Tự chủ đại học: Thực trạng và giải pháp cho đại học Việt Nam – Nguyễn Minh Thuyết

Kết quả hình ảnh cho university

HTN • 12/08/2014

VeDIAL: Tham luận của Nguyễn Minh Thuyết tại hội thảo Cải cách giáo dục đại học VED 2014.  Slides của bài tham luận có thể tải về tại Presentation 5: University Autonomy: Realities and Solutions for Vietnam1.

Khái niệm

1.1. Tự chủ đại học (cách dịch sát hơn: tự trị đại học – university autonomy, autonomie des universités) là quyền của cơ sở giáo dục đại học[1] quyết định sứ mạng và chương trình hoạt động của mình, cách thức và phương tiện thực hiện sứ mạng và chương trình hoạt động đó, đồng thời tự chịu trách nhiệm trước công chúng và pháp luật về mọi quyết định cũng như hoạt động của mình. Đây là hình thức quản trị thích hợp với những tổ chức không thuộc hệ thống hành chính (hệ thống có cấp trên cấp dưới; cấp dưới do cấp trên bổ nhiệm và phải làm theo quyết định của cấp trên.)[2]. Tiếp tục đọc “Tự chủ đại học: Thực trạng và giải pháp cho đại học Việt Nam – Nguyễn Minh Thuyết”

Một số câu hỏi về tự chủ đại học

Nguyễn Tiến Dũng*, blog – ON DECEMBER 1ST, 2014

Hôm thứ bảy 29/11/2014 vừa qua ở Paris có diễn ra một “Table Ronde” (thảo luận bàn tròn) về vấn đề tự chủ đại học do AVSE (Hội chuyên gia người Việt tại Pháp) tổ chức, và tôi có được mời vào panel. Vì thời gian hạn chế và có nhiều người muốn nói nên hôm đó chỉ nói được ít, và nói bằng tiếng Pháp vì nhiều người đến dự là người Pháp. Tôi viết nhanh lại đây một vài suy nghĩ và hiểu biết của mình về vấn đề này cho những ai quan tâm. (Các quan điểm trong bài này là của cá nhân, không đại diện cho tổ chức nào).


Tư tưởng của ĐH Princeton: “In the service of all nations”

1) “Tự chủ đại học”  nghĩa là gì?

Nếu hiểu từ “đại học”  theo nghĩa “university”, thì bản thân trong định nghĩa của nó đã có tính chất tự chủ. Gốc của từ universitas có nghĩa là tổ chức hiệp hội tự quản, ví dụ như hiệp hội của các thương nhân.  Tuyên bố  “Magna Charta Universitatum” của EAU (Liên hiệp các đại học châu Âu, xem: http://www.magna-charta.org/library/userfiles/file/mc_english.pdf) về đại học trang đầu có câu:

“The university is an autonomous institution at the heart of societies …” Tiếp tục đọc “Một số câu hỏi về tự chủ đại học”

Tự chủ mà vẫn nghẽn

Bảo Uyên Thứ Ba,  23/1/2018, 11:01 

(TBKTSG) – Hiện cả nước có 23 trường đại học công lập thực hiện thí điểm tự chủ toàn diện. Theo Nghị quyết số 77/NQ-CP năm 2014 (Nghị quyết 77) về thí điểm đổi mới cơ chế hoạt động đối với các cơ sở giáo dục đại học công lập giai đoạn 2014-2017, những trường này được phép tự chủ trong các lĩnh vực: đào tạo, nghiên cứu khoa học; tổ chức bộ máy nhân sự và tài chính. Trong thực tế, các trường được và đã thực hiện quyền tự chủ của mình đến đâu?

Muốn tự chủ hiệu quả thì phải có nguồn lực kinh tế vững. Ảnh: Thành Hoa.

Tiếp tục đọc “Tự chủ mà vẫn nghẽn”

Đại Học Tự Trị – University Autonomy

– Magna Charta Universtatum
(VN không có đại học nào là thành viên của Magna Charta)
– www.Magna-Charta.org
– University Autonomy in Europe
– University Autonomy (The Nation, 2017)
– Tự Chủ Đại Học: Kinh nghiệm Đài Loan (Tia Sáng, 1917)
– Các trường chịu trách nhiệm trước nhà nước về tự trị đại học – Giáo Dục VN (2017)
– Đại Học Tự Trị – Huy Đức
– Trường đại học đang trở thành “con sen” của xã hội hậu hiện đại (Dân Trí, 2016)
– Tự chủ đại học: Từ bỏ nỗi “sợ” để nâng cao chất lượng (Dân Trí, 2016)
– Tự chủ đại học: Vì sao nhiều trường ngần ngại xa rời “bầu sữa bao cấp ngân sách”? (Dân Trí, 2016)
– Tự chủ Đại học: Cấp bách xây dựng lại niềm tin xã hội (Dân Trí, 2016)
– Tự trị đại học – con đường duy nhất (Lao Động, 2014)
– Tự chủ và quản trị giáo dục đại học (vietnamnet, 2009)

 

Vietnam’s efforts to internationalize higher education achieves a milestone

By Minh Vu —


Secretary of Ho Chi Minh City Party Committee Dinh La Thang speaks at the ceremony for the licensing of Fulbright University Vietnam on May 25, 2016. Source: State Department’s flickr photostream, used under a creative commons license.

Fulbright University Vietnam (FUV) has attracted much attention because it was born out of Vietnam-U.S. bilateral engagement. However, as the university welcomes its first class in September, FUV will become more than just a diplomatic achievement. It will mark another step in the ongoing effort by the government to lift Vietnam’s higher education to international standards through collaboration with the private sector and foreign governments. Tiếp tục đọc “Vietnam’s efforts to internationalize higher education achieves a milestone”

World Bank funds US$155 Million to Support Autonomous Higher Education in Việt Nam

vietnamnews

Update: May, 16/2017 – 18:00

A World Bank project will support the financing of new facilities and equipment for teaching and research.—VNA/VNS Photo
Viet Nam News WASHINGTON — The World Bank’s Board of Executive Directors approved today US$155 million in financing to strengthen the research, teaching, and institutional capacity of three universities and improve the management of Việt Nam’s higher education system.

More than 150,000 students and 3,900 members of faculty will benefit from the investments for Việt Nam’s National University of Agriculture, the University of Science and Technology in Hà Nội, and the Industry University of Hồ Chí Minh City. Some 600,000 students and 27,000 lecturers from other higher education institutions will also gain access to a digital library at the National Economics University.

“Việt Nam’s gains in higher education are evident in the numbers: 17 times more students enrolled since 1991,” says Ousmane Dione, the World Bank Country Director for Việt Nam.

“But Việt Nam needs stronger growth in labour productivity and further significant shifts of the workforce to more productive sectors. Addressing this challenge requires different skills sets and competencies and further strengthening the access to, and quality of higher education. This is at the core of what this project aims to achieve,” he added.

The project will support the financing of new facilities and equipment for teaching and research, as well as the strengthening management systems.

Additional objectives of the project include support for the strengthening of the key components of higher education – such as the national accreditation system – as well as efforts to share the lessons learned by the beneficiary universities.

The International Development Association, the World Bank’s fund for low income countries, will provide US$155 million to the US$174 million project, with the Vietnamese Government providing the remaining funds.—VNS

Trồng người – Số 40

583bd78f57ff8
Số 40 – February 2016

AND HUMANS CREATE GODS

COMMENTARY
December 8, 2006
© Vu-Duc Vuong

In this season of celebrating the birth of Jesus Christ, who counts upward of two billion followers around the world today, it may be sobering to look at religions from a more humanist perspective: it is humans who create gods out of the necessity to believe in something higher, more lasting and more powerful than their short lifespan.

Tiếp tục đọc “Trồng người – Số 40”

Bộ trưởng Giáo dục: ‘Cử nhân giỏi còn hơn thạc sĩ chẳng giống ai’

Thứ hai, 6/6/2016 | 19:25 GMT+7 VNExpress
Ông Phùng Xuân Nhạ yêu cầu các trường đại học tập trung đào tạo chuyên sâu để sinh viên sau khi ra trường có việc làm.

Chiều 6/6, làm việc với Đại học Công nghệ TP HCM (HUTECH), Bộ trưởng Giáo dục và Đào tạo Phùng Xuân Nhạ bày tỏ lo ngại về số lượng hàng trăm nghìn cử nhân, thạc sĩ thất nghiệp mà dư luận xã hội đang quan tâm. Con số này đã gióng lên hồi chuông cảnh báo về chất lượng đào tạo của các trường đại học hiện nay.

bo-truong-giao-duc-cu-nhan-gioi-con-hon-thac-si-chang-giong-ai

Ông Phùng Xuân Nhạ làm việc tại Đại học Công nghệ TP HCM chiều nay. Ảnh: Mạnh Tùng

Tiếp tục đọc “Bộ trưởng Giáo dục: ‘Cử nhân giỏi còn hơn thạc sĩ chẳng giống ai’”

UNESCO: Giáo dục – Kho tàng tiềm ẩn (P13)

ENGLISH: Learning the Treasure within – Jacques Delors

Báo cáo Ủy ban quốc tế UNESCO về giáo dục cho thế kỷ 21– Những điểm nổi bật 

UNESCO: Giáo dục – Kho tàng tiềm ẩn (P1)

UNESCO: Giáo dục – Kho tàng tiềm ẩn (P2)

UNESCO: Giáo dục – Kho tàng tiềm ẩn (P3)

UNESCO: Giáo dục – Kho tàng tiềm ẩn (P4)

UNESCO: Giáo dục – Kho tàng tiềm ẩn (P5)

UNESCO: Giáo dục – Kho tàng tiềm ẩn (P6)

UNESCO: Giáo dục – Kho tàng tiềm ẩn (P7)

UNESCO: Giáo dục – Kho tàng tiềm ẩn (P8)

UNESCO: Giáo dục – Kho tàng tiềm ẩn (P9)

UNESCO: Giáo dục – Kho tàng tiềm ẩn (P10)

UNESCO: Giáo dục – Kho tàng tiềm ẩn (P11)

UNESCO: Giáo dục – Kho tàng tiềm ẩn (P12)

UNESCO: Giáo dục – Kho tàng tiềm ẩn (P13)

UNESCO: Giáo dục – Kho tàng tiềm ẩn (P14)

https://i1.wp.com/ecx.images-amazon.com/images/I/512ZLvBLRJL._SY344_BO1,204,203,200_.jpg

Chương 8: Những lựa chọn cho giáo dục: yếu tố chính trị

    • Lựa chọn một loại hình giáo dục cũng có nghĩa là lựa chọn một loại hình xã hội. Ở tất cả các nước, những sự lựa chọn như vậy cần đến tranh luận rộng rãi từ công chúng, dựa trên một đánh giá chính xác về các hệ thống giáo dục. Ủy ban mời chính quyền các quốc gia khuyến khích các tranh luận như thế, để đạt được một sự đồng thuận dân chủ, đây là con đường đến thành công tốt nhất cho các chiến lược cải cách giáo dục.

Tiếp tục đọc “UNESCO: Giáo dục – Kho tàng tiềm ẩn (P13)”

UNESCO: Giáo dục – Kho tàng tiềm ẩn (P7)

ENGLISH: Learning the Treasure within – Jacques Delors

Báo cáo Ủy ban quốc tế UNESCO về giáo dục cho thế kỷ 21– Những điểm nổi bật 

UNESCO: Giáo dục – Kho tàng tiềm ẩn (P1)

UNESCO: Giáo dục – Kho tàng tiềm ẩn (P2)

UNESCO: Giáo dục – Kho tàng tiềm ẩn (P3)

UNESCO: Giáo dục – Kho tàng tiềm ẩn (P4)

UNESCO: Giáo dục – Kho tàng tiềm ẩn (P5)

UNESCO: Giáo dục – Kho tàng tiềm ẩn (P6)

UNESCO: Giáo dục – Kho tàng tiềm ẩn (P7)

UNESCO: Giáo dục – Kho tàng tiềm ẩn (P8)

UNESCO: Giáo dục – Kho tàng tiềm ẩn (P9)

UNESCO: Giáo dục – Kho tàng tiềm ẩn (P10)

UNESCO: Giáo dục – Kho tàng tiềm ẩn (P11)

UNESCO: Giáo dục – Kho tàng tiềm ẩn (P12)

UNESCO: Giáo dục – Kho tàng tiềm ẩn (P13)

UNESCO: Giáo dục – Kho tàng tiềm ẩn (P14)

Đánh giá ảnh hưởng của Báo cáo UNESCO Delors 1996: Giáo dục – Kho tàng tiềm ẩn

 
https://i1.wp.com/ecx.images-amazon.com/images/I/512ZLvBLRJL._SY344_BO1,204,203,200_.jpg

Để có các chiến lược cải cách đúng

Trong khi không được đánh giá thấp nhu cầu quản lý những ràng buộc ngắn hạn, cũng không bỏ qua nhu cầu thích ứng với các hệ thống hiện có, Ủy ban muốn nhấn mạnh sự cần thiết của  cách tiếp cận dài hạn hơn nếu muốn các cải cách thành công. Cũng trên cơ sở này, Ủy Ban nhấn mạnh một thực tế là có quá nhiều cải cách kế tiếp nhau có thể là cái chết của việc cải cách. Bởi vì các cải cách đó không cho hệ thống thời gian cần thiết để hấp thụ những thay đổi hoặc để có được tất cả các đối tượng quan tâm tham gia vào quá trình này. Hơn nữa, những thất bại trong quá khứ cho thấy nhiều nhà cải cách áp dụng một cách tiếp cận mà hoặc là quá cực đoan hoặc là quá lý thuyết, lờ đi những hữu ích có thể học được từ các kinh nghiệm trước đó hoặc bác bỏ những thành tựu trong quá khứ. Kết quả là, giáo viên, phụ huynh và học sinh bị mất phương hướng và không còn nhiều sẵn sàng để chấp nhận và thực hiện cải cách. Tiếp tục đọc “UNESCO: Giáo dục – Kho tàng tiềm ẩn (P7)”

UNESCO: Giáo dục – Kho tàng tiềm ẩn (P3)

ENGLISH: Learning the Treasure within – Jacques Delors

Báo cáo Ủy ban quốc tế UNESCO về giáo dục cho thế kỷ 21– Những điểm nổi bật 

UNESCO: Giáo dục – Kho tàng tiềm ẩn (P1)

UNESCO: Giáo dục – Kho tàng tiềm ẩn (P2)

UNESCO: Giáo dục – Kho tàng tiềm ẩn (P3)

UNESCO: Giáo dục – Kho tàng tiềm ẩn (P4)

UNESCO: Giáo dục – Kho tàng tiềm ẩn (P5)

UNESCO: Giáo dục – Kho tàng tiềm ẩn (P6)

UNESCO: Giáo dục – Kho tàng tiềm ẩn (P7)

UNESCO: Giáo dục – Kho tàng tiềm ẩn (P8)

UNESCO: Giáo dục – Kho tàng tiềm ẩn (P9)

UNESCO: Giáo dục – Kho tàng tiềm ẩn (P10)

UNESCO: Giáo dục – Kho tàng tiềm ẩn (P11)

UNESCO: Giáo dục – Kho tàng tiềm ẩn (P12)

UNESCO: Giáo dục – Kho tàng tiềm ẩn (P13)

UNESCO: Giáo dục – Kho tàng tiềm ẩn (P14)

Đánh giá ảnh hưởng của Báo cáo UNESCO Delors 1996: Giáo dục – Kho tàng tiềm ẩn

 
https://i0.wp.com/ecx.images-amazon.com/images/I/512ZLvBLRJL._SY344_BO1%2C204%2C203%2C200_.jpg

Những sức ép cần phải vượt qua

Để đạt được những mục tiêu nêu ở phần trước, chúng ta phải đối mặt hay tốt hơn hết là vượt qua những sức ép. Mặc dầu, những sức ép không phải là mới, những sức ép sẽ là trung tâm cho các vấn đề của thế kỷ 21, cụ thể là:

  • Sức ép giữa toàn cầu và địa phương: chúng ta cần dần dần trở thành công dân toàn cầu mà không mất đi nguồn gốc của mình và trong khi tiếp tục đóng một vai trò tích cực trong đời sống của dân tộc mình và cộng đồng địa phương của mình.
  • Sức ép giữa tính phổ quát và tính cá nhân: văn hóa đang dần được toàn cầu hóa, nhưng chỉ ở một bộ phận. Chúng ta không thể phớt lờ những hứa hẹn của sự toàn cầu hóa cũng như những rủi ro của toàn cầu hóa, ít nhất đó là nguy cơ quên đi tính cách độc đáo của mỗi con người cá nhân; toàn cầu hóa là để những con người cá nhân ấy lựa chọn tương lai của riêng họ và phát huy đầy đủ tiềm năng trong khi thận trọng hướng tới sự giàu có trong các truyền thống của họ và trong các nền văn hóa của riêng họ, những truyền thống và văn hóa mà nếu không cẩn trọng đủ, nền văn hóa có thể bị đe dọa bởi những sự phát triển mang tính nhất thời.

Tiếp tục đọc “UNESCO: Giáo dục – Kho tàng tiềm ẩn (P3)”

Mấy cảm nhận về sự khác biệt giữa giáo dục miền Nam và giáo dục miền Bắc

Vương Trí Nhàn Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 7-8 (114-115).2014
10:31′ SA – Thứ ba, 03/02/2015

 

Đối chiếu với những điều bọn tôi được dạy bảo từ nhà trường phổ thông và sau này từng coi là phương hướng suy nghĩ, với các tài liệu mới đọc được, càng thấy trong khi khác biệt với GDMN, thì GDMB cũng khác nhiều so với thế giới. Đủ hiểu tại sao sau khi đào tạo trong nước, ra tiếp xúc với xã hội hiện đại, cánh học sinh sinh viên miền Bắc bọn tôi thường ú ớ, lạc lõng, trong khi những người được GDMN đào tạo thì hội nhập rất tự nhiên và hiệu quả.

Tôi vốn là người làm nghề nghiên cứu văn học.Trong cái nghề thuộc loại công tác tư tưởng này, những năm trước 1975, tôi chỉ được phép đọc các sách báo miền Bắc, còn sách vở miền Nam bị coi như thứ quốc cấm. Có điều, không phải chỉ là sự tò mò, mà chính lương tâm nghề nghiệp buộc tôi không thể bằng lòng với cách làm như vậy. Tiếp tục đọc “Mấy cảm nhận về sự khác biệt giữa giáo dục miền Nam và giáo dục miền Bắc”

Opening borders and barriers

Nature 527, S80–S82 (12 November 2015) doi:10.1038/527S80a
Published online
11 November 2015

Collaboration may result in higher impact science, but are government initiatives the best way to promote such international and interdisciplinary connections?

Kavli Institute

Tea time at Kavli Institute allows for an organized and informal exchange of collaborative ideas.

Nature – An American physicist, a Japanese mathematician and a German cosmologist walk into a lab; what do you get? Based on recent outcomes, you’ll get ground-breaking science. And lately, governments have begun paying heed to evidence1 that suggests international, multidisciplinary collaborations such as these will yield high-impact results.

Policymakers from diverse countries, including China, Japan, Australia, Chile and Germany, have sought to foster excellent science and technological innovation — and reap the associated economic benefits — by promoting collaboration across borders and disciplines, and setting up specialist centres with the necessary resources (see ‘Conduits to collaboration’).

Cần hiểu đúng tự trị đại học

Các trường đại học, khi được tự chủ trong việc xây dựng chương trình giảng dạy, sẽ thực hiện sự đào tạo theo nhu cầu của xã hội, của nền kinh tế. Họ sẽ nắm bắt, theo dõi nhu cầu của xã hội, của doanh nghiệp và cập nhật thường xuyên chương trình giảng dạy. Việc đào tạo sẽ trở nên hiệu quả hơn rất nhiều…

Nguoidothi – Nước ta đã trải qua nhiều cuộc cải cách về giáo dục và hiện nay, nhu cầu đổi mới nền giáo dục nước nhà vẫn đang là một vấn đề bức xúc của toàn xã hội. Kinh tế Việt Nam đang hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới, trong khi đó nền giáo dục, đặc biệt là giáo dục đại học, vẫn còn tụt hậu so với nhiều nước trong khu vực.Cải cách giáo dục phải là một quốc sách lâu dài, mà trọng tâm là cải tổ giáo dục đại học, dựa trên nhận thức đúng đắn rằng hệ thống giáo dục đại học của chúng ta chính là tài sản trí tuệ của cả cộng đồng dân tộc Việt. Hệ thống đó nhận trách nhiệm trước cộng đồng dân tộc thực hiện nghĩa vụ đào tạo, từ thế hệ này sang thế hệ khác. Những con người Việt Nam ưu tú có kiến thức chân thật ngang tầm thế giới, có đầy đủ tự do và nhân cách của người trí thức, có tư duy sáng tạo độc lập. Vì đại học là tài sản trí tuệ của toàn thể cộng đồng dân tộc, nên dù là đại học công lập hay dân lập, nó cần được Nhà nước dành cho quy chế tự trị để có thể hoàn thành tốt nghĩa vụ và trách nhiệm của nó trước cộng đồng. Tiếp tục đọc “Cần hiểu đúng tự trị đại học”