Con đường bền vững cho bán đảo Cà Mau – 2 kỳ

Con đường bền vững cho bán đảo Cà Mau – Kỳ 1: Cỏ năn tượng có là giải pháp cho xung đột mặn ngọt?

Trung Chánh – Thứ Tư, 1/03/2023

LTS: Không gian phát triển sinh thái vùng ĐBSCL đã được thể hiện khá rõ trong quy hoạch thuỷ lợi, quy hoạch vùng ĐBSCL, được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Đây cũng là cơ sở cho các địa phương tổ chức lại quy hoạch để thích ứng với tình trạng biến đổi khí hậu. Trong quá trình thực hiện Nghị quyết số 120 của Chính phủ về phát triển bền vững vùng ĐBSCL thích ứng biến đổi khí hậu, bán đảo Cà Mau cùng với ĐBSCL đã có những thay đổi phù hợp, thích ứng có sự kiểm soát nhằm đã tạo ra những giá trị sản phẩm nông nghiệp cạnh tranh. Từ kết quả thực tế cho thấy, vẫn cần có những cơ chế mang tính đặc thù và những ý tưởng sáng tạo, đột phá nhằm thúc đẩy nguồn lực đầu tư mang tính liên kết vùng, nhằm giảm thiểu những tác động tiêu cực, thúc đẩy sản xuất nông nghiệp bền vững và sinh kế lâu dài của người dân.

Kinh tế Sài Gòn OnlineCỏ năn tượng hay còn gọi là hến biển (có tên khoa học là Scirpus Littoralis Schrab) là hướng đi mới cho vùng Bán đảo Cà Mau. Loại cây này không chỉ “hoá giải” xung đột lợi ích mặn ngọt vốn diễn ra từ nhiều năm qua, mà còn hỗ trợ tốt hơn cho sự phát triển kinh tế dựa vào lợi thế hiện có của cư dân địa phương.

Mô hình đưa cây Năn tượng xuống ruộng được triển khai đến huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng. Ảnh: Trung Chánh

Bán đảo Cà Mau là vùng đất cực Nam của đất nước, rộng khoảng 1,6 triệu héc ta gồm thành phố Cần Thơ và các tỉnh Hậu Giang, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau và một phần của Kiên Giang. Vấn đề mặn ngọt của vùng đất này tồn tại hơn 100 năm qua và câu chuyện đó đã gây ra nhiều tranh cãi. “Không phải sau giải phóng, thời Pháp cũng đã tranh cãi chuyện dẫn ngọt kênh Quản Lộ Phụng Hiệp từ Hậu Giang (kênh Quản Lộ Phụng Hiệp được đào từ năm 1905, bắt đầu từ Ngã Bảy, Hậu Giang đến rạch Quản Lộ, tỉnh Cà Mau – PV) xuống Cà Mau rồi”, TS Dương Văn Ni, Chuyên gia về đa dạng sinh học ở Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), Chủ tịch Quỹ hỗ trợ nghiên cứu và bảo tồn ĐBSCL (MCF) nhấn mạnh.

Khu vực ven biển của vùng bán đảo Cà Mau đã từng diễn ra cảnh người dân “đốt đuốt” đắp đê ngăn mặn, rồi cũng người dân phát động phong trào “tắt đuốt” phá đê dẫn nước mặn vào. Lúc bấy giờ, chính quyền địa phương ở Cà Mau đã phải huy động lực lượng để ngăn cản người dân cổ xuý chuyện phá đê phát triển thủy sản.

“Lúc đó, tôi và ông bí thư của một ấp ở huyện Cái Nước (tỉnh Cà Mau) đã cùng ngồi khóc trong một đêm trăng khi suy nghĩ tại sao dân tộc mình tối ngày cứ xung đột, hết xung đột chiến tranh đến xung đột chuyện sử dụng đất, sử dụng nước”, ông Dương Văn Ni nhớ lại.

Xung đột “mặn ngọt”

Khoảng năm 1984, giống lúa cao sản của Viện nghiên cứu lúa quốc tế- IRRI (The International Rice Research Institute) là IR42 được mang đến trồng thử nghiệm từ khu vực Giá Rai (vùng 2 Minh Hải ngày xưa) dài xuống các huyện phía bên dưới. Trong khi đó, đời sống của người dân nơi đây vào thời điểm lúc bấy giờ phần lớn dựa vào nguồn lợi thuỷ sản tự nhiên (nước mặn), chứ không nuôi như bây giờ. “Trước đây, khi có gió chướng (nước lớn), người dân chỉ việc đào một con đường dẫn nước vào ruộng, thì những con tôm post (tôm ấu trùng) và cá kèo dưới sông theo nước đi vào rất nhiều”, ông Ni nhớ lại và nói rằng, sau 2-3 tháng từ khi đưa nước vào ruộng, nguồn lợi thuỷ sản tự nhiên này trở thành nguồn thu nhập chính của người dân.

Khi cây lúa cao sản IR42 xuất hiện cũng đồng nghĩa nhu cầu sử dụng nước ngọt ở đây nhiều hơn và điều này đã dẫn đến xung đột với những người sống dựa vào nguồn lợi thuỷ sản nước mặn. Tuy nhiên, lúc bấy giờ xung đột chưa gay gắt vì khái thác dựa vào con giống tự nhiên nên phải theo mùa, tức khoảng tháng 2-3 hết giống, người nông dân tự động nghỉ, cho nên, đến tháng 4-5 gần như không còn tôm nữa (đã thu hoạch). “Lúc đó, nông dân chỉ chờ mưa xuống rửa mặn đồng ruộng để cấy lúa”, ông cho biết.

Đến khoảng năm 1987-1988, khi con tôm sú bắt đầu đưa vào nuôi và phát triển mạnh vào những năm 1990, thì vụ tôm được kéo dài đến tháng 5-6, thậm chí đến tháng 7-8 (thay vì kết thúc vào tháng 4-5 như khi khai thác tôm tự nhiên – PV), tức nước mặn được người nuôi tôm giữ lâu hơn trên đồng dẫn đến xung đột mặn ngọt ngày càng gay gắt hơn và lặp đi lặp lại trong nhiều năm.

Khi mang một cái mới vào vùng đất này, nhưng không dựa vào quy luật tự nhiên của nó, mà kỳ vọng vào công trình có thể kiểm soát theo ý muốn của con người nên hàng loạt công trình đã được đầu tư để kiểm soát mặn ngọt. Thế nhưng, cuối cùng điều này chỉ làm trầm trọng hơn mâu thuẫn mặn ngọt trong cộng đồng, giữa người quen sống với ưu thế nước mặn với người quen sống với ưu thế nước ngọt.

Không còn theo quy luật tự nhiên

Sau nhiều năm tranh cãi, đến năm 2017, khi Nghị quyết 120 về phát triển bền vững ĐBSCL thích ứng với biến đổi khí hậu của Chính phủ ra đời cũng là lần đầu tiên khái niệm “thuận thiên” được đưa vào chính sách. Khi đó, trong văn bản đã công nhận nước ngọt, mặn, lợ, lũ đều là tài nguyên.

Rất khó mới “dịch chuyển” được nhận thức mới vào trong chính sách, nhưng lại thiếu người lăn xả vào tự nhiên để tìm cái mới thay thế cái hiện có. Chính vì vậy, từ năm 2018, tức sau khi được nghỉ hưu ở Trường Đại học Cần Thơ, ông Ni đã quyết định “rời khỏi diễn đàn” tranh cãi mặn ngọt để ra soát lại hiện trạng vùng bán đảo Cà Mau.

Kết quả, theo ông vùng đất này đã thay đổi hoàn toàn. “Dù đã gắn bó với vùng này 30-40 năm, nhưng tôi đánh giá gần như nó đã thay đổi hoàn toàn và thay đổi rất cục bộ”, ông nhấn mạnh và giải thích, tức có những vùng ông nghĩ theo quy luật tự nhiên là mặn 100% và những vùng là ngọt 100%, nhưng thực tế diễn ra không đúng như vậy, thậm chí mặn ngọt đã “da beo” đan xen lẫn nhau trong cùng một vùng.

Lý do của vấn đề nêu trên là vì con người đã phân cách môi trường trở thành những vùng manh mún trong thời gian dài. “Môi trường bây giờ nó không còn liên thông nên không còn theo quy luật tự nhiên nữa, thành thử nếu chúng ta tiếp tục “mổ xẻ” vấn đề mặn ngọt thì càng đẩy xã hội vào xung đột tiếp tục thôi”, ông nhấn mạnh.

Trước những thay đổi như nêu trên hay nói cách khác nơi sống của người dân ở vùng này đã thay đổi, rõ ràng cần phải có một giải pháp phù hợp mới để 10-20 năm sau sẽ giúp môi trường, đời sống người dân tốt hơn. Đặt biệt, người dân có thể thích nghi với sự thay đổi đó và cố gắng sáng tạo…

TS Dương Văn Ni thí nghiệm cho thấy cây Năn tượng có khả năng bơm oxi giúp thuỷ sản phát triển tốt. Ảnh: Trung Chánh

Cỏ Năn tượng: thúc đẩy môi trường xanh cho tôm cua

Cách đây khoảng bốn tháng, Hội Phụ nữ huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng đã tham quan mô hình sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ từ nguyên liệu là cây cỏ Năn tượng của Hợp tác xã MCF Mỹ Quới (xã Mỹ Quới, thị xã Ngã Năm, tỉnh Sóc Trăng). Từ đó, dưới sự hỗ trợ của Quỹ MCF và Hội Phụ nữ huyện Mỹ Xuyên, cây Năn tượng đã được đưa từ Cà Mau về trồng thử nghiệm ở vùng đất này để thay thế mô hình lúa- tôm vốn trong tình trạng “hấp hối” (trước đó mô hình trồng cây Năn tượng được triển khai ở Cà Mau, Bạc Liêu và Kiên Giang – PV).

Hồi tưởng lại những ngày đầu tiên đưa cây cỏ này xuống ruộng, ông  Trần Văn Mật (ngụ xã Hòa Tú 1, huyện Mỹ Xuyên) kể với KTSG Online rằng thời gian qua, việc trồng lúa ở đây đã không còn hiệu quả vì đất đã nhiễm mặn, trong khi đó tôm nuôi thường xuyên xảy ra dịch bệnh, khiến cuộc sống gia đình ông bấp bênh.

Chính vì vậy, ông Trần Văn Mật đã nquyết định chuyển đổi sang loại cây trồng mới này. “Mỗi công (1.000 m2) cây Năn tượng cho năng suất khoảng 1 tấn nguyên liệu khô. Như vậy, với giá bán 6.000 đồng/kg, thì thu nhập cũng được 6 triệu đồng, tương đương 12 triệu đồng/2 lần thu hoạch/công mỗi năm”, ông cho biết và nói rằng, nếu trừ chi phí một nửa, thì còn lãi 6 triệu đồng/công/năm, cao hơn làm lúa rất nhiều”, ông tính toán.

Tuy nhiên, theo tìm hiểu của KTSG Online, quá trình sản xuất cây Năn tượng ngoại trừ việc bỏ công thu hoạch, thì nông dân hoàn toàn không sử dụng phân thuốc, cho nên, chi phí đầu tư sẽ thấp hơn rất nhiều so với con số ước tính ban đầu. Như vậy, có thể lợi nhuận sẽ cao hơn con số nêu trên khá nhiều.

Ông Trần Văn Mật bên ruộng trồng cây Năn tượng. Ảnh: Trung Chánh

Chủ tịch Quỹ MCF Dương Văn Ni cho biết, cây Năn tượng phát triển tốt nhất trong điều kiện độ mặn môi trường từ 5-10 phần ngàn (điều kiện môi trường vốn phù hợp cho tôm cua phát triển – PV) và có khả năng sống được khi độ mặn lên đến 15-20 phần ngàn, nhưng khi đó cây không phát triển được.

Đối với ruộng trồng mới (trồng khoảng cách cây với cây là 1 mét), sau 4 tháng có thể thu hoạch phục vụ nhu cầu làm đồ thủ công mỹ nghệ, tuy nhiên, ở đợt thứ hai, chỉ sau 2,5-3 tháng là có thể thu hoạch tiếp. “Cứ như vậy thu hoạch quanh năm, nếu như ruộng không bị quá mặn”, ông nói.

Một điểm nổi bật của cây Năn tượng là cơ chế bơm oxi qua các mô rỗng của thân cây xuống rễ giúp ôxi hoá lớp đất bên dưới, khiến rong tảo không phát triển được trong khi tôm cua lại phát triển tốt. “Chính vì vậy, khi trồng cây Năn tượng kết hợp nuôi tôm cua quảng canh, thì không chỉ giúp những loại thuỷ sản này có đủ oxi tự nhiên để phát triển, mà ngó non của cây còn là nguồn thức ăn quan trọng để tôm cua phát triển tốt hơn”, ông nhấn mạnh và cho rằng, phát triển loại cây trồng này còn giúp “trả lại” mảng xanh trên đồng, thu hút chim cò quay lại nhiều hơn.

Cụ thể, qua các nghiên cứu cho thấy, trồng cây Năn tượng kết hợp nuôi tôm giúp làm giảm độ rủi ro dịch bệnh 30% so với mô hình bình thường. Đặc đặc, nếu bình thường tôm nuôi 3 tháng đạt 40 con/kg, thì với mô hình này có thể đạt cỡ tôm 30 con/kg hay nói cách khác tôm lớn nhanh hơn.

Tuy nhiên, để thuận lợi cho tôm cua phát triển khi nuôi kết hợp với trồng cây Năn tượng, thì khuyến cáo được đưa ra là nên điều chỉnh mật độ loại cây trồng này chiếm khoảng 40-50% diện tích, tức chừa lại khoảng 50-60% khoảng trống mặt nước.

***

Con đường bền vững cho vùng bán đảo Cà Mau – Kỳ cuối: Khi cây cỏ vùng nhiễm mặn đến được thị trường Mỹ

Trung Chánh

Thứ Năm, 2/03/2023

Kinh tế Sài Gòn OnlineNguyên liệu từ cỏ năn tượng hiện tại được người dân vùng bán đảo Cà Mau sử dụng cho việc sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ, giúp “chinh phục” thành công thị trường Úc, Mỹ. Đặc biệt, qua hoạt động này không chỉ giúp cải thiện thu nhập cho người dân, mà còn giúp lan tỏa tinh thần vượt khó và nghĩa tình cộng đồng.

Cây năn tượng được sử dụng làm hàng thủ công mỹ nghệ. Ảnh: Trung Chánh

Song song với việc hình thành và nhân rộng mô hình trồng cây năn tượng để khôi phục môi trường cho vùng Bán bán đảo Cà Mau, thì đầu ra của loại sản phẩm này cũng được chú trọng tìm kiếm trong nhiều năm qua…

Làm hàng thủ công mỹ nghệ… “xuất ngoại”

Theo TS Dương Văn Ni, Chuyên gia về đa dạng sinh học ở Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), Chủ tịch Quỹ hỗ trợ nghiên cứu và bảo tồn ĐBSCL (MCF), từ năm 2005, nguyên liệu của cây năn tượng được giới thiệu đến rất nhiều công ty, xí nghiệp nhằm tìm kiếm thị trường, nhưng không đơn vị nào chịu “gật đầu”.

“Thị trường không chấp nhận vì nhiều yếu tố: (1) có thể tạo ra rủi ro cho doanh nghiệp khi họ chuyển đổi sang nguyên liệu khác; (2) người ta chưa biết nguyên liệu này như thế nào, thành thử không chấp nhận; (3) doanh nghiệp đang làm tốt với nguyên liệu lục bình, thì không có lý do gì tìm nguyên liệu khác để thay thế”, ông Ni giải thích.

Tuy nhiên, trong đợt hạn mặn lịch sử vào mùa khô năm 2015-2016, làm hàng loạt con sông ở ĐBSCL bị xâm nhập mặn, khiến nguồn nguyên liệu phục vụ sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ là lục bình bị khan hiếm (lục bình chết do bị xâm nhập mặn – PV), cho nên, nhiều doanh nghiệp bắt đầu chú ý đến cây năn tượng. “Nhờ đó, cộng với sự hỗ trợ của những người làm nghiên cứu đã giúp doanh nghiệp thấy được tiềm năng của nguồn nguyên liệu này”, ông nhấn mạnh.

Được biết, Công ty cổ phần Vietnam Housewares (Bình Dương) là đơn vị đã tiên phong quyết định mạo hiểm chọn nguyên liệu từ cây năn tượng để sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ và đã xuất khẩu thành công sang thị trường Mỹ, Úc.

Nếu Vietnam Housewares giữ vai trò xuất khẩu trực tiếp, thì Công ty cổ phần MCF Việt Nam có vai trò là trung tâm điều phối sản xuất và cung ứng nguồn hàng theo yêu cầu (cả về mẫu mã và kế hoạch số lượng đơn hàng – PV) được Vietnam Housewares “vạch ra”.

Trao đổi với KTSG Online, ông Nguyễn Văn Hai, Chủ tịch HĐQT Công ty cổ phần MCF Việt Nam cho biết, đơn vị này hiện quản lý và điều phối trên 20 tổ hợp tác và hai hợp tác xã sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ từ nguyên liệu cây năn tượng.

Theo đó, cơ chế vận hành hoạt động sản xuất là MCF Việt Nam sẽ cung cấp mẫu mã và nguồn nguyên liệu đến các tổ hợp tác và hợp tác xã trực tiếp quản lý. Từ đây, các hợp tác xã và tổ hợp tác sẽ điều phối sản xuất tiếp xuống bên dưới và thành phẩm sau đó được thu gom chuyển ngược lại trung tâm điều phối (Công ty cổ phần MCF Việt Nam).

“Tại đây, nguồn hàng được vận chuyển về Vietnam Housewares ở Bình Dương để xử lý những khâu cuối cùng (kiểm tra, dán nhãn, đóng gói – PV) và xuất khẩu 100% đi Mỹ, Úc”, ông Hai cho biết.

Theo ông Hai, dù MCF Việt Nam mới được thành lập vào ngày 20-2-2021, nhưng lượng hàng được đơn vị này cung cấp cho Vietnam Housewares để xuất khẩu trong năm 2022 đã đạt đến con số khoảng 30.000-40.000 sản phẩm/tháng, tức đã có hàng trăm nghìn sản phẩm hàng thủ công mỹ nghệ sản xuất từ nguyên liệu cây năn tượng đã xuất đi Mỹ, Úc trong năm ngoái.

Ông Hai cho biết, định hướng sắp tới sẽ đi theo con đường “xây dựng đơn hàng đi theo nhu cầu của khách hàng”, tức quy mô thị trường mở rộng tới đâu, thì đơn vị này sẽ điều phối tổ chức sản xuất gia tăng đến đó. “Tất cả các bước đi mình phải thật cẩn trọng, chứ không phải tự phát để rồi có thể sẽ khó khăn”, ông cho biết.

Tình làng nghĩa xóm thêm bền chặt qua những buổi lao động tổ nhóm. Ảnh: Trung Chánh

“Kết nối” tình làng nghĩa xóm

Tuy nhiên, để đưa thành công cây năn tượng sang Mỹ, Úc, thì việc xây dựng các tổ nhóm sản xuất đã được các đơn vị, tổ chức liên quan chú trọng triển khai từ trước. “Cách làm của chúng tôi là hỗ trợ cho đoàn thể địa phương gầy dựng ra những tổ nhóm sản xuất”, ông Ni nhấn mạnh và cho rằng, khi các tổ nhóm lớn mạnh, có thể tự chủ được về mặt tài chính, có đủ năng lực quản lý sẽ cho thành lập hợp tác xã thuộc hệ thống điều phối của MCF Việt Nam. “Khi hợp tác xã đủ mạnh chúng tôi sẽ tách ra cho hình thành doanh nghiệp, có khả năng đàm phán ký kết hợp đồng. Lộ trình chúng tôi đi là vậy”, ông nhấn mạnh.

Điều quan trọng hơn, đó là khi đẩy mạnh chương trình phát triển làng nghề đan lát hàng thủ công mỹ nghệ gắn với nguyên liệu từ cây năn tượng đã giúp kết nối tình đoàn kết của người dân trong xóm làng tốt hơn. “Từ việc người dân hình thành các tổ nhóm sản xuất để cùng ngồi làm việc với nhau, rồi người này chỉ dạy người kia, người kia chỉ dạy người nọ đã trở thành “chất xúc tác” giúp gắn kết người dân lại với nhau”, ông Ni nhấn mạnh.

Từ cách làm như vậy, bà Trần Hồng Ni, Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng cho biết, đến thời điểm hiện tại, tức sau khoảng 4 tháng kể từ ngày tổ hợp tác sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ đầu tiên của địa phương được thành lập, đã nhân rộng lên 27 tổ với khoảng 200 thợ đan lát.

“Hằng tuần, 27 tổ này sản xuất được 700 bộ (2 cái/bộ) sản phẩm”, bà thông tin và cho rằng, mô hình này không chỉ “kéo” người dân lại gần với nhau hơn, mà còn tạo thêm thu nhập lúc nhàn rỗi cho chị em phụ nữ. “Chị em nào đan giỏi có thể thu nhập được khoảng 500.000 đồng/tuần”, bà Trần Hồng Ni chia sẻ.

Chị em phụ nữ học nghề đan lát từ hợp tác xã MCF Mỹ Quới để nhân rộng mô hình về địa phương. Ảnh: Trung Chánh

Ông Nguyễn Văn Toàn, Giám đốc Hợp tác xã MCF Mỹ Quới (thị xã Ngã Năm, tỉnh Sóc Trăng) cho biết, đơn vị này đang có kế hoạch liên kết với chi hội phụ nữ ở các xã của những huyện thuộc tỉnh Bạc Liêu (nằm tiếp giáp tỉnh Sóc Trăng – PV) để liên kết mở rộng sản xuất.

“Chính vì vậy, chúng tôi đã mở các lớp dạy nghề đan lát cho chi hội trưởng chi hội phụ nữ ở các xã, ấp. Từ đó, họ sẽ tập trung dạy lại cho người dân có nhu cầu ở địa phương, tiến đến hình thành các tổ nhóm sản xuất”, ông Toàn cho biết và nói rằng, quá trình này, hợp tác xã sẽ hỗ trợ thêm đội kỹ thuật cũng như đem mẫu mã xuống triển khai cho người dân.

Với cách thức triển khai như trên, ông Toàn kỳ vọng, mô hình đưa cây năn tượng xuống ruộng kết hợp phục vụ nguyên liệu phát triển hàng thủ công mỹ nghệ sẽ giúp môi trường sống được khôi phục bền vững hơn, nâng cao đời sống kinh tế người dân, đặc biệt đoàn kết tình làng nghĩa xóm sẽ ngày càng bền chặt.

Năm tiêu chí đánh giá mô hình cây năn tượng

Năm tiêu chí đánh giá mô hình phát triển cây năn tượng kết hợp nuôi tôm cua và cung cấp nguyên liệu cho sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ được ông Dương Văn Ni nêu ra, đó là: (1) phải tăng cường được uy tín của chính quyền đoàn thể địa phương với người dân; (2) phải tăng cường và củng cố được tình làng nghĩa xóm hay nói đúng hơn là văn hoá bản địa, tức người dân ở đó có thể chia sẻ, sống hài hoà với mô hình sản xuất; (3) không làm ô nhiễm và kiệt quệ tài nghiên thiên nhiên; (4) phải giảm bớt sự cực nhọc cho phụ nữ và cuối cùng là phải có hiệu quả kinh tế.

Advertisement

Trả lời

Điền thông tin vào ô dưới đây hoặc nhấn vào một biểu tượng để đăng nhập:

WordPress.com Logo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản WordPress.com Đăng xuất /  Thay đổi )

Twitter picture

Bạn đang bình luận bằng tài khoản Twitter Đăng xuất /  Thay đổi )

Facebook photo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản Facebook Đăng xuất /  Thay đổi )

Connecting to %s