EU – Vietnam: launching the first Viet – Mong bilingual supplementary materials for ethnic minority children in Lai Chau

aide-et-action – Lai Chau, December 9th, 2016 – Aide et Action Vietnam and its partner CISDOMA, has launched an initiative on the supplementary materials in Mong and Vietnamese languages for preschool and primary school (5 years old – 8 years old) in Tam Duong district, Lai Chau province. The Mother-Tongue Bilingual Based Education (MTBBE) approach uses Mong as the bilingual language of instruction, along with Vietnamese.

The materials cover 5 topics: gender equality, life skills, disaster preparedness, child rights, local culture and customs which will be mainstreamed into the daily classes at school. The development of the supplementary bilingual material is one of the key activities of the project “Promoting inclusive and relevant early childhood care and education for ethnic minority and disadvantaged children in Vietnam,” funded by the European Union, aiming at helping ethnic minority children overcomes the language barrier and enabling them to read and write in their mother tongue to preserve their culture first, and then transfer these skills to learning Vietnamese.

Cuộc vượt biên của những đứa trẻ bỏ trường

VNE – Thứ ba, 21/11/2017 | 00:00 GMT+7

Không nhìn thấy tương lai trong những trang sách, nhiều học sinh vùng cao đi thẳng từ lớp học đến biên giới. Chúng trở thành những lao động bất hợp pháp.

Bữa cơm đầu tiên ở bên kia biên giới của Sùng Mí Tú là cái bánh bao nhân thịt với chai nước trắng.

Tú 15 tuổi, nhỏ nhất trong nhóm người Mông xã Sà Phìn vượt biên sang Trung Quốc làm thuê. Mỗi ngày, em nhận được 80 nhân dân tệ cho công đào 160 hố trồng cây bạch đàn.

Tú không biết mình đang ở vùng nào của Trung Quốc, địa hình xung quanh ra sao. 10 người trú ở cái lán nằm sâu trong rừng. Ban đêm, họ rủ nhau đi ngủ sớm. Không ai dám đi quá khu lán một cây số vì sợ lạc đường, hoặc công an biên phòng Trung Quốc truy quét. Bị bắt rồi thì trả về nước, tiền công cũng mất hết.

The world’s required reading list: The books that students read in 28 countries

reading2

This compilation of reading assigned to students everywhere will expand your horizons — and your bookshelves.

In the US, most students are required to read To Kill a Mockingbird during their school years. This classic novel combines a moving coming-of-age story with big issues like racism and criminal injustice. Reading Mockingbird is such an integral part of the American educational experience that we wondered: What classic books are assigned to students elsewhere?

We posed this question to our TED-Ed Innovative Educators and members of the TED-Ed Community. People all over the globe responded, and we curated our list to focus on local authors. Many respondents made it clear in their countries, as in the US, few books are absolutely mandatory. Below, take a look at what students in countries from Ireland to Iran, Ghana to Germany, are asked to read and why. [Note: To find free, downloadable versions of many of the books listed below, search Project Gutenberg.]

Afghanistan

Quran
What it’s about: The revelations of God as told to the prophet Muhammad, this is the central religious text of Islam and remains one of the major works of Arabic literature.
Why it’s taught: “Overall, there is no culture of reading novels in my country, which is sad,” says Farokh Attah. “The only book that must be read in school is the holy Quran, and everyone is encouraged to read it starting from childhood.” Tiếp tục đọc “The world’s required reading list: The books that students read in 28 countries”

Rác đô thị Việt Nam – 60 năm trông chờ ‘tiếng chổi tre’

VNE – Thứ ba, 17/4/2018 | 00:00 GMT+7

Vấn đề rác đô thị vẫn phụ thuộc vào sức chịu đựng của những “chị lao công như sắt như đồng” mà Tố Hữu mô tả 60 năm trước.

Anh Minh sống ở Hà Nội đã 10 năm, nhưng vẫn chưa nói sõi tiếng Kinh.

Công việc chính của Minh không cho anh nhiều cơ hội để học tiếng Kinh: anh là một công nhân dọn rác dưới hầm chung cư. Ngăn cách giữa người đàn ông dân tộc Tày và đời sống xã hội là những tấm bê tông dày trên đầu. Kết nối đáng kể nhất giữa anh và những cư dân thành phố này là một chiếc ống rác thông tầng. Người ta ném rác vào ống, Minh thu dọn ở phía dưới, cho lên xe và đẩy đi.

Anh Minh trong xóm trọ tại Trung Văn, Hà Nội Tiếp tục đọc “Rác đô thị Việt Nam – 60 năm trông chờ ‘tiếng chổi tre’”

Remembering Agent Orange this Earth Day

The legacy of Agent Orange/dioxin continues to impact our veterans and the Vietnamese.  Since 1991, scientists at the United States Institute of Medicine have shown dioxin to be a risk factor in a growing number of illnesses and birth defects, and their research is corroborated by the work of Vietnamese scientists. Tiếp tục đọc “Remembering Agent Orange this Earth Day”

Về nhóm “Hội thánh Đức Chúa Trời”

TĐH: Mình đồng ý rằng đây là tà đạo, vì:
– Không đặt trọng tâm vào trái tim mỗi người và sự giải phóng cho con người và mỗi người,
– Mà đặt trọng tâm vào Đức Chúa Trời Cha, Đức Chúa Trời Mẹ (bà Nam Hàn nào đó), Chúa Giêsu tái thế lần thứ 2 (ông Nam Hàn nào đó), hội họp, lễ bái, sợ hãi tận thế đang đến, không quan tâm đến đời sống hiện tại và bố mẹ (vì sắp tận tế rồi), nhồi sọ, chỉ được cứu rỗi qua “Hội thánh”, tuyển người dữ dội (càng nhiều người càng mạnh về người cũng như tiền), hứa hẹn thiên đàng, và quyền lực do làm việc tận lực.
– Đây là dấu ấn của những nhóm cults cực đoan xưa nay trên thế giới.
Các bạn đừng ngớ ngẩn.

Ban Tôn giáo Chính phủ nói về hoạt động của “Hội Thánh Đức Chúa Trời“

VOV.VN -Nhà nước đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng cho mọi người dân nhưng cũng nghiêm cấm hành vi xâm phạm trật tự an toàn, đạo đức xã hội.

Đó là khẳng định của ông Vũ Chiến Thắng, Trưởng Ban Tôn giáo Chính phủ trước các hoạt động có biểu hiện phản văn hóa, lệch chuẩn đạo đức xã hội được cho là có liên quan đến tổ chức mang tên “Hội thánh Đức Chúa Trời” mà báo chí phản ánh gần đây.

Tiếp tục đọc “Về nhóm “Hội thánh Đức Chúa Trời””

“Cuộc chiến” giành lại bãi biển ở Đà Nẵng

  • VIỆT HÙNG – HỮU KHÁ
  • 10.04.2018, 18:45

TTCT – Dải bờ biển từ bắc kéo qua phía đông Đà Nẵng hơn 20km là bãi biển đẹp. Nhưng hiện các dự án resort, bất động sản ken dày, nối nhau san sát đã cắt nhỏ, bịt hết lối đi xuống biển khiến người dân ngày càng “xa” biển.

“Cuộc chiến” giành lại bãi biển ở Đà Nẵng
Một trong số những dự án ven biển mà TP Đà Nẵng lên kế hoạch thu hồi. Ảnh: H.Khá

Rất nhiều lần người dân bức xúc kiến nghị mở lối xuống biển để tắm, sinh hoạt công cộng nhưng quá khó khi bãi biển đã dày đặc các dự án mà TP giao cho doanh nghiệp. Mới đây nhất, người dân, ngư dân làng Nam Ô (P.Hòa Hiệp Nam, Q.Liên Chiểu) sau một đêm đã bị dự án Lancaster Nam O Resort bịt đường xuống biển mà hàng trăm năm qua họ đã mòn lối. Câu chuyện trở nên “nóng” hơn khi hàng trăm người dân tập trung phản ứng và đích thân Bí thư Thành ủy Đà Nẵng Trương Quang Nghĩa xuống tận nơi 
giải quyết. Tiếp tục đọc ““Cuộc chiến” giành lại bãi biển ở Đà Nẵng”

Natural selection gave a freediving people in Southeast Asia bigger spleens

Date:April 19, 2018
Source:Cell Press
FULL STORY

This image shows a Bajau diver hunting fish underwater using a traditional spear.
Credit: Melissa Ilardo

The Bajau people of Southeast Asia, known as Sea Nomads, spend their whole lives at sea, working eight-hour diving shifts with traditional equipment and short breaks to catch fish and shellfish for their families. In a study published April 19 in the journal Cell, researchers report that the extraordinary diving abilities of the Bajau may be thanks in part to their unusually large spleens. The adaptation, the researchers say, is a rare example of natural selection in modern humans — and one that could provide medically relevant insight into how humans manage acute hypoxia.

Tiếp tục đọc “Natural selection gave a freediving people in Southeast Asia bigger spleens”

How do we control dangerous biological research?

Filippa Lentzos

Người Việt Nam đầu tiên nhận giải thưởng môi trường Goldman Environmental Prize,

Diễn văn lễ trao giải (Nguỵ Thị Khanh – Việt Nam  từ 1:1:00 – 1:10:00)

Goldmanprize

Ngụy Thị Khanh đã sử dụng các nghiên cứu khoa học và hợp tác với các cơ quan nhà nước Việt Nam nhằm thúc đẩy các kế hoạch phát triển năng lượng dài hạn bền vững ở Việt Nam. Nêu bật những phí tổn và tác động môi trường của nhiệt điện than, cô đã hợp tác với các cơ quan chức năng nhằm giảm sự lệ thuộc vào than và hướng tới một tương lai năng lượng xanh hơn.

Những hiểm họa rõ ràng của năng lượng than

Nền kinh tế phát triển bùng nổ đã khiến cho nhu cầu điện của Việt Nam tăng khoảng 12%/năm trong thập kỷ qua. Việt Nam là một trong bốn nước châu Áđứng đầu thế giớivề xây dựng mới nhiệt điện than. Sau khi đã khai thác gần hết tiềm năng thủy điện, năm 2011 chính phủ Việt Nam đã chuyển sang phát triển nhiệt điện than và điện hạt nhân nhằm đáp ứng nhu cầu năng lượng trong tương lai. Một lượng khá lớn than sử dụng ở Việt Nam là than nhập khẩu, làm gia tăng sự lệ thuộc của đất nước vào các nguồn nhập khẩu đắt đỏ.Là một loại nhiên liệu phát điện gây ô nhiễm nhất, than đá gây ra 40% lượng phát thải khí nhà kính toàn cầu và là một nguồn chủ yếu gây ô nhiễm không khí và nước. Tiếp tục đọc “Người Việt Nam đầu tiên nhận giải thưởng môi trường Goldman Environmental Prize,”

Goldman environmental prize: top awards dominated by women for first time

theguardian.com

Winners are all grassroots activists who have taken on powerful vested interests

Goldman environment prizewinners 2018: (clockwise from top left) Manny Calonzo, Francia Márquez, Nguy Thi Khanh, LeAnne Walters, Makoma Lekalakala and Liz McDaid, Claire Nouvian.
 Goldman environment prizewinners 2018: (clockwise from top left) Manny Calonzo, Francia Márquez, Nguy Thi Khanh, LeAnne Walters, Makoma Lekalakala and Liz McDaid, Claire Nouvian. Photograph: 2018 Goldman Environmental Prize

The world’s foremost environmental prize has announced more female winners than ever before, recognising the increasingly prominent role that women are playing in defending the planet.
Tiếp tục đọc “Goldman environmental prize: top awards dominated by women for first time”

Honoring Students’ Emotional Response to Complex Global Issues

Editor’s Note: For years, Noah Zeichnera National Board-certified social studies and Spanish teacher at Ingraham High School in Seattle, Washington, taught about complex global issues, including water and pollution, in his classroom. The urgency in teaching these topics renewed itself when he watched Chris Jordan’s new documentary ALBATROSS. Here he interviews Chris Jordan about his film and shares tips for teaching about difficult and emotional topics in the classroom. 

By guest blogger Noah Zeichner

UNSDG14.pngUN Sustainable Development Goal (SDG) #14 (Life Below Water) is to conserve and sustainably use the oceans, seas, and marine resource. While only a tiny portion of Goal 14’s targets address pollution, it is widely known that the problem is immense, if not catastrophic. On World Water Day this year, the journal Scientific Reports published a study that claims that the Great Pacific Garbage Patch is four to sixteen times larger than first thought, covering an area about four times the size of California. The estimates now are that 87,000 tons of plastic debris are floating in the Pacific and that approximately 94% of the 1.8 million trillion pieces of plastic are microplastics. At the same time, more than three quarters of the total mass of the Garbage Patch were found to be much larger pieces of plastic. These larger pieces will likely break down into nearly invisible microplastics over time.
Tiếp tục đọc “Honoring Students’ Emotional Response to Complex Global Issues”

Is Earth’s ozone layer still at risk? 5 questions answered

theconversation

False-color image of ozone concentrations above Antarctica on Oct. 2, 2015. NASA/Goddard Space Flight Center

Editor’s note: Curbing damage to Earth’s protective ozone layer is widely viewed as one of the most important successes of the modern environmental era. Earlier this year, however, a study reported that ozone concentrations in the lower level of the stratosphere had been falling since the late 1990s – even though the Montreal Protocol, a global treaty to phase out ozone-depleting chemicals, had been in effect since 1989. This raised questions about whether and how human activities could still be damaging the ozone layer. Atmospheric chemist A.R. Ravishankara, who co-chaired a United Nations/World Meteorological Organization Scientific Assessment panel on stratospheric ozone from 2007 to 2015, provides perspective. Tiếp tục đọc “Is Earth’s ozone layer still at risk? 5 questions answered”

Vài suy nghĩ về thời gian trong văn hoá

Nguyễn Cung Thông[1]

 

Có bao giờ bạn đi đám cưới mà phải chờ cả giờ đồng hồ trước khi bữa tiệc bắt đầu? Vấn đề này trở nên đáng quan tâm hơn nếu là giờ họp để bàn luận về công ăn việc làm, và có thể ảnh hưởng đến tương lai của một cộng đồng rộng lớn hơn. Quá trình thay đổi tư duy/thói quen như làm việc đúng giờ cần nhiều thời gian và trải nghiệm cá nhân, nhất là lồng trong một truyền thống văn hoá đã có từ lâu đời. Tuy gặp nhiều thử thách trong đời sống hàng ngày (ngôn ngữ, khác biệt chủng tộc và văn hoá, nghề nghiệp …), người viết (NCT) đã có cơ hội trải qua hai nên văn hoá Việt Nam (truyền thống Á Đông) và Úc (truyền thống Tây phương). Vấn đề thời gian lại càng nổi bật trong các hoạt động thuộc lãnh vực khoa học và kỹ thuật, có khi là yếu tố chính quyết định sự thành công hay không – xem giản đồ ba-góc Lewis ở phần dưới. Bài viết nhỏ này ghi lại vài suy nghĩ về hiện tượng ‘giờ dây thun[2]’ (giờ cao su) này với hi vọng bạn đọc có cơ hội suy ngẫm thêm về những lý do sâu xa hơn[3]. Từ đó đưa đến quyết định tích cực về quá trình quản lý thời gian, có lợi cho cá nhân và xã hội hơn nữa. Để cho liên tục, bạn đọc nên tham khảo thêm bài viết “Tản mạn về từ Hán Việt thời – thì” của cùng tác giả (NCT – 2012), có thể đọc toàn bài trên trang này chẳng hạn http://chimviet.free.fr/ngonngu/Angonngu.htm …v.v… Một số cách dùng được dịch ra tiếng Anh hay Pháp vì không có trong vốn từ Việt trước đây, hay chúng chỉ nhập vào ngữ vựng của toàn dân gần đây mà thôi. Một số chữ viết tắt trong bài là VN (Việt Nam), NCT (Nguyễn Cung Thông), TQ (Trung Quốc).

_______

[1] Nghiên cứu tiếng Việt độc lập ở Melbourne (Úc). Địa chỉ email nguyencungthong@yahoo.com

[2] Không nên nhầm ‘giờ dây thun’ với cảm nhận chủ quan của từng cá nhân về thời gian có lúc qua nhanh có lúc đi chậm lại. Thí dụ khi còn bé, thường phải tìm hiểu nhiều hơn qua các trải nghiệm mới lạ, nên bộ não chúng ta cần thời gian để xử lý nhiều thông tin và thời gian có vẻ trôi qua chậm hơn. Tuy nhiên, khi đã lớn và nhất là khi về già thì môi trường chung quanh trở nên quen thuộc hơn, số lượng thông tin mà bộ não tiếp nhận không nhiều và thời gian xử lý vì vậy nhanh hơn. Nhớ rằng đồng hồ ở ngoài ta vẫn hoạt động đều đặn và thời gian hoàn toàn giống y nhau. Thí dụ như khi chúng ta đi tìm một địa chỉ, khi đến tìm luôn cho cảm giác là mất thời gian hơn so với lúc về – dù là cùng một lộ trình và phương tiện di chuyển.

[3] Ngay từ thời LM Alexandre de Rhodes (1591-1660), ông đã nhận thấy là một giờ của Á Đông là bằng hai giờ Âu Châu (cũng là giờ theo cách hiểu hiên nay). Trong Phép Giảng Tám Ngày, ông viết “Mà lại nhật thực ấy một giờ rưỡi làm tối mặt trời” trang 229. Vào thời ấy, LM Girolamo Maiorica (1591-1656) cũng cùng một nhận xét “ba mươi ba giờ nước người. Chẳng phải giờ An Nam vì nước này lấy hai giờ nước người làm một” Thiên Chúa Thánh Giáo Khải Mông trang 53, 161.

Đọc tiếp toàn bài >>