- Bài 1 – Rào cản trong dạy và học tiếng Việt
- Bài 2 – Giải pháp tăng cường tiếng Việt cho học sinh DTTS
***
Gian nan dạy – học tiếng Việt, tiếng dân tộc thiểu số
11:17 – 28/01/2016
BP – Bình Phước là tỉnh trung du miền núi, với 41 thành phần dân tộc, trong đó có khoảng 20% là đồng bào dân tộc thiểu số. Dân cư không tập trung, nhất là ở vùng sâu, xa, biên giới, ảnh hưởng nhiều đến việc dạy và học tiếng Việt. Vì trò phải học tiếng Việt, thầy phải học tiếng dân tộc thiểu số từ các em để lên lớp… Từ đó, có biết bao câu chuyện “cười ra nước mắt” và đặt ra những vấn đề rất căn bản nhưng lại vô cùng quan trọng đối với ngành giáo dục.
Các cháu tại điểm lẻ thôn 2, Trường mầm non Hoa Lan trong lớp học
Bài 1 – Rào cản trong dạy và học tiếng Việt
Dạy và học tiếng Việt đối với học sinh dân tộc thiểu số (DTTS) là việc rất vất vả đối với cả thầy và trò ở vùng đồng bào DTTS. Vì thế, đây là một trong những nguyên nhân khiến nhiều trường có học sinh yếu, kém và cũng là lý do dẫn đến phổ cập giáo dục tại Bình Phước gặp nhiều khó khăn, nhất là bậc mầm non và tiểu học.
Trở ngại từ thói quen
Là nơi có nhiều đồng bào dân tộc S’tiêng sinh sống nên Trường mầm non Hoa Lan ở xã Đồng Nai (Bù Đăng) có trên 40% học sinh DTTS. Vì vậy, việc truyền đạt tiếng Việt cho trẻ gặp nhiều trở ngại. Cô Đào Thị Thu, Phó hiệu trưởng của trường kể cho chúng tôi nghe câu chuyện của những người không biết chữ, không biết phép nhân, chia, cộng, trừ ở nơi cô sinh sống. Khi gặp đồng bào đi bán hạt điều, cô thường hỏi: “Năm nay nhà cô, chú… được bao nhiêu bao điều?” thay vì hỏi được mấy tấn, tạ, vì họ không biết tính toán nên chỉ đóng bao, rồi nhờ người biết chữ đếm.
Trường mầm non Hoa Lan, ngoài điểm chính còn có 3 điểm lẻ ở các thôn 1, 2 và 5, trong đó 2 điểm 100% trẻ DTTS. Ở điểm lẻ thôn 2, chúng tôi ghi nhận tại đây chỉ có 8 trẻ, độ tuổi từ 1-5. Cô Nông Thị Dương Tiểu, giáo viên phụ trách điểm lẻ cho biết, sĩ số lớp có 16 em nhưng do sát bên là điểm lẻ của Trường tiểu học Đồng Nai, học sinh vừa thi học kỳ xong được nghỉ nên trẻ ở đây cũng tự ý nghỉ theo. Thấy người lạ, các cháu tỏ vẻ nhút nhát và không muốn nói chuyện. Thị Lan 4 tuổi, được cô Tiểu nhận xét là lanh lợi, ngoan nhất lớp nhưng khi tôi hỏi tên và trò chuyện, cháu không trả lời mà chỉ cắn móng tay.
Gia đình đóng vai trò rất quan trọng trong việc cho trẻ làm quen và học tiếng Việt. Ở các điểm trường đông trẻ DTTS, ban giám hiệu luôn khuyến khích phụ huynh sử dụng tiếng Việt hằng ngày để con trẻ rèn luyện nhiều hơn nhưng phương pháp này không hiệu quả. Anh Điểu Thọ (30 tuổi), có con đang học lớp lá tại Trường mầm non Hoa Lan cho biết: “Ở nhà, chúng tôi không muốn con nói tiếng Việt, vì sợ nó quên tiếng dân tộc. Ở trường, chúng nói vậy là đủ rồi. Chỉ cần các cháu biết nói để giao tiếp là được”.
Trẻ em DTTS vốn đã quen môi trường giao tiếp bằng tiếng “mẹ đẻ”. Điều kiện ở vùng sâu, xa, đường đi khó khăn, chủ yếu là người DTTS sống tập trung nên trẻ ít có cơ hội giao tiếp bằng tiếng Việt. Do đó, đến tuổi đi học mầm non, việc tiếp cận tiếng Việt đối với trẻ trở nên khó khăn. Để trẻ em DTTS có thể sử dụng tiếng Việt thuần thục là cả một quá trình của nhà trường với nhiều biện pháp, hình thức cụ thể.
Ra lớp không đúng độ tuổi
Một trong những trở ngại trong việc dạy tiếng Việt cho trẻ là các em đi học không đúng độ tuổi. Trường hợp này hầu hết rơi vào những điểm lẻ ở vùng có điều kiện kinh tế khó khăn. Có nơi, trẻ lên 5 tuổi phụ huynh mới cho con đi học.
Tại điểm lẻ lớp lá ở ấp Tranh 3, Trường mầm non Quang Minh (Chơn Thành), giáo viên không khỏi “đau đầu” về việc đi học không đúng độ tuổi của trẻ. Điểm lẻ gồm 15 học sinh nhưng có tới 6 trẻ 5 tuổi mới bắt đầu ra lớp học. Điểu Nhật năm nay 5 tuổi nhưng tháng 9-2015 mới ra lớp mầm non. Gia đình Nhật có 4 anh chị em, thường ngày em theo cha mẹ đi làm thuê khắp nơi. Khi gần bước vào bậc tiểu học, được cô giáo vận động, cha mẹ mới cho em đi học. 5 tuổi nhưng Nhật cũng không khác gì đứa trẻ mới 3 tuổi, chưa biết được mặt chữ số.
Cô Nguyễn Thị Nguyệt, Trường mầm non Thuận Lợi (Đồng Phú) cũng cho biết: “Nhiều gia đình cho trẻ đi học trễ, không theo kịp các bạn nhưng cứ đến kỳ thu học phí là họ lại cho con nghỉ, dù trường đã hỗ trợ, tạo điều kiện rất nhiều như: Phụ huynh có bao nhiêu thì đóng bấy nhiêu, trường vẫn đồng ý thu và có thể kéo dài hết năm học, thậm chí còn cho khất đến năm sau nhưng vẫn rất nhiều phụ huynh không cho con đi học, dẫn đến gần vào lớp 1 trẻ mới được đến trường”.
Cô Võ Thị Mùi, dạy ở điểm Tranh 3, Trường mầm non Quang Minh cho biết: Việc ra lớp trễ không chỉ thiệt thòi cho trẻ mà còn ảnh hưởng đến trẻ khác, vì các cô phải dành nhiều thời gian để truyền đạt, giúp các cháu có thể theo kịp bạn trong lớp.
Theo giáo viên dạy ở các điểm lẻ DTTS, nếu trẻ đi học đúng độ tuổi (3 tuổi) thì khi vào lớp 1 các cháu có thể nói sõi tiếng Việt, thuận lợi tiếp nhận kiến thức, giúp trẻ có nền tảng để học tập tốt hơn.
Thiếu giáo viên “song ngữ”
Hầu hết điểm lẻ của các trường đều không có giáo viên biết tiếng DTTS. Kinh phí hỗ trợ giáo viên cũng như đầu tư cơ sở vật chất, thiết bị, đồ dùng đồ chơi phục vụ giảng dạy chưa đáp ứng nhu cầu. Bởi các điểm lẻ thường là cơ sở tạm, mượn. Giáo viên chủ yếu là người Kinh và không được đào tạo tiếng DTTS.
Để hạn chế những rào cản, các trường đã tự linh động tìm giải pháp giúp giáo viên có thể biết tiếng dân tộc. Trường mầm non Hoa Lan ở xã Đồng Nai, hiện có một hiệu phó phụ trách bán trú và một nhân viên y tế là người S’tiêng nên 4 năm qua, trường tự mở lớp bồi dưỡng tiếng dân tộc cho giáo viên dịp cuối tuần. Qua đó, giáo viên biết một số từ thông dụng, có thể hỗ trợ trong quá trình truyền đạt tiếng Việt cho học sinh, nhất là ở nhóm nhà trẻ.
Những trường không có giáo viên DTTS như mầm non Quang Minh (Chơn Thành), Ban giám hiệu đã nhờ người dân biết tiếng Việt hỗ trợ khi giáo viên nói nhưng học sinh chậm hiểu. Ngay bên cạnh điểm lẻ lớp lá của Trường mầm non Quang Minh, có một chị trước đây là cán bộ xã. Hằng ngày, hễ gặp khó khăn, giáo viên lại nhờ chị qua lớp để truyền đạt lại ý của giáo viên bằng tiếng dân tộc cho các em hiểu.
Với các điểm lẻ có đông học sinh DTTS như điểm ấp Thuận Tiến, Trường mầm non Thuận Phú (Đồng Phú) có chủ trương để giáo viên dạy lâu năm, sống gần gũi với đồng bào phụ trách lớp học này. Cô Đinh Thị Luận Hiền, Hiệu trưởng trường cho biết: “Đây là biện pháp trường duy trì nhiều năm nay để hạn chế khó khăn trong việc dạy tiếng Việt cho trẻ người DTTS nhưng cũng chỉ là tạm thời và hiệu quả không cao”.
|
Hải Yến
***
Gian nan dạy – học tiếng Việt, tiếng dân tộc thiểu số – Bài 2
GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG TIẾNG VIỆT CHO HỌC SINH DTTS
BP – Tiếng Việt đối với học sinh lớp 1 người DTTS giống như một môn ngoại ngữ. Điều kiện để trẻ vào tiểu học là phải biết tiếng Việt, từ đó mới có thể tiếp thu kiến thức các môn học khác. Thế nhưng, ở nhiều điểm lẻ các trường tiểu học có đông đồng bào DTTS sinh sống, việc thực hiện điều kiện này lại vô cùng khó khăn. Để giao tiếp được bằng tiếng Việt phải trải qua quá trình rèn luyện lâu dài của các em cùng sự nỗ lực, kiên trì của giáo viên đứng lớp.
TÂM HUYẾT VỚI HỌC SINH
Chúng tôi có dịp tham dự buổi học tăng cường tiếng Việt của học sinh lớp 1 ở điểm lẻ Bù Núi, Trường tiểu học Lộc Tấn B (Lộc Ninh). Để các em dễ tiếp thu, giáo viên đứng lớp vừa chỉ cho học sinh biết tên đồ vật vừa giải thích cặn kẽ cấu trúc của từ, câu thông qua việc nhìn – đọc – hiểu. Tuy vậy, với một số từ khó, những bài tập đọc, tập viết mới, các em phát âm rất hạn chế hoặc ghép vần sai. Cô Lê Thị Quỳnh Như, giáo viên phụ trách lớp cho học sinh đọc từ ghép “tiếng hót” nhưng vẫn có một số em phát âm là “tiêng hot”. Khi ghép trên bảng chữ cái vần “ót”, một số em không biết điền dấu hoặc có điền nhưng bị sai thành “òt”.
Một tiết tăng cường tiếng Việt ở điểm lẻ ấp Bù Núi, Trường tiểu học Lộc Tấn B, xã Lộc Tấn
Cô Như chia sẻ: “Đa số học sinh DTTS, không chỉ lớp 1 mà lớp 2 phát âm vẫn rất khó, nhiều từ không dấu đọc thành có dấu, từ có dấu các em lại tự bỏ dấu… Để rèn cho học sinh đọc đúng, thông thạo tiếng Việt, chúng tôi phải nỗ lực, kiên trì rất nhiều”. Lớp của cô Như có 27 học sinh, trong đó gần 80% là học sinh dân tộc S’tiêng. Điểm trường Bù Núi hầu hết trẻ đều không ra lớp mầm non nên việc học tiếng Việt đối với học sinh lớp 1 rất khó. Khi mới nhận lớp, cô Như phải chỉ cho các em cách cầm bút, cũng như chào hỏi để học sinh dần quen với môi trường học tập. “Có nhiều trường hợp ra lớp 1 nhưng học sinh không có giấy khai sinh, trường vẫn phải nhận và làm giấy khai sinh cho các em. Học sinh tiếp thu bài rất chậm, tôi tranh thủ rèn thêm cho các em vào giờ ra chơi và thường xuyên nói chuyện bằng tiếng Việt với học sinh. Đây cũng là cách dạy hiệu quả nhưng đòi hỏi giáo viên phải kiên trì và tâm huyết” – cô Như nói.
Với các điểm trường xa trung tâm huyện, việc dạy và học tiếng Việt càng khó khăn hơn. Tiểu học Thuận Lợi B là trường xa trung tâm của huyện Đồng Phú. Ngoài điểm chính, trường có 3 điểm lẻ, trong đó 2 điểm lẻ 100% học sinh dân tộc S’tiêng. Đến điểm lẻ Cầu Đôi ở ấp Thuận Tiến, chúng tôi thấy cô giáo Bùi Thị Hà đang dạy 7 học sinh tập đọc. Đứng bên ngoài, nếu không lắng nghe kỹ thì không thể biết các em đang phát âm chữ gì. Cô Hà đang hướng dẫn cho học sinh làm quen với đề kiểm tra học kỳ 1, tập cho các em nối từ với hình ảnh phù hợp. Cô Hà giải thích, ở lớp chú trọng tăng cường tiếng Việt và dạy học sinh làm phép toán nên không đủ thời gian hướng dẫn những mẫu đề kiểm tra.
“Đầu tháng 8 tôi nhận lớp. Cả lớp có 7 học sinh nhưng đến 5 em phải cầm tay uốn chữ, vất vả không khác gì dạy lớp có 25-30 học sinh. Các em gần như không biết sử dụng tiếng Việt. Lớp 1 thường hơn 10 giờ là nghỉ nhưng có hôm đến hơn 12 giờ, tôi mới được về, bởi các em tiếp thu bài rất chậm” – cô Hà cho biết.
NHIỀU GIẢI PHÁP ĐƯỢC ÁP DỤNG
Tăng cường tiếng Việt cho học sinh DTTS và học sinh học yếu môn tiếng Việt là chủ trương đúng giúp các em dễ tiếp thu bài. Ngay từ đầu năm học, ngoài chỉ đạo của Sở GD-ĐT, các trường có đông học sinh DTTS đã chủ động xây dựng nhiều phương pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy tiếng Việt cho học sinh.
Cô Đoàn Thị Hiền, Hiệu trưởng Trường tiểu học Lộc Tấn B cho biết: Kết thúc học kỳ 2 một tuần, giáo viên trong trường có trách nhiệm nắm bắt trẻ ở địa bàn trong độ tuổi ra lớp 1 vào đầu năm học mới. Bằng mọi cách phải vận động được các em đến lớp để dạy 36 buổi tiếng Việt cho trẻ chuẩn bị vào lớp 1. Nói là 36 buổi nhưng có khi vượt rất nhiều, vì hầu hết trẻ đều chưa qua lớp mẫu giáo.
Học sinh Trường tiểu học Lộc Tấn B trong giờ học tăng cường tiếng Việt
Không phải giáo viên nào cũng có thể dạy được ở các điểm lẻ có học sinh DTTS. Ban giám hiệu phải đưa những giáo viên có thâm niên, nhiệt huyết, kiên trì để đảm nhiệm những lớp học này. Có phụ huynh còn chọn cả giáo viên cho con em họ. Nếu không họ sẽ không cho con đến lớp.
“Ban giám hiệu trường cho phép giáo viên đứng lớp điều chỉnh dạy tiếng Việt bằng cách: Khi đã dạy tăng buổi trong tuần hoặc dạy 2 buổi/ngày cho học sinh lớp 1 và những em học yếu môn Tiếng Việt nhưng vẫn chưa đạt kết quả tốt, giáo viên có thể trao đổi với đồng nghiệp dạy các môn học khác nhường thời gian để tập trung dạy tiếng Việt” – Hiệu trưởng Đoàn Thị Hiền nói.
Tương tự, Trường tiểu học Thuận Lợi B trong chương trình SEQAP (Đảm bảo chất lượng giáo dục trường học), mỗi tuần có 2 buổi dành thời lượng để học sinh tập phát âm và sử dụng tiếng Việt. Trường còn tổ chức các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp nhằm tăng cường kỹ năng giao tiếp bằng tiếng Việt. Giáo viên đứng lớp chọn một học sinh DTTS tiếp thu nhanh, nói thông, viết thạo tiếng Việt để hỗ trợ giáo viên trong quá trình truyền đạt. Trước năm học mới, trường tổ chức dạy tăng cường tiếng Việt cho học sinh 6 tuần, tương đương 114 tiết. “Cái khó nhất là trẻ người DTTS không chịu ra học mầm non nên khi vào lớp 1 các em thường nhút nhát”. Vì vậy, việc dạy tiếng Việt cho trẻ gặp nhiều trở ngại – cô Lê Thị Sinh, Hiệu trưởng Trường tiểu học Thuận Lợi B cho biết.
Dù còn nhiều khó khăn nhưng sự nỗ lực của đội ngũ giáo viên đã và đang giúp hàng ngàn học sinh DTTS trong tỉnh vận dụng tốt ngôn ngữ phổ thông, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục ở Bình Phước.
Hải Yến