Thổn thức bản nghèo-Kỳ 1: Bóng tối dưới chân đèn
TP – Trong chiều dài một km nhưng sông Nậm Mộ đã phải gánh 3 nhà máy thủy điện. Hệ lụy nhãn tiền, người dân oằn mình chịu đựng. Lợi đâu chưa thấy nhưng khó khổ đã thấy nhiều.

Những hộ dân ở bến thượng lưu lòng hồ thủy điện Bản Vẽ
Ngược dòng Nậm Mộ
Giữa tháng 7, chúng tôi trở lại xã Tà Cạ, huyện Kỳ Sơn (Nghệ An). Con đường xưa cũ nay được mở rộng, thảm nhựa giúp chúng tôi đến với Tà Cạ nhanh hơn. Những bản làng nằm vắt vẻo bên sườn núi, bờ sông là nơi sinh tồn bao đời nay của cộng đồng dân tộc Thái, Khơ Mú…. Giao thông đã thuận lợi hơn những năm về trước nhưng Tà Cạ vẫn thế, như một đóa hoa rừng chưa đến thì bung nở. “Thủy điện lần lượt chắn dòng, sông Nậm Mộ bị chia cắt thành nhiều đoạn, chỉ 1km đã có 3 nhà máy, nếu tính mật độ và số lượng nhà máy thủy điện thì không địa phương nào nhiều hơn Tà Cạ. Thế nhưng, 3 bản của xã vẫn chưa có điện lưới. Ánh sáng từ điện còn chưa có, nói gì đến phát triển kinh tế”, ông Vi Văn Mằn – Chủ tịch xã Tà Cạ trầm buồn lí giải.
Nậm Mộ đoạn qua bản Cánh (xã Tà Cạ) mùa này tĩnh lặng không một gợn sóng, dòng chảy cuộn xiết đầu nguồn là điều vốn có của một dòng sông nay đã mất đi. Trên sông không có một thuyền bè nào qua lại. Cảnh người dân hối hả chài lưới từ lâu đã không còn. “Trước khi làm thủy điện, thủy sản nhiều lắm, dân đánh bắt đủ ăn, đủ sống”, ông Vi Văn Mằn cho hay. Lục tìm hồi ức, một già làng ở bản Cánh kể: “Tà Cạ vốn là một vùng rừng núi hoang vu không có dấu chân người, rồi một vị tướng lưu lạc đến và khai phá, làm cho mảnh đất này trở nên trù phú, người muôn nơi đến cư trú nhiều hơn. Bản làng đông vui, thuyền trên, bến dưới, Nậm Mộ tấp nập người buôn bán, giao thương”. Vật đổi sao dời, Nậm Mộ giờ như một khúc sông chết, dòng chảy tùy thuộc vào 3 nhà máy thủy điện án ngữ bấy lâu.
Nhà máy thủy điện Bản Cánh, Nậm Mô, Nậm Cắn 2 là những cái tên được ngành công thương “ưu ái” lĩnh xướng làm thay đổi lịch sử Nậm Mộ. Những nhà máy thủy điện này được ví von như những cây đèn lớn chiếu sáng mọi nơi, nhưng dưới chân đèn ấy vẫn còn một khoảng tối. “Người dân bức xúc vì những thiệt thòi, xã có 3 thủy điện, bản làng cách thủy điện chỉ 5km nhưng lại không có điện. Mọi sinh hoạt, lao động, sản xuất của người dân phải dừng khi mặt trời khuất núi. Dân trí thấp, ai cũng mong muốn thế hệ trẻ học hành chăm ngoan, ngày sau xây dựng quê hương giàu đẹp nhưng không có điện thì việc học của các cháu cũng chẳng khá hơn, chương trình học nâng cao làm sao theo kịp…?”, Chủ tịch UBND xã Tà Cạ chia sẻ.
Nhà máy thủy điện mọc lên như “nấm sau mưa” nhưng sau mỗi cơn mưa dài ngày là sự giận dữ của “mẹ thiên nhiên”. Chính tại xã Tà Cạ, trận “đại hồng thủy” năm 2018 trên dòng Nậm Mộ là một minh chứng còn mãi ám ảnh người dân bản địa. Nước cuồn cuộn từ thượng nguồn đổ về như con thủy quái ập đến bản làng bình yên. Lưu lượng nước lớn làm thay đổi dòng chảy, nhà trôi, đất lở, người dân thất thần nhìn cảnh tan hoang. Cùng với việc nhà máy thủy điện Nậm Mô xả đáy, phía hạ du các xã Tà Cạ, Chiêu Lưu, Hữu Kiệm, thị trấn Mường Xén trải qua những ngày thảm họa. Cũng chính trong trận lũ 2018, cách chân đập nhà máy thủy điện Nậm Mô khoảng 50m phía hạ du sạt lở nghiêm trọng, đường nội bộ của nhà máy này bị sập hoàn toàn, nhiều “hàm ếch” ăn sâu vào bờ đe dọa hơn 100 hộ dân sinh sống gần đó. Quốc lộ 7B đi xã biên giới Mường Ải, Mường Típ nhiều đoạn bị xóa sổ.

Anh Moong Văn Dậu cùng người dân bản Nhãn Lỳ sửa tua bin phát điện
Hệ lụy nhãn tiền chồng chất, người dân oằn mình gánh chịu, thế nhưng khi nhắc tới công tác an sinh xã hội của 3 nhà máy thủy điện trên địa bàn, ông Vi Văn Mằn – Chủ tịch xã Tà Cạ lắc đầu: “Một năm, thủy điện Nậm Cắn 2 và thủy điện bản Cánh hỗ trợ người nghèo khoảng 30 triệu đồng. Còn thủy điện Nậm Mô thì hỗ trợ 40 suất, mỗi suất 500 nghìn đồng”, ông Mằn nói.
“Khát điện” ngay cạnh thủy điện
Cùng chúng tôi tới bản Nhãn Lỳ, chỉ về con suối uốn lượn quanh bản, Chủ tịch UBND xã Tà Cạ Vi Văn Mằn cho biết, đó là suối Huồi Hiện, là ánh sáng của bản Nhãn Lỳ. Khoảng cách không xa với các nhà máy thủy điện nhưng bản Nhãn Lỳ không có điện lưới, toàn bộ người dân đều phải dùng tua bin để phát điện. Vừa trở về từ nương rẫy, anh Moong Văn Dậu (SN 1984) lại hối hả xuống suối sửa tua bin để tối nay cả nhà có điện dùng. “Tổ tiên sống ở Nhãn Lỳ và đời chúng tôi cũng thế, cuộc sống quanh năm dựa vào cây lúa, cây ngô trên rẫy. Điện lưới không có, dân bản phải xuống suối Huồi Hiện để lắp tua bin. Mỗi khi nước suối chảy mạnh thì điện sáng, còn không thì điện chập chờn, lúc được lúc mất”, anh Dậu cho hay.
Toàn xã Tà Cà có 1.154 hộ dân, 40% hộ nghèo, chủ yếu là người dân tộc Khơ Mú, Thái, Mông. Riêng bản Nhãn Lỳ có 56 hộ dân, toàn bộ là dân tộc Khơ Mú, 100% hộ nghèo.
Khuôn mặt khắc khổ vì sương gió mưu sinh, anh Dậu cũng như những người dân khác của bản, từ nhỏ đã biết lắp đặt và tháo tua bin thành thạo. Quãng thời gian mòn mỏi chờ điện cũng là quãng thời gian suối Huồi Hiện mang sứ mệnh hun đúc hi vọng trong lòng người Nhãn Lỳ về một ngày mai đổi thay. Theo một số người cao niên của bản, khoảng 25 năm trước, Nhà nước cấp cho bản Nhãn Lỳ 3 cái tua bin nhưng máy công suất lớn còn nước suối thì yếu nên không thể sử dụng. Không từ bỏ mang ánh sáng chiếu rọi bản làng, người dân Nhãn Lỳ bán lúa thu hoạch trên rẫy, bán con gà chăm chút ngoài vườn, tích góp, chắt nhặt mua tua bin mi ni về sử dụng. Mỗi tua bin mi ni có giá dao động từ 2,5 đến 4 triệu đồng. Không ít lần, lũ đổ về trong đêm, những tua bin bị cuốn phăng ra sông Nậm Mộ. Lầm lũi trong đói nghèo nhưng người dân lại phải sắm mới tua bin. Cho đến bây giờ, tua bin là một phương án tốt nhất để người Nhãn Lỳ ra khỏi vùng đêm tối.

Nhà máy thủy điện Nậm Cắn 2
Cùng hỗ trợ anh Moong Văn Dậu khơi thông dòng chảy trên suối, anh Hoa Văn Toàn (Trưởng bản Nhãn Lỳ) thông tin: “Toàn bản có 56 hộ dân thì có khoảng 53 cái tua bin được lắp đặt trên suối Huồi Hiện. Trong 3 hộ dân còn lại có 1 hộ dùng chung tua bin với cha, mẹ, một hộ cách xa suối phải dùng điện từ ắc quy, còn một hộ duy nhất không có tiền để mua tua bin. Trước chưa có thủy điện thì còn bắt con cá, vợt con tôm cải thiện bữa ăn nhưng rồi thủy điện mọc lên, tôm cá cũng chẳng còn. Bữa đói, bữa no, nhiều thanh niên trai tráng rời xứ tha phương cầu thực. Người trong bản không hiểu nổi, tại sao có 3 nhà máy thủy điện gần như thế, lũ lụt dân bản chịu thiệt hại nhưng điện lưới lại không có dùng?”.
Câu hỏi của anh Hoa Văn Toàn và băn khoăn của chủ tịch xã Tà Cạ Vi Văn Mằn cũng là lời thổn thức chung của người dân bản nghèo miền biên viễn.
(Còn nữa)
Cảnh Huệ
***
Thổn thức bản nghèo – Kỳ 2: Lắng nghe dân nghèo nói
TP – Dự án thủy điện “treo” nhiều năm khiến người dân bản nghèo bức xúc, không thể kiên nhẫn chờ đợi, họ kiên quyết phản đối xây dựng thủy điện trên địa bàn khi những dòng sông bị bức tử…
Ai về Nậm Nơn
Để khai sinh ra dòng Lam Giang thơ mộng trữ tình, vun vén bồi đắp phù sa nuôi dưỡng bao thế hệ con người xứ Nghệ, thì phải kể đến mối lương duyên của đôi dòng Nậm Mộ, Nậm Nơn tại Cửa Rào. Nếu ai đã từng ngược nguồn sẽ cảm thấy may mắn bởi chứng kiến được sự hùng vĩ, điệp trùng của sông nước, núi rừng. Nhưng giờ đây, khi hàng loạt nhà máy thủy điện xây dựng, cảm giác ngược nguồn trên dòng sông mang bao hồn cốt ấy đã mất đi. Bao nhiêu dấu tích lịch sử, văn hóa bản địa miền núi xứ Nghệ chìm xuống lòng hồ mênh mông. Không còn những ghềnh thác cheo leo, những bản làng trù phú, những điệu múa, điệu xòe bên bờ sông yên ả. Thủy điện mọc lên dày đặc, cắt xé từng khúc sông, biến những giá trị của cái đẹp dĩ vãng thành mai một dần theo dòng chảy thời gian.

Người dân bản Xằng Trên lên rẫy trồng trọt, xuống sông đánh cá
Rời dòng Nậm Mộ đang ngày đêm thổn thức, chúng tôi sang xã Mỹ Lý (huyện Kỳ Sơn) nơi dòng Nậm Nơn hòa vào đất Việt. Qua những cung đèo uốn lượn giữa núi rừng ngút ngàn, chân chạm Mỹ Lý cũng là lúc chính ngọ. Gặp Chủ tịch UBND xã Mỹ Lý Lương Văn Bảy, chúng tôi ngỏ ý, muốn lên Yên Hòa, Xằng Trên. “Giữa tháng 6 có một đoàn khảo sát của dự án thủy điện Mỹ Lý – Nậm Mô cũng muốn lên các bản ấy để khảo sát lại nhưng xã và đồn biên phòng kiên quyết không cho. Dự án treo hơn chục năm nay, dân khốn khổ lắm rồi và họ cũng không đồng tình với việc xây dựng thêm thủy điện ở địa bàn nữa”, ông Bảy cho biết.

Người dân bản Xằng Trên lên rẫy trồng trọt, xuống sông đánh cá
Nhắc đến Dự án thủy điện Mỹ Lý – Nậm Mô, Chủ tịch UBND xã Mỹ Lý bày tỏ sự quan ngại bởi 10 năm qua, các công trình hạ tầng như trường học, đường giao thông, nhà cộng đồng, điện lưới, nước sinh hoạt… không thể đầu tư vào. Phân tích cái được, cái thiệt khi có thủy điện, ông Bảy trầm ngâm giây lát rồi lắc đầu nói: “Các bản Yên Hòa, Xằng Trên, Xiêng Tắm, Xốp Tụ, Hoa Lý sẽ biến mất dưới lòng hồ, thuyền bè chài lưới cũng không thể tồn tại vì nguồn lợi thủy sản mất hết. Sáng có nước, chiều khô cạn thì cá nào ở được? Đó là chưa nói đến mất đất sản xuất, mất rừng, thay đổi hệ sinh thái. Dự án cứ treo mãi khiến dân hoang mang. Trong các cuộc tiếp xúc cử tri, người dân không đồng ý làm thủy điện. Đối với chính quyền xã cũng vậy, từ năm 2019, những lộ trình về nông thôn mới, chương trình 135, khi có nguồn vốn, xã sẽ bố trí triển khai bình thường, không quan tâm đến dự án thủy điện nữa. Tội người dân quá, thiệt thòi hơn 10 năm rồi”.
Dự án thủy điện Mỹ Lý và thủy điện Nậm Mô 1 được nghiên cứu xây dựng trên thượng nguồn sông Lam, thuộc địa bàn huyện Kỳ Sơn. Chủ đầu tư dự án là Công ty CP thủy điện Mỹ Lý – Nậm Mô. Năm 2011, các ban ngành rầm rộ về khảo sát để xây dựng hai dự án thủy điện trên, hàng trăm hộ dân trong vùng bị ảnh hưởng nhận “lệnh” chuẩn bị di dời. Các công trình phúc lợi dừng xây dựng vào khu vực này. Người dân mòn mỏi chờ đợi để tái định cư, còn dự án vẫn nằm trên giấy.
Tới Xằng Trên
Trời chiều biên viễn, những cơn mưa nặng hạt khiến đại ngàn hun hút hoang vu thêm ảm đạm, buồn hắt buồn hiu. Đường bộ vào Xằng Trên trơn trượt hiểm nguy với dốc dựng đứng, vực thăm thẳm làm chùn bước bất cứ ai có ý định vào bản. Bỏ ý định đi đường bộ, chúng tôi được anh Lô Văn Nót (Cán bộ địa chính xã Mỹ Lý) dẫn xuống bờ sông Nậm Nơn để lên thuyền độc mộc ngược dòng. Khác với lần trước tôi lên tháp cổ Yên Hòa, Nậm Nơn hôm nay nước lớn và lạ lắm. Từng mỏm đá thập thò, nhấp nhô nắn dòng chảy xiết tạo độ khó cho người lái thuyền. Nhưng với người dân Mỹ Lý, Nậm Nơn quá đỗi thân thuộc, từ đánh bắt cá, đi rừng, đi rẫy, thăm thân, thậm chí là nước sinh hoạt cũng dựa vào dòng sông này. Từ bao đời, sông Nậm Nơn là lẽ sống, ý thức tâm linh của cộng đồng dân tộc Thái, Khơ Mú ở chốn thâm sơn, cùng cốc.
Thuyền cập bãi bồi ven sông, chúng tôi tới Xằng Trên, điểm đến là nhà ông Lô Hoành (Bí thư chi bộ). Thấy khách lạ vào bản, trên mỗi căn nhà sàn, người dân ló đầu qua ô cửa nhỏ như để dò xét. Trên đường, chúng tôi gặp chị Vi Thị Phượng gùi rau, củ trên rẫy về, gặp ông Vi Long mang chài xuống sông bắt cá, thấy những đứa trẻ đùa vui bên bậc sàn, cuộc sống yên bình ở bản Xằng Trên… “Dự án thủy điện ấy à? Dân không cho làm nữa. Dân vốn khổ rồi, có thủy điện, dân thêm khổ nữa, không chịu được đâu”, ông Lô Hoành bức xúc khi chúng tôi nhắc đến dự án thủy điện Mỹ Lý – Nậm Mô đang manh nha trên địa bàn.

Nhìn về những ngôi nhà sàn san sát, ông Hoành chia sẻ: “Hằng ngày, sau giờ lao động sản xuất trên nương rẫy, người dân lại về đi chài lưới trên sông. Chăm chỉ như thế là không lo đói lại còn có cá, tôm, bữa ăn có chất mặn. Chứ làm thủy điện rồi thì còn gì nữa. Trước đó, người của dự án thủy điện về bản nói với dân là đang đợi ngoài bộ, ngành, họ không nói thời gian triển khai, không nói chuyện đền bù. Nhà cửa mục nát, hư hỏng, dân muốn làm mới thì họ nói để làm thủy điện. Cứ nghĩ, dự án sớm triển khai và vì làm nhà gỗ, dân ngại tháo ra, lắp vào sẽ hư hỏng. Nhưng đợi mãi, có thấy gì đâu. Hơn 164 hộ dân của bản cứ dài cổ ngóng chờ vậy”.
Nghe Bí thư chi bộ nói, ở ngôi nhà kế cạnh, chị Vi Thị Sen (SN 1984) lên tiếng vọng sang: “Từ năm 2019, bản chúng tôi đã kiên quyết không cho làm thủy điện nữa rồi. Nhà cửa nào hư hỏng thì sửa lại, có tiền thì làm mới. Nãy các anh lên bản thấy bãi bồi bên sông đó, đất tốt trồng được đủ loại rau như rau lang, rau muống… Còn rẫy cũng nằm ven sông, trên rẫy có ngô, có lúa, thủy điện chặn dòng, dân lấy đâu đất trồng trọt. Mớ cá này cũng mới bắt từ sông về”, nói đoạn, người phụ nữ đưa rổ cá ra chứng thực. Không chỉ người dân Mỹ Lý phản đối và kiến nghị dừng dự án thủy điện mà những ngày trước, người dân bản Nhãn Lỳ (xã Tà Cạ – Địa điểm chọn xây dựng thủy điện Nậm Mô 1) cũng đồng quan điểm. Anh Vi Văn Tuấn cho hay: “Làm thủy điện rồi dân phải di dời đến chỗ không có đất sản xuất, nếu có thì cằn cỗi, được ít mất nhiều. Xã có 3 thủy điện mà có giải quyết được điện lưới cho dân đâu”.
Rời Xằng Trên khi cơn mưa rừng chưa ngớt. Tiếng thở dài của các bậc cao niên trong bản cùng ánh mắt ngây thơ của đám trẻ cứ đeo bám chúng tôi. Thuyền độc mộc xuôi dòng Nậm Nơn, tiếng mưa, tiếng máy nổ phá tan sự tĩnh lặng rừng già. Cuộc sống của người dân nghèo ra sao khi thủy điện ngoi lên và họ phải lăn lộn mưu sinh trên lòng hồ?
(Còn nữa)
Cảnh Huệ
***
Thổn thức bản nghèo – Kỳ cuối: Mưu sinh trong lòng hồ
TP – Giữa mênh mông lòng hồ, những căn nhà lụp xụp, những con thuyền lênh đênh trên sóng nước là nơi họ cư ngụ qua ngày. Kim Đa, Tạ Xiêng, Xiềng Lằm, Chà Coong, Xốp Pột… những cái tên chỉ còn trong hoài niệm.
Lênh đênh
Mưa rơi lộp bộp trên mái lều, ngồi ở chiếc ghế mây, chị Vi Thị Thanh (53 tuổi) nhìn ra lòng hồ thủy điện Bản Vẽ, huyện Tương Dương (Nghệ An). Mưa ở chốn “sơn cùng thủy tận” bao giờ cũng vậy, hoang hoải, u buồn. Nước da đen nhẹm lẫn nếp nhăn trước tuổi vì dạn dày sương gió khiến người phụ nữ này thêm phần khắc khổ.
Giật mình tỉnh bởi tiếng gọi mua hàng, chị Thanh hối hả vào bếp pha bát mì tôm cho khách vãng lai lót dạ. Nói là khách nhưng những người ngồi ở trong quán nhỏ hầu hết là đồng hương của bà chủ. Họ vốn cùng bản Kim Đa, sau khi thủy điện Bản Vẽ chặn dòng chia tách bản tái định cư hoặc di vén lên vùng núi cao hơn. Cái tên Kim Đa thân thuộc ngày nào, giờ cũng chỉ còn lại trong hoài niệm của người Khơ Mú khi họ nhớ về cố hương.
Gia đình chị Thanh cũng là một phần nhỏ trong dòng người lũ lượt rời nơi “chôn rau cắt rốn”. Chị Thanh kể, sau khi nhận đất tái định cư ở xã Thanh Sơn (huyện Thanh Chương), vợ chồng chị cùng con dắt díu nhau tới nơi ở mới. Ngôi nhà sàn mang hơi ấm của ba thế hệ gia đình được hỗ trợ vận chuyển xuống che nắng, che mưa.
Chừng được 1 năm, vì cuộc sống khó khăn, chị quyết định đơn thân quay trở lại lòng hồ thủy điện để kiếm kế sinh nhai. Dựng một túp lều nhỏ bên vực núi, chị Thanh bán hàng tạp hóa và đồ ăn cho người qua đường, thân cò leo lắt giữa núi rừng hoang vu.
Những năm 2010, 2011, xóm nhỏ ở bến thượng lưu được hình thành bởi các hộ dân từ khu tái định cư về mưu sinh. Kể từ đó, cuộc sống của chục hộ dân nơi đây gắn liền với sông nước, thuyền nhỏ và túp lều tranh nứa làm nơi trú ngụ, ngày ngày ngồi đếm con nước đổ về hồ chứa mênh mông.
“Tái định cư thời điểm đó không có đất sản xuất, người dân cứ quanh quẩn trong nhà rồi ra ngoài đường chứ không biết làm gì. Con cái đói quá, khóc thét suốt ngày. Còn bến thượng lưu của lòng hồ thủy điện lại nhộn nhịp, tôi lên đây buôn bán và có lãi, ngoài tiền lấy hàng hóa thì cũng có của để dành gửi về cho chồng con trang trải cuộc sống.
Dù cô độc, lúc mưa bão chẳng biết dựa vào ai nhưng ít ra, các con không đói. May thay mấy đứa con đã lớn, biết lên rẫy trồng ngô, xuống suối bắt cá chứ mẹ không thể bám trụ trong lòng hồ mãi được”.

Những hộ dân ở bến thượng lưu lòng hồ thủy điện Bản Vẽ
Quán nhỏ lắc lư theo nhịp sóng tròng trành, chị Thanh cúi gập xuống nhặt nhạnh bó rau dại. Chúng tôi hiểu, chị muốn che giấu sự mệt mỏi của ngày tháng bươn chải lênh đênh như con nước lòng hồ. Những người có mặt trong quán cũng chẳng ai lên tiếng, chỉ có tiếng mưa, tiếng sóng nước rầm rì, ánh mắt của họ hướng xa xăm, tiếng sóng lòng cuộn trào trong cơn mưa rừng hiu quạnh… Thấy khoang thuyền đã chứa nhiều nước mưa, cậu bé Moong Văn Sửu (13 tuổi, bản Cà Moong) chạy ra dùng gàu múc.
“Gia đình em làm nghề đánh cá trong lòng hồ, ngày nhiều được 4kg, ngày không có con nào. Hôm qua thả lưới cả đêm cũng chỉ được 2 con cá rô phi to bằng bàn tay, bố nói em đem bán lấy tiền mua gạo. Bố thường than thở, cá không bắt được, thế này thì chết đói. Rồi tính chuyện cho em đi làm thuê dưới thành phố”, Sửu chia sẻ.
Có thuyền và đi bán cá, Moong Văn Sửu chở những người trong bản Cà Moong và Xốp Cháo ra bến thượng lưu mua sắm. Cũng chẳng mua gì nhiều, ngoài mấy kg gạo, thùng mì tôm và chai nước mắm…

Ông Nguyễn Phúc Sơn vớt cá lồng chết trên lòng hồ thủy điện Khe Bố
Chiếc thuyền độc mộc gắn máy nổ của gia đình em Moong Văn Sửu rẽ sóng đi xa. Ở chỗ neo đậu bên cạnh, ông Lương Văn Phòng tỉnh dậy sau giấc ngủ trưa trong khoang thuyền. Mưu sinh bằng nghề lái thuyền ở lòng hồ thủy điện Bản Vẽ được 13 năm, ông Phòng quá quen với nơi này.
“Trước đây khách đông, ngày chạy 4 chuyến ngược xuôi lòng hồ nhưng giờ ít lắm, chỉ chạy 2 chuyến nữa thôi. Chật vật, không biết bám trụ được với nghề đến khi nào. Mỗi ngày tôi bỏ ra 500 ngàn đồng mua xăng nhưng sáng nay chỉ có 2 khách xuống bến, chiều mà không có khách về thì bù lỗ sao nổi”. Nói đoạn, người đàn ông này lại nằm xuống khoang thuyền được che lợp mái tôn và chẳng muốn nói về ngày mai.
Dân khổ vì… thủy điện
Xuôi về hạ du, chúng tôi dừng chân ở địa phận xã Tam Thái (huyện Tương Dương). Đây là một trong những địa phương có số hộ dân nuôi cá lồng nhiều trên dòng Lam Giang. Khi thủy điện Khe Bố chặn dòng, những bãi bồi ven sông đã bị nhấn chìm, không còn ngô, khoai xanh mướt mà thay vào đó là bến nước mênh mang.
Để thoát khỏi đói nghèo, người dân linh hoạt vận dụng vào lợi thế nước lòng hồ để nuôi thủy sản. Thấy những con cá lớn dần và tạo nguồn thu tốt, người dân bắt đầu chăm chút phát triển. Niềm vui chẳng tày gang khi họ luôn nơm nớp lo sợ thủy điện xả nước bất ngờ làm mực nước thay đổi hoặc không đủ sâu khiến cá nuôi lồng bị ngột chết.
Thủy điện Bản Vẽ – Đại công trình của thập niên 2000 đồ sộ giữa núi rừng điệp trùng hùng vĩ. Để xây dựng nhà máy lớn nhất Bắc Trung Bộ này, 3.022 hộ dân của 34 bản, 7 xã thuộc hai huyện Tương Dương, Kỳ Sơn phải di dời.
Nhớ lại giữa tháng 5/2022, ông Nguyễn Phúc Sơn vẫn chưa hết bức xúc khi cá nuôi lồng của gia đình và 6 hộ dân khác trong bản Lũng bị chết hàng loạt do thủy điện xả nước.
“Khoảng 16 giờ, ra kiểm tra lồng cá, tôi phát hiện mực nước lòng hồ thủy điện Khe Bố xuống thấp với tốc độ rất nhanh. Chẳng mấy chốc, lòng hồ trơ đáy, cá bị ngột, chết trắng bụng. Tôi hoảng hốt, gọi hơn 20 người trong bản tới giúp sức, chuyển lồng cá ra vị trí nước sâu nhưng không kịp. Mọi người tá hỏa vớt số cá còn sống vào bồn nước rồi tiếp tục kéo lồng.
Quần quật cứu cá đến suốt đêm mới xong nhưng cũng chỉ cứu được nửa số lượng cá. Tại sao thủy điện lại không thông báo cho người dân một tiếng rồi mới xả chứ? Họ xả đột ngột, xả cho trơ đáy. Họ vô cảm quá”, ông Nguyễn Phúc Sơn nói.
Trước đó, mùa mưa năm 2018, thuỷ điện dọc sông Lam bất thình lình xả lũ khiến dân không kịp trở tay. Lũ đổ về đột ngột khiến mố Nam cầu treo Chôm Lôm bị sóng nước đánh tan hoang, hai bờ chia cắt, hàng ngàn người dân bên kia sông bị cô lập, hàng trăm em học sinh Trường THCS Lạng Khê (Con Cuông) không thể tới trường…
Cảnh Huệ