Nguồn lực kiều bào
Nguồn lực kiều bào – Kỳ 2: Thuốc đặc trị cho người Việt
Nguồn lực kiều bào – Kỳ 3: Tiên phong ngành kiểm thử phần mềm tại VN
Nguồn lực kiều bào – Kỳ 4: Nâng sản phẩm ‘made in VN’ lên tầm quốc tế
Nguồn lực kiều bào – Kỳ 5: Cuộc trao đổi… giống
Nguồn lực kiều bào – Kỳ 6: Ươm mầm công nghệ sinh học
Nguồn lực kiều bào – Kỳ 7: Quang điện tử ‘made in VN’
Nguồn lực kiều bào – Kỳ 8: Phát triển giống rau, hoa VN
Nguồn lực kiều bào – Kỳ 9: Cha đẻ khái niệm rau sạch
Nguồn lực kiều bào – Kỳ 10: Đưa ngành phần mềm VN vươn xa
***
Nguồn lực kiều bào
09:00 AM – 25/02/2015 N.Trần Tâm – Mai Phương – Nguyên Nga
TN – Nhiều doanh nhân Việt kiều đầu tư về VN, dòng kiều hối cũng ngày càng tăng mạnh là đã ghi nhận sự đóng góp to lớn của kiều bào đối với đất nước.

Chủ tịch nước Trương Tấn Sang gặp gỡ Việt kiều nhân dịp Tết Ất Mùi – Ảnh: D.Đ.Minh
Nếu như năm 1991 mới chỉ có 35 triệu USD kiều hối về VN nhưng tới năm 2014 con số này đã đạt mức kỷ lục 12 tỉ USD. VN lọt vào danh sách 10 quốc gia có lượng kiều hối lớn nhất toàn cầu theo xếp hạng của Ngân hàng Thế giới.
Tính chung từ 1991 đến nay, kiều hối về VN đạt hơn 92 tỉ USD, trở thành nguồn vốn lớn thứ hai sau nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), thậm chí còn cao hơn cả vốn ODA đã giải ngân. Năm nay, VN đặt mục tiêu thu hút từ 13 – 14 tỉ USD kiều hối. Trong đó, Mỹ là quốc gia có lượng kiều hối về VN nhiều nhất, chiếm hơn 50% kiều hối chính thức của cả nước, tiếp theo là Úc, Canada, Đức, Campuchia và Pháp. Chính sách mới về kiều hối thay đổi đã thu hút dòng vốn này về VN ngày càng nhiều hơn, như không hạn chế số lượng kiều hối, cho phép nhận và trả bằng ngoại tệ, không phải nộp thuế thu nhập cá nhân, dịch vụ ngân hàng thuận lợi…
Nhiều cơ hội
|
Vào thời điểm này, nhiều cơ hội đầu tư, kinh doanh ở VN cho các doanh nhân Việt kiều cũng đã được mở rộng ra so với trước. Hiện nay, số lượng dự án đăng ký đầu tư tại VN của kiều bào là hơn 2.000 dự án, với tổng vốn đầu tư 20 tỉ USD. Trong đó, TP.HCM là điểm đến rất quan trọng.
Tại buổi gặp gỡ với kiều bào trước Tết Ất Mùi, Chủ tịch UBND TP.HCM Lê Hoàng Quân cho biết năm 2014 đã có hơn 756.974 lượt kiều bào về nước qua cửa khẩu sân bay Tân Sơn Nhất, trên 88.100 lượt kiều bào tạm trú tại địa phương và 309 kiều bào đã trở về TP.HCM sinh sống. Riêng TP.HCM, trong năm 2014, kiều bào đã chuyển về TP.HCM hơn 5 tỉ USD.
Theo ông Trần Hòa Phương, Phó chủ nhiệm Ủy ban Về người VN ở nước ngoài TP.HCM, địa phương “rất coi trọng, tạo cơ chế, chính sách ưu đãi nhằm thu hút, phát huy nguồn lực trí thức người VN ở nước ngoài đóng góp cho sự nghiệp phát triển thành phố, đất nước”. Cụ thể, TP.HCM đã thực hiện một số chính sách về bố trí, sử dụng trí thức người VN ở nước ngoài đảm nhiệm chức vụ lãnh đạo các cơ quan nghiên cứu khoa học như: Viện Khoa học tính toán, Viện Nghiên cứu sinh học, Khu công nghệ cao, với chế độ làm việc bán thời gian và cấp kinh phí hỗ trợ đặc biệt để hoạt động. Hiện nay có hàng trăm chuyên gia, trí thức từ nhiều quốc gia hợp tác làm việc tại TP.HCM. Trong đó có 47 giáo sư và phó giáo sư, 50 tiến sĩ, 11 thạc sĩ.
Cũng theo ông Phương, hiện TP.HCM có trên 2.500 doanh nghiệp (DN) có vốn đầu tư của Việt kiều được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, với tổng vốn điều lệ hơn 35.000 tỉ đồng; 122 dự án đầu tư nước ngoài có vốn kiều bào với tổng vốn đầu tư trên 260 triệu USD. Có những DN có quy mô lớn, hoạt động hiệu quả như Công ty xử lý chất thải rắn Đa Phước (VWS), Tập đoàn Liên Thái Bình Dương (IPP), Tập đoàn Norfolk VN, Trung tâm Vimcom Plaza… Nhiều Việt kiều cũng tham gia làm cổ đông lớn của các ngân hàng Techcombank, VIBank, Công ty Eurowindow, Tập đoàn Masan…
“Vai trò cầu nối của Việt kiều trong hợp tác quốc tế cũng được phát huy, góp phần chuyển giao công nghệ, đầu tư phát triển ở các ngành hóa, vi sinh, in, quang dẫn, công nghệ thông tin. Nhiều DN nước ngoài ở thành phố do kiều bào trực tiếp hoặc gián tiếp làm cầu nối, dẫn dắt đầu tư về VN như các Tập đoàn Intel (ông Thân Trọng Phúc, Việt kiều Mỹ), Robert Bosch (ông Võ Quang Huệ, Việt kiều Đức), Fujitsu (ông Nguyễn Trí Dũng, Việt kiều Nhật). Riêng tại Khu công nghệ cao thành phố, hiện có 9 nhà đầu tư Việt kiều với tổng vốn đầu tư 113,3 triệu USD”, ông Phương cho biết thêm.
Cần có những quyết sách mạnh hơn
Tuy nhiên, chuyên gia tài chính Nguyễn Trí Hiếu (Việt kiều Mỹ) nhận xét lượng kiều hối chuyển về VN đạt 12 tỉ USD trong năm 2014 thực tế vẫn quá nhỏ bé so với tổng thu nhập của hơn 4,5 triệu kiều bào VN ở khắp nơi trên thế giới.
“Nếu tính bình quân thu nhập của một hộ gia đình (gồm 3 người) ở các nước khoảng 50.000 USD/năm thì số lượng kiều bào đó sẽ có tổng mức thu nhập khoảng 50% GDP của VN. Đó là chưa tính nguồn thu nhập do các DN hay nhiều người làm thêm, làm không chính thức thì con số đó sẽ còn cao hơn. Điều này cho thấy nguồn lực của kiều bào là rất lớn”, ông Hiếu nhấn mạnh. Bên cạnh đó, đóng góp của kiều bào ở các lĩnh vực khoa học, công nghệ về VN vẫn còn khá ít. “Để thu hút nhiều hơn nữa nguồn lực tài chính cũng như các đóng góp phi tài chính từ kiều bào, Chính phủ và Quốc hội VN cần có những quyết sách mạnh hơn. Ví dụ chính sách mở cửa cho kiều bào về mua nhà tại VN vừa được ban hành là thích hợp nhưng cần nhiều chính sách khác. Đó là tạo ra các trung tâm nghiên cứu khoa học, tạo ra những DN trong nước có khả năng tiếp nhận công nghệ và các chuyên gia từ các nước trở về sinh sống và làm việc với chế độ đãi ngộ phù hợp, bao gồm từ hạ tầng cơ sở làm việc, nơi ăn ở, đi lại…”, ông Hiếu nói thêm.
Bên cạnh kiều hối, vốn đầu tư, công nghệ, kỹ thuật cao và kinh nghiệm thâm niên làm việc tại các quốc gia phát triển chính là “nguồn lực mềm” quý giá mà đến nay, những nỗ lực của Chính phủ để thu hút nguồn lực này vẫn chưa đạt hiệu quả như kỳ vọng. Đó là nhận xét của ông Phan Thành, doanh nhân Việt kiều Canada, Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp người VN ở nước ngoài tại TP.HCM. Theo ông Thành, guồng máy hành chính tại VN còn quá cồng kềnh, nếu không nói là rườm rà phức tạp là một trong những nguyên nhân chính gây ra tình trạng này. “Muốn thu hút nguồn lực, VN cần tinh giản bộ máy hành chính gọn nhẹ hơn nữa. Làm thế nào để phát huy tối đa Nghị quyết 36 của Bộ Chính trị về công tác đối với người VN ở nước ngoài đến gần với kiều bào hơn chứ không nên để bị tắc tại các địa phương do chờ hướng dẫn”, ông Thành nói.
“Không thể cứ để họ than như vậy”
Theo chuyên gia kinh tế tài chính Bùi Kiến Thành (Việt kiều Mỹ) – từng là nhà tư vấn cho nhiều nhà đầu tư nước ngoài và nhà tư vấn Chính phủ về một số chính sách đầu tư, kiều hối chuyển về nước sẽ cao hơn nữa nếu chính sách thu hút đầu tư được rõ ràng và minh bạch hơn. Ông nói: “Gặp 10 nhà đầu tư Việt kiều thì hầu hết than bộ máy hành chính của chúng ta có vấn đề và ai cũng cho rằng tệ nạn nhũng nhiễu của cán bộ hành chính hơi quá đà. Than vãn này có từ hơn 10 hay 15 năm trước, đến nay vẫn còn thì chúng ta nên nhìn lại. Chính phủ cần phải tìm hiểu kỹ vì sao nhà đầu tư than như vậy để có thể giải quyết hiệu quả, không thể cứ để họ than như vậy trong hơn cả chục năm qua”.
TS Trần Đình Thiên, Viện trưởng Viện Kinh tế VN cũng nhấn mạnh: “VN cần đơn giản hóa thủ tục và đối xử với doanh nhân kiều bào bình đẳng với các đối tượng DN khác nếu họ muốn đầu tư về quê hương. Họ cần tự do trong kinh doanh hơn là những ưu đãi”. Theo ông Thiên, nguyên nhân chưa thu hút được nguồn lực kiều bào tương xứng chủ yếu do môi trường đầu tư chưa thật sự thông thoáng. Ngoài ra, rất cần tầm nhìn dài hạn và mạnh mẽ hơn trong vấn đề kiều bào.
“Nên xem nhà đầu tư Việt kiều là điểm kết nối giữa VN và các nhà đầu tư nước ngoài khác. Thông qua kiều bào để kết nối với thế giới tốt hơn. Như vậy mới thấy được lợi thế của họ rõ hơn. Chức năng của kiều bào là rất đặc biệt, họ đang ở trong chuỗi của thế giới nên sẽ giúp gắn kết VN với thế giới và ngược lại. Đặt vấn đề như vậy thì sẽ phát huy vai trò của tất cả kiều bào”, TS Thiên nhận định.
|
Cần có chính sách phù hợp để thu hút chuyên gia Cần đưa ra những điều cụ thể hơn, phù hợp để thu hút được các chuyên gia trong lĩnh vực công nghệ. Thứ nhất là cần có mức lương thỏa đáng cho các chuyên gia ở nước ngoài trở về VN làm việc. Đặc biệt ở các viện nghiên cứu, các DN nhà nước cần phải có quy chế này thì mới tiếp nhận và tuyển dụng được. Thứ hai là đối với một số chuyên gia đã thành công ở nước ngoài thì vấn đề thu nhập không phải quan trọng hàng đầu. Cái họ cần là được công nhận và giao cho quyền quyết định thuộc lĩnh vực phụ trách thì khi đó mới phát huy được hiệu quả và gia tăng khả năng đóng góp của họ. Nếu chỉ giữ họ ở vai trò cố vấn như nhiều trường hợp từ trước đến nay thì khó khuyến khích sự trở về của các chuyên gia. Ông Nguyễn Hữu Lệ Việt kiều Canada – Chủ tịch Hội đồng tư vấn Công ty phần mềm TMA Solutions Những chuyện nhỏ làm giảm nhiệt huyết đầu tư Sau gần 20 năm làm ăn tại quê nhà, tôi nhận thấy chính sách ưu đãi đầu tư của Chính phủ với DN Việt kiều chưa hiệu quả như mong muốn. Tôi đã mua nhà ở hơn 10 năm nhưng vẫn chưa được đứng tên sở hữu. Tôi có một tờ giấy chứng nhận gốc gác là người VN, dùng trong hồ sơ xin giấy phép đầu tư trước đó 15 năm, mang đi làm giấy tờ nhà nhưng không được chấp nhận. Ủy ban quận hướng dẫn tôi sang đại sứ quán VN tại Mỹ để xin giấy chứng nhận khác. Mất nửa tháng, tôi lại được hướng dẫn quay qua các cơ quan VN chứ đại sứ quán không chứng nhận. Những chuyện nhỏ như thế này liệu có làm giảm nhiệt huyết nhà đầu tư Việt kiều không? Tôi nói chắc chắn là giảm rất nhiều. Hành lang pháp lý còn nhiều bất cập Nhiều văn bản luật đôi khi vẫn không theo kịp những diễn biến thực tiễn phát triển của xã hội. Đây chính là vướng mắc khiến cho hoạt động của các DN gặp nhiều khó khăn, trở ngại. Chính sách đối với kiều bào vẫn chưa có sự nhất quán pháp lý, giữa chính sách và thực thi chính sách. Nguồn lực của kiều bào không chỉ dừng lại ở những con số kiều hối mà còn là nguồn lực tri thức. Có vẻ như tri thức vẫn ít được chú trọng. Đó chính là nguồn lực “chìm” mà chúng ta chưa biết tận dụng khai thác. Thu hút người trẻ trở về Tôi chỉ có một mong muốn giá như VN có một tổ chức hay cơ quan nào đó có năng lực thực sự để kêu gọi lực lượng trẻ du học sinh ở nước ngoài, người Việt trẻ ở nước ngoài về nước cống hiến nhiều hơn. Một lần tôi sang Mỹ tham dự buổi lễ ra trường của con trai, trường có trên 90% sinh viên tốt nghiệp là du học sinh từ Trung Quốc, Ấn Độ, Hàn Quốc. Tôi hỏi, tất cả đều cho biết sẽ trở về quê nhà làm việc để hưởng chính sách ưu đãi của nước họ mà không dễ gì họ tìm thấy tại Mỹ. |
N.Trần Tâm – Mai Phương – Nguyên Nga
***
Nguồn lực kiều bào – Kỳ 2: Thuốc đặc trị cho người Việt
Ép thuốc nhập giảm giá
Đó là khoảng năm 2003, thời điểm mà khái niệm công nghệ sinh học (CNSH) còn khá mới mẻ ở VN. Trước khi quyết định về VN đầu tư, TS Hồ Nhân đã có một phòng thí nghiệm tại Mỹ và làm tư vấn cho nhiều hãng dược lớn của Mỹ, Ấn Độ. “Càng tìm hiểu, tôi thấy người dân mình bị ung thư nhiều quá, tập trung nhiều là người nghèo, trong khi giá thuốc trị bệnh lại quá cao. Điều đáng nói, nhiều nhà khoa học gốc Việt giữ những vị trí quản lý cao cấp trong các hãng dược này. Điều này chứng tỏ người Việt hoàn toàn có khả năng làm những viên thuốc đặc trị chứ không phải thuốc ngoại mới tốt. Tôi chỉ nghĩ đơn giản là trở về để làm ra được sản phẩm tốt, giá rẻ cho người Việt mình”, TS Hồ Nhân cho biết.
Sau hai năm, phòng nghiên cứu và nhà máy của Nanogen đã cho ra đời nhiều dược phẩm ứng dụng CNSH để chữa trị viêm gan siêu vi B, C, suy thận, xơ gan và tăng bạch cầu trung tính hỗ trợ bệnh nhân ung thư đang hóa trị, xạ trị. TS Hồ Nhân nói: “Chúng tôi đã nghiên cứu, phát triển và ứng dụng thành công công nghệ DNA/tái tổ hợp protein, một tiến bộ của CNSH, để sản xuất ra dược liệu và thành phẩm thuốc tiêm đặc trị đầu tiên và duy nhất tại VN hiện nay”.
Sau hơn 10 năm, trong khuôn viên đất rộng hơn 15.000 m2 trong Khu công nghệ cao TP.HCM, Nanogen đã đầu tư xây dựng hệ thống phòng nghiên cứu, nhà xưởng với số tiền trên 50 triệu USD. Các dược phẩm đặc trị viêm gan B và C của Nanogen hiện chiếm trên 80% thị phần trong nước. Đặc biệt, giá bán chỉ bằng một nửa hoặc 1/3 so với sản phẩm tương đương được nhập khẩu. Điều đáng nói là đã “ép” các công ty dược phẩm nước ngoài phải liên tục giảm giá thuốc có tác dụng tương đương của mình. Ví dụ: Thuốc Feronsure điều trị viêm gan siêu vi B và C hàng nhập có giá 600.000 đồng/liều, Nanogen bán 200.000 đồng/3 liều trong một tuần. Sản phẩm cùng chức năng cao cấp có giá 1,5 triệu đồng/liều/tuần thì với thuốc nhập, người bệnh phải bỏ ra 4,5 triệu đồng/liều/tuần và nay còn giảm thấp hơn nữa”.
“Tôi chỉ nghĩ đơn giản, làm khoa học giỏi trước hết phải biết biến kết quả nghiên cứu thành sản phẩm thực tế phục vụ con người”, ông Nhân nói.
Xuất khẩu thuốc
Nanogen còn nghiên cứu các công nghệ về gien và chuyển giao thành công cho các hãng dược, mỹ phẩm nước ngoài. Đơn cử, đã chuyển giao thành công công nghệ gien chống lão hóa cho một hãng mỹ phẩm nổi tiếng của Pháp, gien làm thuốc trị tiểu đường cho một hãng dược Ấn Độ, gien làm thuốc chữa trị tim mạch cho một hãng dược Thụy Sĩ. Nanogen cũng chủ trương mua bản quyền một số nghiên cứu tại các nước phát triển để sản xuất thuốc.
TS Hồ Nhân kể, năm 2010 có một hãng dược phẩm Mỹ đặt vấn đề mua đứt công nghệ của Nanogen hoặc mua 30% cổ phần với giá 30 triệu USD. Tuy nhiên, ông đã từ chối. Ông bộc bạch: “Ngày trước, tôi đã quyết định trở về làm thuốc chữa bệnh cho người dân mình, tại sao tôi lại bán đi? Nếu ai cũng có suy nghĩ công ty lớn thì bán lấy lời thì rốt cuộc đất nước VN sẽ đi về đâu?”.
Hiện các sản phẩm chữa viêm gan siêu vi B và C, suy thận và xơ gan của Nanogen đã xuất sang các thị trường: Mỹ, Ấn Độ, Myanmar, Bangladesh, Pakistan… với số lượng lớn. Ngoài ra, Nanogen cũng đã nghiên cứu làm thuốc điều trị ung thư. Theo chuyên gia CNSH Mỹ, TS Nguyễn Đức Thái, tư vấn CNSH cho một số trường viện tại VN, nghiên cứu kháng thể đơn dòng (mAb) của Nanogen đã được Cục Quản lý dược và thực phẩm Mỹ phê duyệt và có khả năng ảnh hưởng rất lớn trong điều trị ung thư tại VN. “Thuốc sinh học sẽ là tương lai của ngành dược, bởi ưu điểm của nó là ít phản ứng phụ, nhưng giúp điều trị đúng bệnh”, TS Hồ Nhân khẳng định.
Nguyên Nga
***
Nguồn lực kiều bào – Kỳ 3: Tiên phong ngành kiểm thử phần mềm tại VN
|
LogiGear VN là bộ phận của Tập đoàn LogiGear có trụ sở chính tại Mỹ. Tập đoàn LogiGear đã nhận nhiều giải thưởng lớn như giải thưởng Top 5.000 công ty tư nhân có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất nước Mỹ năm 2014 do tạp chí Inc. (Mỹ) bình chọn và xếp hạng; là một trong Top 50 công ty tư nhân phát triển nhanh nhất tại Thung lũng Silicon năm 2014, sau khi đạt doanh thu 15,2 triệu USD trong năm 2013 và mức tăng trưởng 42% trong 3 năm 2011 – 2013.
|
Mai Phương
Nguồn lực kiều bào – Kỳ 4: Nâng sản phẩm ‘made in VN’ lên tầm quốc tế
Từ cơ duyên tham gia làm phiên dịch cho đoàn y bác sĩ VN sang Nhật trao đổi nghiệp vụ trước khi thực hiện mổ tách song sinh Việt – Đức tại Bệnh viện Từ Dũ năm 1988, ông Trần Ngọc Phúc – nhà sáng lập, Tổng giám đốc Công ty sản xuất thiết bị y tế Metran (Nhật) – đã đi đến quyết định về nước đầu tư xây dựng Nhà máy sản xuất thiết bị y tế tại Bình Dương.
Người được Nhật hoàng đặt hàng
Năm 2014, trên khuôn viên đất rộng hơn 27.500 m2 đất tại Khu công nghiệp Mỹ Phước 2, Bình Dương, nhà máy có diện tích trên 2.000 m2 đất của Công ty Metran Vitec, công ty con của Metran tại Nhật, đã được hoàn thành. Chủ đầu tư – ông Trần Ngọc Phúc – cho biết tổng đầu tư nhà máy trong giai đoạn đầu trên 1 triệu USD.
|
Sản phẩm để đưa tên tuổi Trần Ngọc Phúc nổi tiếng tại Nhật và trong cộng đồng y khoa thế giới chính chiếc máy hô hấp nhân tạo dao động cao tần số (HFO) dành cho trẻ sinh thiếu tháng do ông chế tạo. Đây là một sản phẩm kỹ thuật cao, hiện đã có gần 1.500 chiếc HFO được trang bị tại 90% bệnh viện, phòng chăm sóc trẻ sơ sinh trên toàn nước Nhật. Hàng trăm chiếc đã được xuất khẩu đến 12 quốc gia trên thế giới. Tại VN, chiếc máy cao tần số đầu tiên được Metran tặng cho Bệnh viện Nhi Hà Nội và đến nay, nhiều bệnh viện phụ sản lớn trong nước cũng đã đầu tư chiếc máy này. Giá bán cho mỗi chiếc HFO từ 400 – 800 triệu đồng.
Ông Phúc cho biết Công ty sản xuất thiết bị y tế Metran do ông sáng lập ở Nhật thuộc nhóm 300 doanh nghiệp (DN) vừa và nhỏ có tiềm năng phát triển mạnh và được Chính phủ Nhật từng hỗ trợ khoảng 1 triệu USD để đầu tư nghiên cứu cách đây 7 năm. Metran tại Nhật cũng là DN duy nhất được Nhật hoàng chọn ghé thăm trong năm 2012. “Gặp được ngài đã là ước mơ của toàn dân Nhật. Với tôi, đây là một kỷ niệm đáng nhớ của đời mình”, ông Phúc nói. Lúc đó, ông Phúc cũng đã được Nhật hoàng đặt hàng nghiên cứu chiếc máy “trợ thở” cho những người lớn tuổi bị hội chứng suy giảm hô hấp cấp để Nhật hoàng có thể dùng làm quà tặng cho các hoàng tộc khác trên thế giới.
Hàng Việt sẽ không thua hàng Nhật
Nhà máy của Metran tại VN hiện chuyên tập trung nghiên cứu và sản xuất một số thiết bị dùng cho chiếc máy HFO. Ngoài ra, công ty đang có 3 bộ phận nghiên cứu và sản xuất 3 dòng sản phẩm chính được dùng cho bệnh viện (các loại máy hô hấp nhân tạo), dùng tại nhà và sản phẩm dùng một lần rồi bỏ (ống thở). Theo ông Phúc, nhiệm vụ của bộ phận nghiên cứu tại Nhật mà trong tương lai gần là tại VN là làm thế nào để cho ra giá thành sản phẩm thấp nhất ở mức có thể để sản phẩm được phổ biến rộng rãi hơn. Được biết, các sản phẩm của công ty được sản xuất tại VN đã được Bộ Y tế Nhật Bản đồng ý cho nhập khẩu vào thị trường Nhật để hoàn tất công đoạn cuối xuất khẩu sang các thị trường khác. Theo nhận xét của các chuyên gia ngành y khoa, đạt được điều này là không dễ chút nào, bởi Nhật là quốc gia nổi tiếng khắt khe trong kiểm định các thiết bị liên quan đến sức khỏe, mạng sống con người.
Đã hơn 40 năm xa quê, ông Phúc nói đã có kế hoạch sau khi về hưu sẽ chuyển toàn bộ sự nghiệp của mình cho hai người con trai, để tiếp tục đưa giấc mơ của ông về một sản phẩm “made in VN” không thua kém “made in Japan” trên thương trường quốc tế. Với ông, chiếc máy HFO của Nhà máy Metran Vitec tại VN đã vượt qua những cánh cửa kiểm soát khắt khe nhất để đĩnh đạc bước vào nước Nhật là bước đầu minh chứng cho giấc mơ có thật của ông.
Nguyên Nga
***
Nguồn lực kiều bào – Kỳ 5: Cuộc trao đổi… giống
Ông Phương quê gốc tại Long Xuyên (An Giang), xuất cảnh sang Canada từ thập niên 1960. Sau đó ông sang Úc để theo học chuyên ngành nông nghiệp và trở thành giảng viên chuyên hướng dẫn sinh viên thực nghiệm của Trường đại học Tây Sydney.
Đổi cây Việt lấy giống Úc
Năm 1976, ông Phương đưa gia đình sang Úc định cư. Thời điểm này, chính phủ Úc muốn đẩy mạnh nghiên cứu xu hướng ẩm thực châu Á thông qua người Việt, nên ông được các tổ chức nghiên cứu “trải thảm đỏ” mời về tham gia dự án. Công việc chính của nhóm nghiên cứu là biến đổi giống cam “Cara Cara” (hay còn gọi là cam Cara) có nguồn gốc từ Venezuela, được đưa sang Mỹ, sau đó du nhập vào Úc. Mục tiêu đặt ra là giống cam sẽ tích hợp được những tính trội như vị cà rốt, cà chua và cam; sống được ở nhiều môi trường khắc nghiệt khác nhau; năng suất và tuổi thọ vượt nhiều lần giống cam thường…
Sau rất nhiều lần thử nghiệm thất bại, nhóm nghiên cứu cũng tạo ra được giống cam Cara tích hợp đủ những ưu điểm như mong muốn. Ngoài ra, các khoáng chất trong giống cam này còn chứa lyconene, một chất kháng ung thư và chất carotenoid đóng vai trò chủ chốt trong kiêng ăn cân đối. Theo đánh giá của các chuyên gia ngành nông nghiệp, Cara Cara là giống cam duy nhất trên thế giới có ruột màu đỏ thẫm chứa hàm lượng lycopene và carotenoid rất cao, vừa giúp cân đối dinh dưỡng trong chế độ ăn kiêng và hạn chế ung thư, như một loại thực phẩm chức năng.
Kể từ đó, ông Phương ấp ủ tâm nguyện sẽ mang giống cam này về trồng tại quê hương VN. Tuy nhiên, giống cam Cara lại là thành quả của cả nhóm nghiên cứu ở Úc. Nếu muốn mang về phải được sự đồng ý của cả nhóm. Hơn nữa, nó chưa có hạt giống nên buộc phải mang cả cây giống về. Giữa lúc chưa tìm ra được giải pháp vẹn toàn, nhóm đang rất muốn thu thập được cây thông hai lá dẹt và cây trà mi tại VN để nghiên cứu. Ông Phương liền thỏa thuận với những giáo sư trong nhóm, nếu ông mang về cho họ gien của cây thông hai lá dẹt và cây trà mi thì đổi lại ông được phép mang cam Cara về nhân giống và trồng ở VN.
Cuộc thương lượng thành công nhanh chóng. Ông Phương trở về VN, suốt một tháng ròng rã trèo đèo lội suối khắp dãy Trường Sơn và các tỉnh phía bắc, ông Phương tìm được hai loại cây cần tìm và mang ngay về Úc để nhận lại giống cam Cara quý giá.
Cung cấp giống miễn phíSau khi nghỉ hưu, năm 2005, ông Phương trở về VN theo đúng tâm nguyện, để lại vợ, hai con trai cùng nông trại ở Úc. Ông tìm đến vùng núi Voi ở H.Đức Trọng và chọn nơi này để trồng thử nghiệm giống cam trên.
Tìm được địa điểm nhưng việc đền bù giải tỏa đất cho người dân tộc thiểu số ở đây thật không đơn giản. Sau rất nhiều lần đàm phán, kết quả, ông Phương chấp nhận đền bù cho đồng bào 20 triệu đồng/ha đất hoang phế. Ông Phương thuê vài chục công nhân để cùng với mình phát quang, xây dựng nông trại, hồ trữ nước trên núi, nhân giống…
Ở đây ông không sử dụng thuốc trừ sâu, phân hóa học mà dùng phân hữu cơ và lấy một ống nhỏ chứa thức ăn thu hút rầy và những côn trùng có hại để bẫy chúng nhằm tránh phải xịt thuốc. Hơn 1 năm ròng cho công tác chuẩn bị, những cây cam Cara lớn dần, ra những trái đầu mùa. Và khi bổ quả cam đầu tiên… quả nhiên cam có ruột đỏ tươi, mọng nước, có vị của cà chua, cà rốt lẫn cam. Để tránh rủi “được mùa mất giá”, ông Phương tiếp tục nghiên cứu và cam Cara trở thành giống cây ra trái quanh năm. Sau 3 năm trồng, cam Cara sẽ cho trái bói, tùy thổ nhưỡng mà năng suất có thể dao động từ 30 – 50 tấn quả/ha/năm.
Cũng từ đó, ông Phương đi khắp dải núi Voi khảo sát, ai có đất rộng ông khuyến khích trồng cam. “Tôi cung cấp giống miễn phí, hướng dẫn người dân ở đây trồng và chăm sóc cam Cara tận nơi. Những người tôi cho giống phần nhiều là đồng bào dân tộc thiểu số kinh tế còn nghèo”, ông Phương chia sẻ.
Lam Ngọc – Quang Thuần
***
Nguồn lực kiều bào – Kỳ 6: Ươm mầm công nghệ sinh học
|
Năm 2004, Trung tâm công nghệ sinh học (CNSH) TP.HCM được thành lập theo chủ trương của TP là xây dựng một cơ sở nghiên cứu ứng dụng CNSH hiện đại tại Trại giống cây trồng Đồng Tiến với diện tích 23 ha, quy mô đầu tư dự kiến ban đầu khoảng 100 triệu USD. Đây là một chủ trương chiến lược trong việc đẩy mạnh phát triển và ứng dụng khoa học công nghệ. Việc bổ nhiệm một nhà khoa học Việt kiều làm Phó giám đốc Trung tâm CNSH thể hiện sự cởi mở và thu hút chất xám của TP.HCM.
Mai Vọng
***
Nguồn lực kiều bào – Kỳ 7: Quang điện tử ‘made in VN’
Công ty đã tạo ra những sản phẩm công nghệ cao lần đầu tiên có mặt tại VN. Đây cũng là doanh nghiệp đầu tiên tại VN sản xuất vật liệu quang điện tử.
Khai thác trí tuệ của người Việt
Ông cho rằng VN có nguồn lao động dồi dào nhưng chưa được phát triển đúng mức. Trong khi đó nhu cầu phát triển công nghệ hóa học, nhu cầu ngành in ở VN rất lớn, nhưng tất cả vẫn còn thiếu công nghệ. Chính vì lẽ đó, ông đã quyết định mang những bằng sáng chế công nghệ cao về bản in offset đạt được ở Canada, có giá trị hàng ngàn tỉ đồng, trở về quê hương. Những dự án mà ông đang điều hành cũng đã ứng dụng, lần lượt cung ứng ra thị trường những sản phẩm có giá trị cao và lần đầu tiên có mặt tại VN như các loại hóa chất tinh khiết dùng trong lĩnh vực tráng phủ, in ấn, chống giả – bảo mật. Đặc biệt, các loại màng mỏng chất dẻo đơn lớp, đa lớp dùng trong lĩnh vực gói bao bì thực phẩm, dược phẩm, y tế; màng phát sáng, màng phim trang trí theo công nghệ quang điện tử là sản phẩm được độc quyền sản xuất bởi Tập đoàn Mỹ Lan. Trên 70% sản phẩm của tập đoàn dành để xuất khẩu và còn lại cung ứng cho thị trường trong nước.
|
“Thực tế chứng minh rằng, không có quốc gia nào là cường quốc kinh tế mà không có nền kinh tế công nghệ cao. Trí tuệ của người VN không thua kém với bất kỳ nước nào nếu chúng ta biết sử dụng và phát triển đúng cách”, TS Nguyễn Thanh Mỹ nhấn mạnh.
Không ngại thách thức
Trong suốt quá trình đầu tư và phát triển, vấn đề về nguồn nhân lực chất lượng cao luôn đặt ra thách thức không nhỏ đối với nhiều doanh nghiệp. TS Nguyễn Thanh Mỹ và Tập đoàn Mỹ Lan đã tìm cách khắc phục khó khăn đó vì ông khẳng định con người luôn là yếu tố quan trọng nhất để phát triển doanh nghiệp. Ông liên kết với Trường ĐH Trà Vinh thành lập Khoa Hóa học ứng dụng do chính ông làm trưởng khoa, đứng lớp giảng dạy; thiết lập một chương trình vừa học vừa làm cho các sinh viên và đào tạo thành công nhiều kỹ sư hóa cho tập đoàn; đồng thời đưa ra các chính sách tuyển dụng và đãi ngộ của tập đoàn để thu hút được nguồn lao động chất lượng cao từ khắp các tỉnh, thành.
Sau hơn 10 năm xây dựng và phát triển Tập đoàn Mỹ Lan, thành công mà vị doanh nhân Việt kiều này tâm đắc nhất chính là phát triển được đội ngũ lao động trẻ trở thành những nhân viên có chuyên môn cao, tác phong công nghiệp vững vàng và nhất là có ý thức chia sẻ, giúp đỡ cộng đồng xung quanh. Bên cạnh đó, ông đã tích cực hỗ trợ tỉnh Trà Vinh kêu gọi, thu hút nguồn vốn nước ngoài đầu tư vào tỉnh. Thành công mang đậm dấu ấn của ông là khi Khu công nghiệp Long Đức và Khu kinh tế Định An đã và đang trở thành điểm đến hấp dẫn của các nhà đầu tư trong và ngoài nước.
Mai Phương
***
Nguồn lực kiều bào – Kỳ 8: Phát triển giống rau, hoa VN
|
Thời gian đầu về nước, TS Vọng làm một số dự án và xây dựng quy trình sản xuất VietGAP cho Bộ NN-PTNT, đồng thời giảng dạy tại Đại học Nông nghiệp Hà Nội. “Năm 2010, mình chọn Công ty CP giống cây trồng miền Nam vì nó là công ty có nghiên cứu về giống trong khi nhiều công ty chỉ đơn thuần là kinh doanh – nhập giống của nước ngoài về bán”, ông tâm sự. Hiện TS Vọng là thành viên HĐQT, Giám đốc Trung tâm giống rau hoa – SSC của công ty.
Nguồn lực kiều bào – Kỳ 9: Cha đẻ khái niệm rau sạch
Ông là Nguyễn Bá Hùng, một tiến sĩ sinh học, khoảng 25 năm trước đã mang công nghệ trồng rau theo công nghệ hiện đại từ Pháp về phổ biến tại Đà Lạt. Cái tên “Hùng rau sạch” như một nhãn hiệu gắn liền bởi ông là người đầu tiên mang công nghệ trồng rau sạch trên vỉ xốp, trong nhà kính ở nước ngoài về hướng dẫn cho nhà nông tại Đà Lạt từ những năm cuối thập niên 80 thế kỷ trước.
Mấy năm sau, TS Hùng cũng là người tiên phong nghiên cứu, gây giống và sản xuất những giống cây củ tí hon cao cấp có giá trị dinh dưỡng cao. Ông lập Công ty Organik, mở trang trại rộng hơn 4 ha tại Trại Mát (Đà Lạt) để tập trung nghiên cứu và trồng các loại rau củ tí hon này.
Tiên phong đưa giống rau củ tí hon về VN
Trang trại của Organik nằm lọt giữa một thung lũng, bọc xung quanh là những con suối và triền đồi. Vị trí này, theo ông Hùng, giúp đảm bảo cho việc trồng rau sạch vì không bị lây nhiễm bệnh, hóa chất, thuốc trừ sâu, thuốc tăng trưởng từ các trang trại trồng hoa màu khác. Organik hiện đang nghiên cứu và trồng luân phiên khoảng 150 chủng loại rau, củ, hoa, quả, đa số là giống cây lạ và tí hon. Riêng rau mùi, Organik có gần 20 loại với màu sắc, mùi vị, hình thù khác nhau, giá bán không dưới 80.000 đồng/kg. Rau xà lách, có hơn 15 giống đa màu, thu hoạch khoảng 1 tháng. Các loại củ cải, củ dền, cà rốt… tí hon thì trồng khảng 2 – 3 tháng là thu hoạch.
Sau thu hoạch, rau được đưa vào máy rửa có xử lý ozon, rồi chuyển vào máy sấy ly tâm và chuyển vào phòng riêng để đóng bao bì, gắn mã vạch chuyển đến khách hàng. Còn rau cắt sẵn, làm sạch ăn liền cũng được đóng gói và có thể giữ trong môi trường mát một tuần mà không mất dưỡng chất. Ông Hùng khẳng định tuyệt đối không dùng hóa chất để bảo quản mà chỉ đơn giản dùng kỹ thuật cho rau “ngủ”, tăng carbon giảm ô xy hạn chế quá trình trao đổi chất sau thu hoạch mà các nước tiên tiến đã áp dụng. Minh chứng cho điều này, ông cho lấy gói rau hữu cơ đã được xử lý đóng gói, cắt bao bì và bày lên đĩa mời khách “ăn liền”.
Hướng dẫn chúng tôi tham quan trại, đưa tay chỉ hồ nước đang được máy bơm nước vào để lắng qua đêm mới tưới cây, ông Hùng nói để thực hiện thành công mô hình rau sạch cao cấp này, không chỉ có tiền, đầu tư tốt nhà kính thôi, mà phải đầu tư mạnh trong nghiên cứu di truyền giống để có giống phù hợp với khí hậu và thổ nhưỡng của vùng.
Tham vọng trồng rau chữa bệnh
Thực tế, mấy năm trước đây, đã có không ít nhà đầu tư nông nghiệp từ Úc, Nhật, mang công nghệ trồng rau hiện đại đến Đà Lạt đầu tư trồng rau sạch, nhưng thất bại. Nhiều giống rau quả người Úc mang sang đây không chịu nổi mưa dầm ở vùng đất cao nguyên này. “Những giống rau của họ chỉ có thể chịu lượng mưa 700 – 800 mm/năm, trong khi ở đây là 1.500 mm/năm. Theo tôi, nghiên cứu di truyền giống trước khi trồng tại một vùng thổ nhưỡng cho dù được coi là thuận lợi như Đà Lạt là cực kỳ quan trọng. Đầu tư nông nghiệp ở vùng có khí hậu thổ nhưỡng khắc nghiệt, nhà đầu tư phải chuẩn bị tinh thần thất bại, đừng nghĩ trồng đâu trúng đó”, ông cho biết.
Ông Hùng cũng cho biết, đang khảo nghiệm và đưa vào trồng một số loại rau có công dụng chữa bệnh. Chẳng hạn, nhiều loại rau có sắc tố đỏ, chứa nhiều hàm lượng a xít, phù hợp cho người có thể trạng kém, ăn kiêng. Một trong những phương pháp tốt nhất là dùng thân cây chuối để làm giá thể trồng rau, tạo nên sản phẩm “xà lách chuối” chuyên phục vụ những người bị bệnh ung thư hoặc các bệnh nan y khác.
Hiện Organik đã có chi nhánh tại Q.2 (TP.HCM). Mỗi năm, công ty sản xuất và cung cấp cho thị trường khoảng 70 tấn rau sạch, chủ yếu phục vụ cho một số khách sạn, resort 4 – 5 sao tại TP.HCM, Hà Nội, Phan Thiết, Nha Trang… mấy trăm gia đình người nước ngoài sống tại VN và xuất sang Singapore. Sản phẩm xuất khẩu chính của Organik là rau xà lách đã qua xử lý, đóng gói tại trang trại bằng công nghệ hiện đại nhập từ Pháp. Trong năm 2015 này, TS Hùng cho biết, sẽ mở rộng trang trại thêm gần 1 ha nữa. “Tham vọng của chúng tôi là phải tăng năng suất lên đến 300 tấn/năm mới phục vụ đủ nhu cầu thị trường” – ông Hùng nói.
Nguyên Nga
***
Nguồn lực kiều bào – Kỳ 10: Đưa ngành phần mềm VN vươn xa
|
Liên tục từ năm 2012 – 2014, các tổ chức quốc tế đã nhìn nhận VN nằm trong Top 10 nước gia công phần mềm hấp dẫn nhất khu vực châu Á – Thái Bình Dương. TS Nguyễn Hữu Lệ cho biết có thể kỳ vọng VN sẽ là điểm đến chỉ đứng sau Ấn Độ – cường quốc về gia công phần mềm trên thế giới.
|
Mai Phương








