã diễn ra vào năm 2016. Trong năm 2017 nhóm làm việc sẽ bắt đầu đưa ra đề nghị của mình cho những gì một văn kiện quốc tế mới cần giới thiệu.
Sự cần thiết cho một công cụ ràng buộc về mặt pháp lý được cảm nhận đặc biệt mạnh mẽ bởi vì cơ chế hiện hành ở cấp quốc gia đã quá thường xuyên không được chuyển giao các biện pháp đến những người mà quyền lợi của họ bị ảnh hưởng một cách bất lợi. Cùng với đó, một số chuyên gia đang tìm ra một cơ chế trọng tài quốc tế – international arbitration mechanism – mà có thể cung cấp một diễn đàn – nơi các tranh chấp có thể được lắng nghe và giải quyết giữa các bên tại đó có đồng ý với trọng tài. Tại Pháp, các động thái đang được tiến hành để yêu cầu các công ty thiết lập một “nhiệm vụ của cảnh giác” về công ty mẹ đối với công ty con của họ, hệ thống hóa những gì do siêng năng có thể có ý nghĩa.
Tính hợp pháp của bất kỳ công cụ pháp lý trong tương lai sẽ phụ thuộc một phần vào cách phân tích giới như thế nào và sự tham gia của phụ nữ và nam giới bị ảnh hưởng là một phần của quá trình soạn thảo, cũng như cách quy định mới giải quyết bất bình đẳng trên cơ sở giới hiện có, bao gồm cả pháp luật, hạn chế tiếp cận bình đẳng trước pháp luật.
Các năm tiếp theo sẽ nhìn thấy sự quan tâm ngày càng tăng về hợp tác trách nhiệm ở tất cả các cấp và thông qua một loạt các cơ chế. Có nhiều khả năng tiếp tục là sự gia tăng ổn định về số lượng các trường hợp pháp luật ở cấp quốc gia, điều này sẽ đẩy tầm quan trọng của việc đảm bảo hành động toàn cầu để đảm bảo luật đủ mạnh và tiếp cận biện pháp hiệu quả cho các nạn nhân của hành vi vi phạm các quyền liên quan đến hoạt động kinh doanh.
10. Tự động hoá: Bảo vệ quyền người lao động
Áp lực thường xuyên và không ngừng về lợi nhuận gộp đang bắt các công ty phải tìm các cách mới để giảm chi phí. Từ hệ thống nhà chờ sân bay đến máy móc sản xuất phức tạp và rô bốt trong quá trình khai thác khoáng sản, các công ty đang tự động hóa càng nhiều các quy trình của họ để thay thế người lao động. Máy móc không có giờ nghỉ trưa, nghỉ ốm và các kỳ nghỉ, máy móc không có công đoàn và có thể làm việc trong thời gian dài.
Một hệ quả của tự động hóa là tăng tình trạng thất nghiệp trong nền kinh tế công nghiệp. Thế giới không có việc làm không còn là điều trong lý thuyết nữa. Ngày càng có nhiều công ty dịch vụ và sản xuất đang thay thế người lao động bằng máy móc, đặc biệt trong các công việc yêu cầu nghiệp vụ đơn giản, lặp lại và kỹ năng liên quan thấp. Mất việc sẽ lan rộng từ các nền kinh tế đang phát triển như Ấn Độ tới các cường quốc mới nổi như Trung Quốc.
Các nghiên cứu chỉ ra rẳng tự động hóa làm cuộc sống công việc phức tạp hơn với phụ nữ và ảnh hưởng giới tính có thể rất tồi tệ. Lao động nữ sẽ có nguy cơ mất việc, bởi tại các lĩnh vực – ở đó phụ nữ có thể dễ dàng có các công việc như trả lời điện thoại, ngân hàng, nhân viên thu tiền, người phân loại tại các siêu thị và sản xuất đèn – đặc biệt dễ bị tổn thương bởi sự tăng lên của robot và quá trình tự động hóa.
Quyết định riêng lẻ của các công ty không thể giải quyết được quy mô của hiện trạng được tạo ra bởi lợi thế công nghệ. Các giải pháp tổng hợp là cần thiết để đảm bảo rằng khi ‘biến đổi lớn’ diễn ra thì điều đó không để lại đằng sau một số lượng lớn người dân. Các công ty, chính phủ, các viện nghiên cứu và các tổ chức xã hội dân sự sẽ phải cộng tác trong những cách thức mới để đảm bảo rằng người lao động, những người có nghiệp vụ có thể được thực hiện ở nơi khác hoặc bằng máy sẽ được sắp xếp lại và đào tạo thêm các kỹ năng.
Thiều Thị Thuỳ Linh dịch