Sống trong di sản – Ngô trên xứ đá
Nông Nghiệp – Thứ Hai 29/05/2023
Có một ‘di sản’ khác nằm trong lòng cao nguyên đá và ruộng bậc thang Hà Giang, đó là những con người không chịu khuất phục khó khăn, mạnh mẽ, bền bỉ hơn đá…


Nhà của Sùng Mí Chứ, cán bộ y tế thôn Sán Séo Tỷ (xã Khâu Vai, huyện Mèo Vạc) nằm giữa bạt ngàn ngô và đá. Cánh cửa nhà Chứ không bao giờ khép, như thể muốn đón cả thung lũng đá xám vào trong. Bên ngoài, những nương ngô mải miết chạy dài, đuổi trên những mênh mông đá xám, bời bời xanh trên những hốc đất tằn tiện góp nhặt từ đá. Ở vùng này, cây ngô quý giá như mạng sống con người.

Như tên gọi, các bản làng của bốn huyện cao nguyên đá gồm Yên Minh, Quản Bạ, Đồng Văn, Mèo Vạc, thứ nhiều nhất, sẵn có nhất, gây nên khó khăn nhất nhưng cũng làm nên sự kiêu hùng nhất của xứ này, đó là đá. Đá trùng điệp tạo thành lũy ở vùng cực Bắc. Đá tua tủa trồi lên như măng mọc. Đá tạo thành những cổng trời gọi tên Cán Tỷ, Pí Lèng… Đá đẩy dòng Nho Quế xuống tận khe sâu, tạo thành vực Tu Sản hun hút. Đá bủa vây khiến những con đường dẫn tới các thôn bản trở nên mảnh mai như những sợi chỉ, dài miên man, bất tận, len lỏi, luồn lách, và bí hiểm…

Nhưng, có một thứ ở xứ đá còn bền bỉ hơn cả đá, bền bỉ hơn cả những con đường, đó là những nương ngô mọc trên những bản làng người Mông, Dao, Nùng, Giáy, Tày, Xuồng…, từ bao đời nay bám trụ.
Chúng tôi lên Khâu Vai, xã chót cùng của Mèo Vạc khi chợ tình đã tan. Thế nhưng, dư âm của nó vẫn vương vấn suốt dọc con đường từ trung tâm huyện dẫn vào Khâu Vai, neo đậu trên những tấm pano, ap-phích, bảng lảng trên những tán cây cổ thụ im lìm ven đường, và vương vãi bên những nách núi kín đáo, khi những đôi trẻ chỉ đợi trời nhá nhem là vội tìm đến nơi hò hẹn…
Mùa chợ tình năm nay, mưa tìm đến Khâu Vai, tìm đến cả xứ cao nguyên đá muộn hơn thường lệ. Đã cuối tháng Ba âm, mới chỉ có một vài cơn mưa trễ nải buông nhẹ nhưng vẫn không đủ làm ẩm lớp đất mặt. Cữ này mọi năm, ngô đã ấm gốc bởi ăn Tết xong, quá rằm tháng Giêng là xuống hạt. Đến tầm này, ngô đã râm ran phất cờ, vào bắp, có những cây mau hạt, bắp đã nhu nhú ở nách lá, như những búp măng giang mọc xiên… Nhưng năm nay, thì khác!

Ở Niêm Sơn, Niêm Tòng – hai xã cách Khâu Vai chừng 10km, từ tháng 2, người dân sốt ruột, đã vội làm đất, tra ngô… Cây ngô nhú được chừng gang tay thì trời dừng mưa. Sự khô hạn khiến nó héo rũ, cháy lá rồi cứ thế chết đứng. 9/12 thôn của Khâu Vai, lứa ngô giống chung số phận: thiếu nước, hạn hán. Thế là, những mảnh nương nào đã trót tra ngô đành dừng cả lại, đợi mưa, rồi sau mới tính tiếp, phó chủ tịch xã Khâu Vai, Linh Thị Vị thông tin.
Không riêng Mèo Vạc. Nhiều xã vùng cao của Đồng Văn, Yên Minh, Quản Bạ, vòng sang ba huyện núi đất Quang Bình, Hoàng Su Phì, Xín Mần…, cơn hạn đang loang rộng vì nắng nóng kéo dài bất thường những ngày qua. Ở vùng núi, nhất là vùng cao nguyên đá khắc nghiệt, mọi kế hoạch đều rất dễ bị thay đổi, nhất là với cây ngô – thứ mà phải thuận thiên, phụ thuộc hoàn toàn vào tự nhiên.

Giám đốc Sở NN-PTNT tỉnh Hà Giang, ông Hoàng Hải Lý phiền muộn: Mấy năm trở lại đây mới có một năm nay khô hạn bất thường như thế này. Những dòng sông ở thượng nguồn khô cạn, trơ lòng. Ác cái, đúng lúc ngô đương hoa, thụ phấn. Nắng nóng như này, ngô chưa kịp thụ phấn đã bị hơi nóng thiêu rụi. Mà nếu có thụ phấn được, thì bắp ngô cũng còi cọc, không ra hạt, không đủ chất lượng, năng suất…

Làm cách nào để khắc phục bây giờ? Ông Lý bảo, phải chờ mưa xuống thôi, chấp nhận trồng lại toàn bộ. Mà cũng phải đợi đến qua tháng 6, may ra… Nhưng, ba thôn núi đá của Khâu Vai, gồm Sán Séo Tỷ, Sín Thầu, Chù Lủ Trên, lứa ngô chính vụ tra được hơn một tháng vẫn đang xanh, và đã lên cao được chừng 2 gang tay. Con chó chạy qua nương ngô, chỉ còn thấy nhúm lông đuôi bay lất phất.
Vì sao ba thôn núi đá trồng ngô lại sống, không như các thôn khác? Chị Hoàng Thị Đao, cán bộ Mặt trận Tổ quốc xã giải thích trên đường dẫn tôi trèo qua bạt ngàn núi đá lên Sán Séo Tỷ tìm nhà Sùng Mí Chứ, cán bộ y tế thôn: “Vùng đá, ẩm và mát hơn, đất vì thế cũng bớt nóng”.
Lý giải của Đao khiến tôi vững tin hơn khi đi qua những xã núi đá Cán Chu Phìn, Lũng Pù, Giàng Chu Phìn… nằm dọc tuyến đường dài 20km để vào Khâu Phai, ngô mướt xanh mênh mang trên những triền đá. Dù trước đấy, khi bắt đầu chạm đất Yên Minh, những nương ngô cháy lá ở vạt nương phía xa kéo thành vệt xơ xác, từ trên cao nhìn xuống, cứ ngỡ như mảnh nương sớm, cây đã cho thu hoạch.
Giữa bạt ngàn đá tai mèo của Sán Séo Tỷ, lá ngô xanh như át đi màu đá xám khổ hạnh, như con ngựa được nài ghìm bớt sự bất kham…

Nhà Sùng Mí Chứ – cán bộ y tế thôn Sán Séo Tỷ nằm giữa bạt ngàn ngô và đá. Con đường mòn dẫn vào nhà Chứ men theo những mỏm đá, đạp lên đá mà đi. Chiếc xe máy phải để bên ngoài bờ rào vì đường hẹp không đi được, Đao ngắt một túm cây chó đẻ phủ lên yên xe che nắng. Nếu thuận, có mưa, chỉ chừng một tháng nữa, ngô lên cao ngang ngực người, sẽ phải rẽ lá mà đi.

Dưới mỗi gốc ngô, vợ Chứ, chị Sùng Thị Lía tra thêm một hạt bí đỏ, một vài hạt đậu Hà Lan, một hạt lanh – loài cây quen thuộc của người Mông trồng lấy vỏ để làm sợi, dệt vải. Khi cây ngô lên được hai gang tay, bí đỏ, đậu, lanh cũng nứt hạt, đội đất nhô lên, rồi vịn gốc ngô đứng dậy, tạo thành quần thể như một tán rừng nhỏ.
Bí, đậu cung cấp rau ăn hằng ngày trong lúc giáp hạt, chờ ngô ra bắp. Còn cây lanh cô độc kia sẽ là giữ giống cho mùa sau. Cây ngô như chiếc dù che mát làm dịu bớt sự khắc nghiệt của nắng xứ đá, giúp cây tầng thấp sinh trưởng, vươn lên. Từ rất lâu, qua nhiều đời, người Mông Mèo Vạc dựa theo tự nhiên để sắp xếp, bố cục cách thức trong canh tác, trồng trọt của mình: Dựa vào đá, nương theo đá mà sống. Trên vùng đá, ngô là cây chủ lực, quen thuộc tới mức không thể thay thế.
Lầu Mí Và, Phó bí thư Đảng ủy xã Cán Chu Phìn bảo, đã mấy lần, địa phương, cán bộ, rồi huyện có chủ trương thay thế cây ngô bằng cây khác, nhưng đều không thành, chỉ có cây ngô trụ lại được ở đất này. Nó mang lại miếng ăn, sinh kế, là thứ để làm ra mèn mén, là nguyên liệu chưng cất ra rượu. Thân cây ngô là đồ đun cho những chiếc bếp người Mông đỏ lửa cả năm, làm thức ăn cho trâu bò… Ngô là gam màu chủ lực của bức tranh xứ đá, vì nếu không có màu xanh của ngô, cả vùng đá bạt ngàn đến tận cùng này, sẽ mãi chỉ toàn xám xịt…
Diện tích ngô vụ xuân – hè của toàn huyện Mèo Vạc năm 2023 là trên 7.000ha, trong đó chủ yếu là ngô nương. Các xã Giàng Chu Phìn, Sủng Trà, Cán Chu Phìn… là những vùng ngô lớn nhất của huyện. Theo kế hoạch của Phòng Nông nghiệp, vụ ngô năm nay Mèo Vạc đặt mục tiêu gieo trồng trên 7.000 ha, bao gồm các giống ngô năng suất cao như NK4300, NK7328, CP311, CP511 và giống ngô địa phương… Kế hoạch là vậy, khi đưa vào thực tế, nó lại khác rất nhiều vì phụ thuộc vào tự nhiên. Như vụ ngô năm nay…
Hỏi nhà Chứ có bao nhiêu diện tích trồng ngô, anh bảo, người Mông không bao giờ đo diện tích, chỉ biết, để phủ kín hết cả đám nương, cần tới 25kg ngô giống. Thêm vài bao phân đạm để bón thúc, và sức người không đong đếm được, một năm thu về được khoảng hơn 1 tấn hạt.

Nhiều đời nay, bà con đồng bào Mông ở Mèo Vạc giữ thói quen tự nhân giống ngô bản địa bằng cách lựa những bắp đẹp nhất, hạt đều, khỏe nhất làm giống cho mùa sau. Rất ít người trồng ngô lai vì hạt dễ bị mọt và không dùng làm mèn mén được. Nhà Chứ cũng vậy.

Ngô bản địa cây ngắn, thấp, thời gian sinh trưởng dài, từ lúc tra hạt đến khi thu hoạch mất 4 – 5 tháng, phải qua nhiều lần chăm sóc: làm đất, tra hạt, hai tháng sau khi cây ngô đã lên, lại đi vun đất cho ấm gốc, rồi thêm một lượt tra phân bón thúc. Sau đó là chờ đợi. “Cây ngô đã quen đất, quen nước ở vùng núi đá, chịu được hạn. Quan trọng nhất, nếu trồng giống ngô khác mà không ra bắp, đồng nghĩa với việc năm đó sẽ đói. Thế là giống ngô cũ, bền bỉ ở lại với người Mông”, Chứ giải thích.
Sùng Mí Chứ sinh năm 1983, năm nay 41 tuổi, nhưng đã có con dâu năm ngoái, và chuẩn bị lên chức ông nội. Cậu trai lớn, Sùng Mí Dua sinh năm 2003, lấy vợ là cô gái Mông cùng bản có tên Lầu Thị Dí. Đầu Giêng, ăn Tết xong, vợ chồng Dua đi làm công nhân da giày dưới Hải Phòng. Hai cậu con trai kế tiếp đang học trường dân tộc nội trú dưới huyện. Ngôi nhà truyền thống của người Mông mà Chứ đang làm chủ bỗng trở nên rộng rãi, chỉ có vợ chồng Chứ cùng bà mẹ 84 tuổi ở lại.
Ba người lớn sống giữa mênh mông đá, mênh mông ngô, và mênh mông núi. Vợ chồng Chứ như vợ chồng son. Ở Khâu Vai, ở Đồng Văn, Mèo Vạc…, những người Mông thế hệ 8x như Chứ đều đã lên ông lên bà, có người còn có hai ba đứa cháu nội, ngoại, trong khi đứa con út vẫn đang học mẫu giáo. Thực tế ấy khiến chúng tôi bất ngờ, rồi giật mình nghĩ tới bản thân, cũng ở độ tuổi như Chứ, mà vẫn còn xanh và non như trái bí đỏ nằm lăn lóc dưới những gốc ngô trên nương nhà Chứ.
Hầu hết đàn ông, con trai Mông đều nói được tiếng Kinh. Nhưng, phụ nữ Mông nói tiếng Kinh thì hiếm, chỉ những người đi học, tham gia công tác chính quyền và lớp trẻ bây giờ. Mẹ Chứ, vợ Chứ không nói được tiếng Kinh. Khi tôi hỏi chuyện, bà cụ người Mông 84 tuổi chỉ lắc đầu “chư pâu” (không biết đâu- PV), rồi ngồi lặng im bên bậu cửa, dựa vào chiếc cột gỗ, cười hiền lành, nụ cười như một gợn sóng nhỏ bắt đầu từ khoé mắt già nua đục đục, sau đó tạo thành những nếp nhăn loang trên đuôi mắt, loang ra hai gò má, và chạy xuống bên hai khóe miệng nhăn nheo…
Ở vùng đá, đất hiếm hoi và rất quý giá. Đất được giữ trong những hốc đá tằn tiện, chỉ đủ để cây ngô bám rễ mà vươn lên. Nhưng, không phải vì hiếm đất mà phải cố gắng trồng cho bằng hết ngô.


Trong đám nương nhà mình, chị Sùng Thị Lía, vợ Chứ vẫn chừa ra một khoảnh bằng hai chiếc chiếu trồng một vạt lanh. Đây sẽ là thứ để những người phụ nữ Mông mang sau những chiếc gùi, để khi đi nương, đi chợ, đi chơi hội…, tay vẫn mệt mài tước những vỏ cây lanh thành từng sợi nhỏ, sau đó sẽ xe lại thành cuộn, và dệt thành những tấm vải lanh, làm nên những món đồ chăn, gối, nệm từ sợi lanh. Khi đủ những món đồ ấy, cũng là lúc cô gái Mông vụt trở thành thiếu nữ, đủ lễ vật theo phong tục mang về nhà chồng. Đứng từ trên cao hay nhìn từ xa, dễ dàng phát hiện những vạt lanh giữa vùng ngô bạt ngàn: chúng mảnh mai, lá xòe như bàn tay, và đặc biệt xanh mỡ màng gần như óng ả.

Câu chuyện tôi và Chứ bên bếp lửa cạnh bờ rào đá. Mẻ rượu ngô đang chưng cất trên chiếc thạp nhôm, rượu nhỏ từng giọt tí tách qua chiếc ống nhựa rồi rơi xuống chiếc can nhựa đang hứng. Đàn ông người Mông ai cũng biết nấu rượu ngô, giống như phụ nữ Mông ai cũng biết se lanh, làm vải.
Mùi rượu ngô thơm lựng, nồng nàn, ngai ngái và hơi khen khét, tưởng như cả bờ rào đá cũng say, say từ nhiều năm về trước, vì biết bao mẻ rượu đã được nấu trên chiếc bếp này, mùi rượu ngô tưởng như đã ám sang cả bờ rào đá, khiến đá cũng trở nên say! Chứ lấy một chiếc cốc nhựa, nghiêng can hắt vào một cốc đầy, mang hai chiếc chén hoa hồng chan rượu sang mời khách. Rượu ngô vừa cất nóng hổi. Mùi rượu mới cùng hơi nóng khiến men rượu bốc lên càng lựng. Trên chiếc bàn gỗ đặt giữa nhà, cửa chính nhìn ra nương ngô bạt ngàn, nhìn ra thung được kẹp bốn xung quanh là những mỏm núi đá nhọn hoắt.

Gió từ thung tràn vào nhà qua cánh cửa như chiếc phễu hút gió. Tưởng như, ngôi nhà cũng đang bồng bềnh. “Cây ngô đối với người Mông quý lắm, như cây lúa dưới xuôi. Đã nhiều lần thử nghiệm trồng cây khác thay cây ngô, nhưng cây thay thế không lên được. Chỉ có cây ngô hợp với đất cao nguyên đá, chịu được cơn khát của cao nguyên đá”, Chứ nhẩn nha bảo, rồi ra chiếc chạn múc mời tôi một bát mèn mén…
Mấy năm gần đây, thanh niên của Sán Séo Tỷ rủ nhau đi công ty, đi rất xa, xuống tận Hải Phòng làm công nhân giày da, công nhân may mặc. Họ rời xa mảnh nương, rời xa núi đá. Như vợ chồng đứa con trai lớn của Chứ, Sùng Mí Dua, ăn Tết xong đã khăn gói lên đường. Mỗi tháng, hai đứa gửi về cho Chứ 7 triệu đồng, chỉ giữ lại một phần nhỏ để thuê nhà, chi tiêu cuộc sống. Tiền ấy, Chứ giữ cho con, tích lại thành khoản để làm những việc lớn.
Những cuộc ly nông, ly hương ở vùng cao, bắt đầu manh nha như dưới xuôi khoảng hai thập kỷ về trước, bắt đầu bằng lứa thanh niên, trai trẻ. “Thương nó lắm, nhưng phải đi thôi. Trên này, trồng xong ngô, thêm ba lần vun đất, bón phân, năm tháng nữa mới thu hoạch. Trong thời gian ấy, không có việc làm, chỉ đi lấy rau lợn, nuôi con bò, con gà, không có thu nhập”, Chứ kể.

Trong góc nhà, gần chiếc cửa đi ra khu chuồng nuôi hai con bò, 6 con lợn nái đen trong đó có một con lợn mẹ đang nuôi đàn con hai tháng tuổi, chị Lía cùng người phụ nữ hàng xóm đang thoăn thoắt thái cỏ bò bằng chiếc bàn thái như thầy lang thái thuốc bắc. Cỏ voi được xắt thành từng đoạn ngắn cỡ đốt ngón tay, rơi xuống chẳng mấy chốc thành một đống đầy.
Gia đình Sùng Mí Chứ thuộc diện năng động nhất ở Sán Séo Tỷ, mạnh dạn làm kinh tế nhất ở Sán Séo Tỷ. Chứ vừa mua hai xe đá dăm, mua thêm xi măng để xây thêm chuồng nuôi trâu, nuôi lợn ở mé chái nhà. Có việc gì cần tiêu đến món tiền lớn, Chứ bán con bò đực trưởng thành, bán đàn lợn con, thế là có khoảng 30 – 50 triệu đồng. Như đầu năm nay, Chứ vừa bán đàn lợn 10 con giống được hơn 10 triệu đồng, một con bò thịt được 20 triệu. Tiền ấy, để mua thóc gạo, mua phân bón về bón ngô. Ngoài ra, Chứ còn có hai con bò giống cho hàng xóm nhận nuôi theo hình thức luân chuyển khi con bò mẹ đẻ được hai con, nhà Chứ sẽ được nhận về một con. Con bò mẹ vẫn là của Chứ. Nhà nào muốn mượn bò giống để có bò con, Chứ sẽ lại cho mượn. Đấy là cách giúp nhau có tư liệu sản xuất, giúp nhau xóa nghèo mà không ỷ lại, trông chờ vào nhà nước…
Bên ngoài, bầu trời xanh không một gợn mây. Nắng nhễ nhại trùm lên cả vùng cao nguyên Sán Séo Tỷ. Trời càng cao, càng xanh, không cần nghe đài thì cũng biết, những ngày nắng sẽ còn kéo dài. Trong khi ấy, cả vùng cao nguyên đang chờ những cơn mưa, cho những vạt nương đỡ khát.Nội dung:
Kiên Trung – Đào Thanh
Thiết kế: Trương Khánh Thiện
Ảnh: Kiên Trung – Đào Thanh
***
Phận người sau vách đá
NN – Thứ Ba 30/05/2023 , 09:06
Ẩn sau những vách đá xám trải mênh mông khắp vùng cao nguyên đá Đồng Văn, Mèo Vạc, có những số phận vượt lên gian khổ để tồn tại, mưu sinh.
Mặt trời lựng đỏ sau lưng thảm ngô còi cọc phủ trùm trên triền núi đá, Lầu Mí Mua mới thấp thểnh trở về nhà nằm sát đường thôn Làng Chải, xã Cán Chu Phìn. Mua đi sửa chiếc xe máy bị hỏng từ sáng, được người bạn xóm trên rủ về nhà uống rượu. Thế là, mùi rượu ngô nồng đặc theo chân Mua tỏa suốt cả quãng đường.

Những tường rào đá ở Há Ía, xã Cán Chu Phìn. Ảnh: Kiên Trung.
Ngôi nhà thấp tè của Mua rộng khoảng 60m2, được ngăn thành bốn phòng ở bốn góc. Giữa nhà, một chiếc bếp củi hai ngăn khá bề thế, chắc chắn, trên đặt hai chiếc chảo lớn. Dù bên ngoài trời đã nhá nhem tối, bên trong nhà Mua vẫn chưa sáng điện. Chỉ có ánh lửa trong chiếc bếp củi thỉnh thoảng lại bùng lên một ngọn to, soi rõ cả ngôi nhà đầy đồ đạc ngổn ngang, bừa bộn: đám rau cho bò, lợn vứt sát thành bếp… Đống củi ngô vừa mới được tiếp thêm một bó to, còn nguyên chiếc dây thừng buộc. Quần áo vắt ngang chiếc dây thép ùn thành một đống khiến dây đỡ oằn xuống, trĩu một đầu…
Trong nhà Mua, tài sản có giá trị thứ hai, sau chiếc xe máy đang mang đi sửa, có lẽ là chiếc bếp củi đang đỏ lửa. Thế mà trong ngôi nhà toen hoẻn được ngăn thành 4 ô nhỏ ấy, có 3 hộ gia đình cùng sinh sống: bố mẹ của Mua, vợ chồng Mua, và vợ chồng đứa em trai. Sống lâu trong chật hẹp dần cũng thành quen. Ở bản Mông này, nhiều nhà giống như Mua, không có tiền, không có đất để làm nhà, mấy chục năm liền, mấy thế hệ cùng sống chung.

Trong căn bếp nhà Lầu Mí Mua. Ảnh: Kiên Trung.
22 tuổi, Lầu Mí Mua lấy vợ – Vừ Thị Mánh, người xã Tả Lùng. Tiền thách cưới là 50 triệu đồng, Mánh trở thành vợ của Mua. Ở các bản người Mông, thường khi con gái đi lấy chồng, bố ngoại, mẹ ngoại sẽ cho bò, cho xe máy mang theo về nhà chồng làm của hồi môn. Nhưng khi lấy Mánh, Mua không có bò, có xe mang theo về. Mua bảo, bố ngoại, mẹ ngoại không cho vợ mình con bò mang theo bụng cũng hơi buồn, nhưng không sao mình đã có một đứa vợ, đảm đang là ưng bụng.
Để có 50 triệu tiền sính lễ, cả nhà Mua phải chắt chiu, không đủ thì đi vay mượn thêm. Mánh về làm dâu, lại cùng nhà chồng làm ngô, chăn nuôi, và trả nợ dần cùng nhà chồng. Hỏi, còn trẻ, sao không học tiếp mà lại lấy vợ? Lầu Mí Mua thủng thẳng: Mình đã học hết lớp 9, nói tiếng Kinh khá thành thạo và là người học được nhiều chữ nhất dòng họ. Học như thế đủ chữ rồi thì bỏ học thôi.
Bố mẹ không có điều kiện thì cái chữ cũng phải bỏ giữa chừng, phải đi làm cày nương, làm thuê…, rồi lấy vợ về để có người đỡ đần bố mẹ. Ở bản Làng Chải, thanh niên Mông lấy vợ rất sớm. Cho nên, 40 tuổi, bố Mua đã lên ông nội. Em trai Mua mới 18 tuổi đã có vợ. Còn em con nhà chú của Mua, 19 tuổi đã có 3 con.
Tuổi xuân bị đánh cắp ở chợ phiên
Lầu Thị Lúa gùi khuẩy tấu đầy cỏ, tay dắt đứa con nhỏ, theo sau là người anh chồng bị thiểu năng đang chậm rãi từ con dốc đầu làng Há Ía, xã Cán Chu Phìn đi lên. Lúa vừa từ nương về.

Lầu Thị Lúa, cô gái Mông đánh rơi tuổi xuân ở phiên chợ xã Lũng Pù. Ảnh: Đào Thanh.
Lúa về làm dâu ở Cán Chu Phìn được 8 năm. Phiên chợ ngày xuân 8 năm trước ở Lũng Pù, khi ấy Lúa còn trẻ, còn đang ham đi chơi. Nhưng Vừ Mí Sính cùng đám bạn bắt Lúa về làm vợ. Kể từ đó, tuổi xuân của Lầu Thị Lúa giống như đã bị phiên chợ ngày xuân năm ấy đánh cắp.
Trước khi bị bắt làm vợ, Lúa không biết nhiều về Vừ Mí Sính. Về nhà Sính rồi, Lúa buồn cũng chẳng dám khóc vì đông người quá, xấu hổ. Hơn nữa Sính cũng đưa cho bố mẹ Lúa hơn 30 triệu tiền sính lễ. Thương con gái nhỏ tuổi, mẹ Lúa bảo nếu mình không đồng ý thì con không phải về ở nhà Sính. Nhưng bố Lúa lại khuyên nên về ở với Sính để làm vợ làm chồng. Rồi bố mẹ cho vợ chồng Lúa con lợn và 2 triệu đồng để lấy vốn làm ăn.

Cuộc sống ở Cán Chu Phìn. Ảnh: Kiên Trung.
8 năm trôi qua. Những đứa con của Lúa lớn lên, vô tư như hạt ngô đã tách vỏ rồi nảy mầm trên vùng cao nguyên đá. Khi đã có với Sính 2 mặt con, đứa lên 6 đứa lên 4 thì Lúa chẳng khác nào con gà mẹ bị buộc chân ở cột nhà để đàn con quanh quẩn xung quanh mà chẳng thể đi đâu được.
Giờ thì Lúa đã thực sự gắn bó với nhà của Sính dù có phải vất vả một mình ngày ngày thay chồng chăm sóc 2 đứa con nhỏ cùng bố mẹ chồng và người anh trai chồng bị thiểu năng trí tuệ. Mấy năm trước khi bố mẹ chồng còn khỏe, đi nương cái chân chưa biết mỏi cái lưng chưa biết đau, nhưng mấy năm nay họ đã già, chủ yếu ở nhà chăm lo lợn gà và trông mấy đứa cháu, một mình lúa Lúa cáng đáng hết nương ngô tương đương gieo 10kg ngô giống mới kín được mấy nương núi đá.

Mẹ con chị Lầu Thị Lúa. Ảnh: Kiên Trung.
Nhà Lúa có 6 chị em, Lúa là chị cả. Những đứa em của Lúa, chúng được đi học, chúng sẽ không phải lấy chồng sớm như chị, sẽ nghĩ được xa như cô giáo miền xuôi vẫn dạy.
Tục bắt vợ của người Mông mấy năm nay không còn như trước. Nếu có bắt vợ thì con trai, con gái đã biết và yêu nhau, có đồng ý đến với nhau mới cho bắt. Đi nhiều hội nghị của thôn, nghe cán bộ Công an tuyên truyền, nếu người con gái không đồng ý thì người con trai không được bắt về làm vợ, như thế là vi phạm pháp luật và bị Nhà nước phạt tội nặng, có muốn đổi nhiều trâu, nhiều bò cũng không được đổi, được tha. Lúa buồn…
“Phải đuổi cái nghèo”
Cán Chu Phìn là 1 trong 6 xã của huyện Mèo Vạc không có nguồn nước, là một trong số xã nghèo nhất của huyện Mèo Vạc. Thiếu nước, dù có nghĩ ra nhiều mô hình kinh tế xoá nghèo cũng không thể làm nổi.

Anh Hờ Pà Lúa, trưởng thôn Há Ía, xã Cán Chu Phìn. Ảnh: Đào Thanh.
Phó Bí thư Đảng ủy xã Cán Chu Phìn Lầu Mí Và thông tin: xã có 12 thôn, 1.257 hộ dân, với khoảng 7.000 nhân khẩu, tỷ lệ hộ nghèo lên tới 70%. Muốn giúp bà con bớt nghèo, nhiều cán bộ, kỹ sư trên tỉnh, Trung ương đã mang giống cây trồng cho bà con Cán Chu Phìn trồng, từ cây ngô lai đến cải dầu, ngô nếp… qua mấy vụ rồi đều không thành công. Ngô lai trồng được nhưng hay bị sâu mọt, không thể bảo quản được lâu.
Đến khi các hộ nghĩ ra được bí quyết của người miền xuôi là không treo cả bắp ở trên xà nhà hay góc bếp mà phải lấy hạt ra, phơi khô rồi buộc kín trong bao tải ni lông thì cũng là lúc nhiều thôn nhận ra rằng, cây ngô lai không hợp với khí hậu khắc nghiệt, ít mưa và đói đất ăn, cho bắp nhỏ và ít hạt. Vậy là, cây ngô truyền thống của người Mông ở lại với bà con.

Vợ của Lầu Mí Mua cột chân con gà mẹ bằng một sợi dây, rồi buộc nó lại ở chân cột nhà, để giữ lũ gà con không bị lạc mẹ. Ảnh: Kiên Trung.
Mấy năm nay, Cán Chu Phìn chủ trương làm du lịch dựa trên văn hóa truyền thống của người Mông, đặc biệt là khai thác nét độc đáo của những bức tường rào đá… Kết hợp với các chính sách, chuyển đổi kỹ thuật trong chăn nuôi, trồng trọt…, cái đói, cái nghèo đã dần đẩy xa.
Hờ Pà Lúa, trưởng thôn Há Ía cho biết: Nhà nước hỗ trợ bà con làm bể chứa nước để phòng những ngày hạn hán; hỗ trợ mua trâu bò, lợn gà tăng gia sản xuất; hỗ trợ làm nhà ở, đời sống của bà con cũng dần khá hơn. Bởi thế, dù thôn có 131 hộ dân và có tới 84 hộ nghèo nhưng bà con vẫn chủ động bỏ công, hiến đất để làm đường vào thôn.
“Nhà nước đã lo nghĩ cho dân có con đường lớn rồi, đã hỗ trợ hộ nghèo có bảo hiểm y tế, cây con giống… thì dân cũng phải chủ động nghĩ ra giúp Nhà nước và giúp chính mình. Thu hút khách du lịch, thôn đã làm bờ rào đá, xây dựng hệ thống hầm rượu, xây dựng các bể chứa nước và chỉnh trang khuôn viên và hình thành các homestay tại thôn để đón khách du lịch.

Hang nước trong lòng núi, nguồn cung cấp nước chủ yếu cho người dân thôn Há Ía. Ảnh: Đào Thanh.
Mấy năm tới, cán bộ bảo rằng sẽ xây dựng tuyến đường phục vụ giải chạy marathon vùng cao nguyên đá trong đó có đoạn qua làng. Vậy thì người làng sẽ cùng với cán bộ xây dựng, chỉnh trang nhà cửa để phát triển du lịch. Khi kinh tế phát triển hơn, khách du lịch miền xuôi về nhiều sẽ giúp cái đầu của bà con ở bản Mông dần sáng ra, từ đó những hủ tục, lạc hậu ở Cán Chu Phìn cũng dần là câu chuyện của quá khứ”.
Trưởng thôn Hờ Pà Lúa say mê, rồi nhìn về phía ngọn núi cao nhất Cán Chu Phìn, tưởng như, con đường để chạy giải marathon mấy năm nữa vừa được xây dựng, đang ngoằn ngoèo chạy xa tít tầm mắt…
Đào Thanh – Kiên Trung
***
Sa mộc buồn rủ bóng xuống nhà Vương
NN – Thứ Tư 31/05/2023 , 10:02
Có một ngày, bỗng nhiên Vàng Thị Chờ bị mất tiếng, giọng thều thào, không tròn vành rõ tiếng. Cô là cháu gái đời thứ 4 của Vua Mèo Vương Chí Sình, đất Sà Phìn.
Trong những lần lên Hà Giang, bao giờ tôi cũng dành thời gian để ghé thăm dinh thự Nhà Vương ở Sà Phìn. Di tích ấy, nhìn từ trên đỉnh dốc là một quần thể công trình kiên cố, bề thế, uy nghi, mái ngói vảy cũ kỹ được bao bọc bởi rừng sa mộc hàng trăm năm tuổi, mỗi cây có đường kính gốc phải hai người ôm mới xuể.
Thời điểm hiện tại, dinh thự Nhà Vương (hay còn gọi là dinh thự Vua Mèo) vẫn là công trình đồ sộ, nguy nga, sừng sững nhất vùng cao nguyên đá. Nếu ngược về hơn 100 năm trước, khi toàn tỉnh Hà Giang còn là mảnh đất khó khăn, nghèo gấp bộn lần, công trình ấy, chắc chắn còn hơn cả một điều kỳ vĩ!

Vàng Thị Chờ, cháu nội đời thứ 4 của Vua Mèo Vương Chí Sình. Ảnh: Kiên Trung.
Những câu chuyện về dinh thự Nhà Vương, cuộc đời cụ Vương Chính Đức, kế tiếp là Vương Chí Sình; chuyện hậu duệ Vua Mèo kiên trì giành quyền sở hữu công trình của tổ tiên…, báo chí đã viết quá nhiều. Điều tôi quan tâm ở Sà Phìn, đó là cô gái Mông xinh đẹp say mê giới thiệu với du khách về di tích nhà Vương, với những mê đắm, tự hào, khâm phục… Cô là hướng dẫn viên duy nhất, có thâm niên lâu nhất tại Di tích Nhà Vương. Cô là Vàng Thị Chờ, sinh năm 1983, hậu duệ đời thứ 4 của họ Vương ở Sà Phìn.
Lần tôi gặp Vàng Thị Chờ gần nhất, năm 2019, đúng thời điểm Chờ đang bị mất giọng. Đối với một hướng dẫn viên du lịch, tiếng nói là thứ quý giá nhất của họ, không thể thay thế. Bị mất tiếng, giọng Chờ chỉ khều khào, không tròn vành rõ tiếng, nói vài câu Chờ phải dừng lại nghỉ lấy hơi… Khi ấy, có lẽ Chờ đã đau khổ, lo lắng, buồn phiền rất nhiều.
Sau lần ấy, Chờ nghỉ để đi điều trị, tìm lại giọng nói. “Em nghĩ chỉ mất khoảng 1, 2 tháng là cùng, thế mà gần một năm mới nói được trở lại. Sau đó, em xin nghỉ hướng dẫn viên chuyển sang phụ trách quầy bán vé của khu di tích. Khi nào khách đông, các cháu không đảm nhiệm được hết, em sẽ ra phụ các cháu”, Chờ kể chuyện, đôi mắt vẫn long lanh.


Chờ đang giới thiệu với du khách về chính công trình do tổ tiên mình xây dựng ở Sà Phìn, hơn 100 năm về trước. Ảnh: Kiên Trung.
Đấy cũng là lúc, thế hệ trẻ hậu duệ đời thứ 5, là các con cháu của Chờ đã được đào tạo, đủ kiến thức để làm hướng dẫn viên cho di tích. Nhưng, cho đến bây giờ, vẫn chưa có ai thay thế, chưa có ai được như Chờ, có nhiều kiến thức và tình yêu về khu di tích của cha ông.
Sinh năm 1983, Vàng Thị Chờ là cháu nội đời thứ 4 của vua Mèo Vương Chí Sình, là chắt thuộc chi 3 của vợ 3 Vương Chính Đức. Chờ cũng là người hiếm hoi trong dòng họ sinh ra và lớn lên ở Sà Phìn, gắn bó với dinh thự của cha ông để lại, trở thành hướng dẫn viên du lịch giới thiệu lịch sử văn hóa khu di tích dòng họ cho khách du lịch.
Mẹ Chờ vốn là một cô gái Mông nhà nghèo ở Đồng Văn được bố cô lấy về làm vợ, sau đó sống trong dinh thự Nhà Vương. Cả 7 anh em Chờ đều được sinh ra và lớn lên trong tòa dinh thự. Tuổi thơ Vàng Thị Chờ gắn với tán rừng sa mộc, thân thuộc với những con đường đá, những hốc ngô, con dốc, thân thuộc với mái nhà Vương.
Khi đó, di tích Nhà Vương đã bắt đầu đón khách du lịch tới tham quan. Có những lúc, khách đến đúng lúc các gia đình hậu duệ vua Mèo đang ăn cơm… Sự bất tiện ấy, năm 2004, chính quyền chủ trương dời các hộ dân ra ở ngoài khu vực dinh thự, bàn giao hoàn toàn di tích cho ngành văn hóa quản lý…

Chờ bây giờ không làm hướng dẫn viên du lịch. Cô là một trong 22 xã viên của Hợp tác xã Du lịch Di tích Nhà Vương, làm công việc bán vé cho khách tham quan. Ảnh: Kiên Trung.
Học hết lớp 12, Chờ cũng suýt đi lấy chồng, suýt có một cuộc sống phẳng lặng như bao người con gái Mông khác. Năm 2007, tỉnh Hà Giang mở lớp tập huấn tại chỗ đào tạo hướng dẫn viên cho các khu du lịch trong tỉnh. Chờ tham gia. Lúc này, cô nói tiếng Kinh chưa sõi, còn ngại ngần, e dè khi giao tiếp với người lạ. Nhưng, có một sự hối thúc, dù nhỏ bé từ trong tâm thức. Chờ vượt qua những ngại ngần, say mê tìm hiểu những điều bí ẩn, mới lạ đối với cô về lịch sử, văn hóa của chính tòa dinh thự mà tuổi thơ cô từng gắn bó, những điều mới mẻ về cha ông, tổ tiên… mà cô chưa bao giờ am tường.
Khóa học kéo dài có 3 tháng. Thời gian ngắn ngủi ấy đã thay đổi hoàn toàn suy nghĩ của cô gái Mông Vàng Thị Chờ. Cô là một phần của tòa dinh thự, là một gạch nối trong của dòng họ Vương đất Đồng Văn. “Người Mông ở Đồng Văn, họ Vương – Vàng là một. Giấy khai sinh của em là Vàng, cho nên, cái tên Vàng Thị Chờ là như vậy. Em là cháu nội thế hệ thứ tư của cụ Vương Chính Đức. Nhánh của ông nội em cũng là nhánh duy nhất còn có con cháu ở Hà Giang. Hiện tại, dòng họ có một số gia đình đang định cư tại nước ngoài, một số ở TP.HCM và dưới Hà Nội”.

Hàng sa mộc cổ thụ trước cổng chính di tích Nhà Vương. Ảnh: Kiên Trung.
Năm 2019, sổ đỏ tòa dinh thự Vua Mèo được tỉnh Hà Giang bàn giao lại cho hậu duệ con cháu dòng họ Vương – những người thừa kế hợp pháp, đồng sở hữu công trình. Từ 6 hộ gia đình (vào năm 2004), đến thời điểm hiện tại, hậu duệ Vương Chí Sình đã phát triển lên thành 22 hộ ở Lũng Phìn.
Năm 2021, Hợp tác xã Du lịch Khu di tích Nhà Vương được thành lập, gồm 22 xã viên đại diện cho 22 gia đình hậu duệ Nhà Vương ở Sà Phìn tham gia, tổ chức bài bản, có các điều khoản, nội quy, nguyên tắc, quy chế hoạt động theo pháp nhân trước pháp luật. “Hiện có khoảng hơn chục thành viên tham gia hoạt động thường xuyên tại khu di tích. Nguồn thu của hợp tác xã từ tiền bán vé cho khách tham quan. Mỗi tháng, HTX trích một phần để trả lương cho nhân viên, đóng góp các nghĩa vụ đối với nhà nước, phần giữ lại để trùng tu, giữ gìn, bảo tồn khu di tích”, Chờ chia sẻ.

Di tích Nhà Vương nhìn từ trên cao, nằm trọn trong thung lũng Sà Phìn. Đỉnh núi nhọn bên phải tượng trưng cho Quan võ; đỉnh bên trái, tròn, thấp hơn, tượng trưng cho Quan văn, đứng gác cửa Nhà Vương. Ảnh: Kiên Trung.
Tranh thủ lúc thưa khách, Chờ kéo tôi ra khoảng sân trống, chỉ tay chỉ về hai đỉnh núi đá án ngữ ngay trước mặt chính của tòa dinh thự. “Anh thấy không, đỉnh núi nhọn bên tay phải, cụ nội em nói đó là Quan võ, đỉnh núi thấp hơn, tròn, bên tay trái, tượng trưng cho Quan văn. Người ta cũng hay gọi, đó là đỉnh Kim tự tháp ở Sà Phìn”.
Sau lưng tôi và Chờ, hàng sa mộc cổ thụ đứng im lìm trước cổng Nhà Vương. Từ rất lâu, rất lâu, những hàng sa mộc trăm tuổi vẫn chưa bao giờ lên tiếng, cho đến tận bây giờ!
Biểu tượng xứ đá
Những biến thiên, dâu bể của dòng họ Vương ở Đồng Văn, cuối cùng cũng đều nằm trong sử sách. Nhân chứng và những gì còn hiển hiện để người đời được chiêm ngưỡng, bái vọng, đó là những hiện vật còn tồn tại cho đến ngày nay – tòa dinh thự của Nhà Vương.

Nét cổ kính của Di tích Nhà Vương…

Giếng trời và bên trong khuôn viên khu di tích. Ảnh: Tư liệu.
Vượt ra bên ngoài tài sản của dòng họ, vượt qua phạm vi của Sà Phìn, của Lũng Phìn, của cao nguyên đá, di sản đó có tính biểu tượng cho toàn bộ vùng công viên địa chất toàn cầu Đồng Văn đã được thế giới công nhận.
Người tinh ý khi đến cao nguyên đá có thể nhận thấy, mấy năm trở lại đây, cơ quan quản lý văn hóa đã di dời các hiện vật liên quan đến bàn đèn, thuốc phiện – những thứ gắn với cuộc đời của chủ nhân tòa dinh thự (hai cha con cụ Vương Chí Sình, Vương Chính Đức), không trưng bày trong Nhà Vương nữa. Bộ hiện vật ấy gồm tẩu hút thuốc, bàn đèn, điếu đóm… – những vật dụng bây giờ cũng chỉ là thứ vô tri, nếu như không dùng đến. Cũng như khu đồi cây lá ngón – thứ cây chết chóc tồn tại ở miền núi, trước đó được trồng ngay khu dừng chân Quản Bạ – cửa ngõ của cao nguyên đá Đồng Văn, với mục đích cảnh báo để con người nhận diện, tránh nó đi, không nhầm lẫn với những loài cây dừng khác…
Ấy thế mà, cả hai thứ tôi vừa nhắc tới, đều đã bị dẹp bỏ. Họ nghĩ rằng, nếu để người ta nhìn thấy, sẽ cổ súy cho những điều không tốt đẹp, sẽ có người hái lá ngón để tự vẫn, hay học đòi để mà bập bẹ vào nàng tiên nâu. Tôi cho rằng đó là một suy nghĩ thơ ngây!

Toàn cảnh di tích Nhà Vương nhìn từ trên cao, được bao bọc bởi rừng sa mu cổ thụ trăm tuổi…Ảnh: KT.
Dinh thự họ Vương được xây dựng vào cuối thế kỷ 19, khánh thành năm 1907. Công trình quy mô lớn nhất thời điểm đó và cũng là lớn nhất cho đến bây giờ của người Mông ở Đồng Văn được xây dựng bởi những người thợ Vân Nam, Trung Quốc chung tay với những người thợ dân tộc Mông. Dinh thự tiêu tốn 15 vạn đồng bạc trắng Đông Dương của Vua Mèo Vương Chí Sình.
Dinh thự Nhà Vương nằm trọn vẹn trong thung lũng Sà Phìn, tựa lưng vào dãy núi cao, hướng nhìn ra thung lũng rộng phía trước. Từ trên cao nhìn xuống, quần thể Dinh thự như nằm trên một chiếc mai rùa khổng lồ. Người ta nói, chính vì nằm trong địa thế này, trải qua bao cuộc chiến, dinh thự vẫn tồn tại, không bị ảnh hưởng bởi một mũi tên hòn đạn, vì nằm ngoài tầm rót của đạn pháo…
Kiến trúc của dinh thự là sự kết hợp 3 nền văn hóa Trung, Pháp và H’Mông, tuy nhiên văn hóa H’Mông vẫn là văn hóa chủ đạo trong dinh thự nhà họ Vương. Tổng thể tại dinh thự có 4 căn nhà ngang, 6 căn nhà dọc, chia làm 3 khu vực là tiền dinh, trung dinh và hậu dinh với 64 căn phòng nhỏ sắp xếp trên 2 tầng. Do dinh thự được thi công hoàn toàn bằng sức lực con người, không có sự can thiệp của máy móc nên để đảm bảo được tính kiên cố, những người thi công đã dùng đá xanh giúp cho dinh thự đứng vững dưới dòng thời gian lịch sử.
Ngày 21/7/2018, ông Vương Duy Bảo, cháu nội “Vua Mèo” Vương Chí Sình (Vương Chí Thành) đã gửi đơn lên Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc về việc tỉnh Hà Giang cấp sổ đỏ cho Phòng Văn hóa và Thông tin huyện Đồng Văn sử dụng mảnh đất gắn liền với Di tích quốc gia Khu nhà Vương (cấp từ ngày 11/9/2012).
Ngày 16/8/2018, Phó Thủ tướng Thường trực Trương Hòa Bình có ý kiến chỉ đạo tỉnh Hà Giang và Bộ VHTTDL có báo cáo về quá trình xử lý kiến nghị của ông Vương Duy Bảo, trong đó có việc cấp quyền sử dụng đất, báo cáo Thủ tướng trước ngày 31/8/2018.
Ngày 10/8/2018 các cơ quan chức năng của Bộ VHTTDL đã có buổi làm việc với cá nhân ông Vương Duy Bảo. Hai bên đã thống nhất việc giải quyết, trả lại quyền sử dụng đất gắn với Khu Di tích quốc gia Khu nhà Vương thuộc thẩm quyền của UBND tỉnh Hà Giang. Bộ đã có công văn đề nghị UBND tỉnh Hà Giang giải quyết vấn đề này.
Ngày 23/8/2018, Giám đốc Sở TN-MT Hà Giang đã ban hành quyết định thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất Khu Di tích kiến trúc nghệ thuật Nhà Vương đã cấp cho Phòng Văn hóa và Thông tin huyện Đồng Văn.
Ngày 15/5/2019, UBND huyện Đồng Văn (Hà Giang) đã cấp Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất số CR 513310 cho Di tích Kiến trúc – Nghệ thuật Khu Nhà Vương.
Những người đứng tên trong giấy chứng nhận gồm: ông Vàng Sia Na; ông Vương Duy Bảo; ông Vương Duy Ngọc; ông Vàng Mí Sèo; ông Vàng Sẻ Dìa; ông Vàng Chìa Phình; ông Vàng Mi Vu; ông Vàng Mí Chơ; ông Vàng Mí Nô; ông Vàng Mí Sinh; bà Vương Thị Sy; bà Vương Thị Hoa; bà Vàng Thị Mây; bà Vàng Thị Giàng; bà Vàng Thị Chờ; bà Vàng Thị Vá.
Khu Nhà Vương là kiến trúc dinh thự kiêm chức năng pháo đài phòng thủ của dòng họ Vương, thuộc địa phận xã Sà Phìn, huyện Đồng Văn, tỉnh Hà Giang. Khu nhà này do cụ Vương Chính Đức khởi dựng năm 1919, khánh thành năm 1928.
Với những giá trị lịch sử, văn hóa và khoa học đặc sắc của di tích, ngày 23/7/1993, Bộ trưởng Bộ Văn hóa – Thông tin đã quyết định xếp hạng Khu Nhà Vương là di tích kiến trúc – nghệ thuật. Ngày nay, Khu di tích Nhà Vương đã thực sự trở thành một điểm đến hấp dẫn trong tuyến du lịch văn hóa – sinh thái khu vực cao nguyên đá Đồng Văn.
Kiên Trung – Đào Thanh
***
Sống trong di sản – Những người làm nên di sản
NN – Thứ Năm 01/06/2023 , 10:08
Gã trai Nùng cần mẫn biến mảnh nương thành thửa ruộng trái tim diễm tình, những viên đá mồ côi được gom lại thành rào đá… Người dân nơi đây đã làm nên di sản!
Sa mộc buồn rủ bóng xuống nhà Vương
“Thửa ruộng bậc thang hình trái tim” ở xã Thèn Phàng, huyện Xín Mần đã trở thành từ khóa tìm kiếm trên mạng xã hội. Người làm nên tác phẩm đó là Sín Văn Tinh, người Nùng, sống ở Thèn Phàng. Những người như ông Sín Văn Tinh, một cách tình cờ, không chủ ý, đã góp phần tạo nên những danh thắng cho quê hương.
Ông Sín Văn Tinh năm nay ở độ tuổi ngoài 60. Gia đình ông vừa xây cất xong ngôi nhà kiên cố ở ngay đỉnh dốc, cách trung tâm xã Thèn Phàng chừng non cây số.

Chàng trai Nùng Sín Văn Tinh, bản Thèn Phàng và tác phẩm thửa ruộng bậc thang hình trái tim do anh tạo tác. Ảnh: Kiên Trung.
Ngôi nhà chưa hoàn thiện, đang chờ tường xi-măng khô để quét ve, sơn màu, nhưng ở vùng cao đầy khó khăn này, nó là một trong những công trình to lớn hiếm hoi. Làm đủ nghề mưu sinh, từ xay xát thóc gạo, buôn bán lương thực, tham gia Hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp Thèn Phàng, sản xuất gạch bán cho bà con trong bản xây nhà…, Sín Văn Tinh là điển hình của một người đàn ông Nùng nghị lực.
Trong ngôi nhà còn thơm mùi vôi mới, ông đón chúng tôi như đón người thân sau nhiều năm mới gặp lại. Hơn chục năm trước, trong một chuyến công tác tại Xín Mần, thửa ruộng bậc thang hình trái tim của Sín Văn Tinh khiến chúng tôi tò mò, phải hỏi thăm bằng được chủ sở hữu. Và, mối lương duyên với người đàn ông người Nùng duy trì từ bấy tới giờ.
Thửa ruộng mang hình dáng một trái tim khổng lồ bằng đất, đẹp đến độ hoàn hảo, ngự trên đỉnh núi, xung quanh là những ruộng bậc thang trùng điệp. Nó là kết quả của bao mùa đắp đất be bờ, vạc bờ, rồi lại vạc bờ, cuốc góc…, cứ thế mà thành hình.

Thửa ruộng bậc thang hình trái tim giữa bản Thèn Phàng đã thành hình, tồn tại suốt mấy chục năm qua…

Chủ nhân của nó, ông Sín Văn Tinh, chàng trai Nùng năm xưa nay tóc đã điểm bạc, đã lên ông, lên bà. Ảnh: Kiên Trung.
Sín Văn Tinh là con út trong gia đình gồm sáu anh chị em. Bố mất năm anh được gần 3 tuổi, mẹ tần tảo nuôi đàn con khôn lớn. Năm 1993, anh lấy vợ – chị Sùng Thị Vẻ, ở bản Pồ Cố. Như bao thanh niên người Nùng khác, đôi vợ chồng trẻ tự bươn chải gây dựng cuộc sống. Đất đai, dù nhọc nhằn, khô cằn, nhưng nó là thứ quý giá thiên nhiên ban tặng, nó sẽ nở hoa, cho thóc gạo, cho ngô khoai… nếu như đổ mồ hôi, công sức cải tạo.
Thửa ruộng hình trái tim là một trong số những mảnh nương của vợ chồng Sín Văn Tinh. Qua bao mùa lúa, mỗi lần, vợ chồng anh sửa sang một tí, đẽo gọt một chút…, mà thành hình trái tim đẹp đẽ, mộng mơ tự bao giờ. Điều đó không biết là may mắn cho Sín Văn Tinh hay may mắn cho Thèn Phàng, bởi nó đã tạo nên một tuyệt tác tạo sức hút mê đắm khiến những du khách khi lên Xín Mần, đều tìm đường đến tận nơi chiêm ngưỡng.

Những thửa ruộng bậc thang của Hoàng Su Phì được phong di sản. Ảnh: Huy Hà.
Giống như vùng xuôi canh tác lúa nước, qua nhiều thế hệ, kỹ năng trồng cấy đã trở thành kiến thức, sau đó được nâng tầm thành văn hóa, phong tục…, thì vùng cao, ruộng bậc thang cũng vậy. Nó là phương thức canh tác hình thành do địa bàn đồi núi dốc, không giữ được nước. Các thửa ruộng giật cấp, từ cao xuống thấp, mỗi cấp lại được đắp đất tạo bờ, vừa giữ nước, ngăn không bị xói mòn, rửa trôi dinh dưỡng đất… Cả một quần thể ruộng bậc thang liền kề, nối tiếp nhau, tạo thành bức tranh như tạc, như vẽ giữa núi rừng.
Bức tranh ấy thay đổi màu sắc theo các thời điểm trong năm, theo thời vụ sinh trưởng của cây lúa. Hình thù của bức tranh được tạo nên từ hình thù của những thửa ruộng, như ruộng bậc thang mâm xôi (thôn Khòa Hạ, xã Nậm Khòa), hay thửa ruộng trái tim của Sín Văn Tinh.
Hoàng Su Phì có 3.720,6 ha ruộng bậc thang trải đều khắp 24/24 xã, thị trấn. Năm 2012, 1.380ha ruộng bậc thang của Bản Phùng, Bản Luốc, Sán Sả Hồ, Hồ Thầu, Thông Nguyên, Nậm Ty, Tả Sử Choóng, Bản Nhùng, Pố Lồ, Thàng Tín, Nậm Khòa được công nhận là Di tích danh thắng Quốc gia. Những thửa ruộng uốn lượn trùng điệp như có chân để chạy, từ ven suối lên đỉnh núi, được làm nền và đẹp đẽ thêm bởi những cánh rừng nguyên sinh, những nương chè cổ thụ, những dòng sông, khe suối, những mây trời và những bản làng…

Những người dân bản địa, họ là chủ nhân, là những người làm nên di sản. Ảnh: Huy Hà.
Tôi hỏi anh Sín Văn Tinh, thửa ruộng hình trái tim đẹp đẽ, mộng mơ ấy có phải là món quà tỏ tình của chàng trai Nùng với cô thiếu nữ Sùng Thị Vẻ ở bản Pồ Cố hay không, anh cười, thật thà: “Nó chỉ là thửa ruộng thôi. Mình đắp đất, bỗng nhiên nó thành vậy…”.
Nhưng, dù có như thế nào thì hãy cứ tin, mảnh ruộng hình trái tim đẹp đẽ nằm ở nơi bốn mùa sương giăng mây phủ, nó gắn với một câu chuyện tình mà trai gái bản Díu vẫn kể cho nhau, đấy là tác phẩm từ tình yêu mà Sín Văn Tinh thao thức bao đêm để dành tặng người mình yêu, dù bây giờ, chàng trai, cô gái Nùng ấy tóc đã điểm bạc, đã lên ông lên bà, đã có đàn cháu chạy nhảy đầy nhà…
Sống ở nơi khó khăn, khắc nghiệt giữa vùng đá Đồng Văn hay mênh mông núi đất ở Xín Mần, Hoàng Su Phì…, những huyền thoại, những câu chuyện tình diễm lệ, những mộng mơ…, nó là thứ giữ chân và xua tan những mệt mỏi, buồn phiền, xua tan những âu lo nghèo khó, xua tan những xa ngái của quãng đường thác ghềnh, vì cứ qua một khúc quanh, một vực sâu, hẻm núi…, thiên nhiên đẹp như tranh vẽ, đã là một món quà.
“Món quà” ấy giờ đã được công nhận là di sản. Những bản làng người Mông, Dao, Nùng, Giáy, Tày, Xuồng, Lô Lô… sống trong lõi di sản, là một phần của di sản. Những người dân bản địa như Sín Văn Tinh, đã góp phần tạo nên di sản!
Đắp đá kê cao quê hương
Cung đường từ tỉnh lị Hà Giang xuôi quốc lộ 4C lên cao nguyên đá, bỏ qua những khúc cua tay áo nổi danh, xứ đá ập vào mắt du khách với những điệp trùng.

Những hàng rào đá hộc ở Cán Chu Phìn. Ảnh: Kiên Trung.
Thế nhưng, dù chỉ là một xóm nhỏ vài ba nóc chụm đầu dưới một thung sâu, hay một bản làng cả trăm mái nhà sum tụ dưới tán rừng sa mộc cổ thụ…, không khó để nhận thấy, vây xung quanh mỗi nhà là một bờ rào đá. Những viên đá mồ côi, đá hộc, đủ hình thù, kích cỡ… được gom nhặt, xếp khéo léo thành những tường rào bằng đá cao quá đầu người, viên nọ chồng viên kia không cần thứ gì neo giữ hay chất kết dính…
Bờ rào đá, nó khu biệt ngôi nhà thành một cõi riêng như cột mốc giới, là thứ ngăn cách khu chuồng trại, vật nuôi với khu dành cho người, dù cả hai khu này ở các bản làng vùng cao, đều nằm trên một rẻo đất, cách nhau vài bước chân, qua một hai bậc cửa, và cả hai khu đều không quá nhiều khác biệt.
Chủ tịch xã Khâu Vai Mùa Mí Mua giải thích: Bờ rào đá của người Mông cũng như bờ tường rào của người dưới xuôi có tác dụng bảo vệ ngôi nhà, ngăn cách chuồng trại, bảo vệ vật nuôi. Tuy nhiên, điều đặc biệt, những viên đá xếp thành rào là những viên đá mồ côi nằm sót trong nương. Mỗi lần cày đất, lưỡi cày vấp phải một cục đá trồi lên, người Mông gom lại để lần sau không vấp phải nữa, rồi xếp khéo léo thành tường rào.


Bên những bờ rào đá, những số phận, những cuộc đời, và cả những di sản cũng từ đó được hình thành. Ảnh: Bờ rào đá tại thôn Há Ía. Ảnh: Kiên Trung.
Trên đường đi lên nương, đường đi đến chợ, sang nhà nhau uống rượu, đi chơi xuân hay đi công việc…, gặp một viên đá lạc trên đường, người ta nhặt lấy, mang về, chất lên rào đá. Ngày qua ngày, tháng qua tháng, khi mảnh nương được dọn dẹp sạch hơn, không còn đá mồ côi sót lại, cũng là lúc bờ rào đá đã lừng lững, kiên cố như thành trì.
Dọc những con đường nối bản nọ sang bản kia, từ Thài Phìn Tủng cắt Sà Phìn để đi tắt sang Nhà Vương, từ Sủng Là sang Lao Xa, sang Tà Tủng Chứ, Chính Chúa Lủng, Dính Nhủng…, dừng chân bên Lũng Cẩm xem nhà Pao, hay chạy một mạch từ Đồng Văn sang Mèo Vạc, những bản làng Sán Si Lủng, Há Dán Cô, Cán Chu Phìn…, những ngôi nhà người Mông, Nùng… cũng vẫn dè dặt sau những bờ rào đá, không phân biệt giàu nghèo. Mà, dù có muốn cũng không thể phân biệt được giàu nghèo, bởi bờ rào đá nào cũng giống nhau, sắc đá vùng cao nguyên, viên nào cũng một gam màu xám.
Như ở Cán Chu Phìn, xã giáp ranh với Khâu Vai (huyện Mèo Vạc), hàng trăm bức tường rào đá hộc đẹp đẽ, nguyên sơ… đang có chủ trương làm du lịch. Khách tới thăm những bản làng, ngắm những tường rào đá thô ráp, già nua, cũ kỹ, sẽ thấy được cả sự kỳ công, nhẫn nại của bao thế hệ.


Con người trên cao nguyên đá Cán Chu Phìn. Ảnh: Kiên Trung.
Ngày 3/10/2010, cao nguyên đá Đồng Văn trở thành công viên địa chất UNESCO đầu tiên của Việt Nam và thứ hai ở Đông Nam Á. Năm 2014 và năm 2019, UNESCO tái công nhận cao nguyên đá Đồng Văn là thành viên của mạng lưới Công viên địa chất toàn cầu UNESCO giai đoạn 2015-2018 và giai đoạn 2019-2022. Trong hồ sơ của mình, chắc hẳn, Hà Giang sẽ không thể “bỏ quên” một danh thắng nhân tạo, do những người dân bản địa làm nên, đó là những bờ rào đá hộc.
Người Mông có câu “Tsi muaj lub roob siab dua koj lub hauv caug – không có ngọn núi nào cao hơn đầu gối”. Điều này thật sự thấm thía khi đứng ở giữa vùng đất mà “cúi mặt sát núi, ngẩng mặt đụng trời”…
Tôi cứ như được hối thúc từ trong tâm trí những câu thơ “Nói với con” của nhà thơ người Tày đất Trùng Khánh – nhà thơ Y Phương. Ở Trùng Khánh, Cao Bằng, người Tày cũng nhặt những viên đá mồ côi, kiên trì, nhẫn nại xếp thành những bờ rào đá quanh nhà, ven đường, những bờ rào đá quanh các thửa ruộng… Nó là thành trì để bảo vệ cuộc sống con người, là thứ để khẳng định chủ quyền…
“Người đồng mình thương lắm con ơi
Cao đo nỗi buồn
Xa nuôi chí lớn
Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn
Sống trên đá không chê đá gập ghềnh
Sống trong thung không chê thung nghèo đói
Sống như sông như suối
Lên thác xuống ghềnh
Không lo cực nhọc
Người đồng mình thô sơ da thịt
Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con
Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương
Còn quê hương thì làm phong tục…”.
(Nói với con – Y Phương)
Kiên Trung – Đào Thanh