Với anh chị em đồng bào thiểu số ở rừng núi của chúng ta, rừng là cha, là mẹ và là đấng rất mực thiêng liêng. Có lẽ không có ai hiểu rừng và yêu rừng bằng họ. Mấy ngàn năm nay, con cháu của 50 người con theo mẹ Âu Cơ lên núi đã duy trì danh tiếng gìn giữ và phát triển rừng rất tốt.
Nay chúng ta đã có luật để cộng đồng (dân tộc thiểu số) làm chủ rừng, thì hãy để cộng đồng làm chủ rừng thật sự, thay vì “cộng đồng làm chủ, Nhà nước quản lý”, và Nhà nước cho doanh nghiệp phá rừng làm “dự án” mà không hỏi ý kiến của cộng đồng chủ.
Các cộng đồng dân tộc thiểu số đã là chủ rừng mấy ngàn năm nay, vậy chúng ta hãy tôn trọng truyền thống lâu đời đó.
PTH
- Vi Chring: Khi rừng cộng đồng chưa thực sự thuộc về cộng đồng
- Làm gì để cộng đồng thực sự thành chủ rừng, được hưởng lợi từ rừng?
- Nhìn lại mô hình cộng đồng tham gia quản lý rừng:
Bài 1: Hiệu quả từ sự chung tay
Bài 2: Nhiều vướng mắc trong giao rừng
***
Vi Chring: Khi rừng cộng đồng chưa thực sự thuộc về cộng đồng
nature.org – 15/10/2020

Từ năm 2007, cộng đồng thôn Vi Chring (xã Hiếu, huyện Kon Plông, tỉnh Kon Tum) được giao quản lý, bảo vệ 808 ha rừng sản xuất là rừng tự nhiên. Gần 15 năm trôi qua, họ đã bỏ ra không ít công sức miệt mài canh giữ với niềm tin sẽ được hưởng lợi từ rừng. Thế nhưng, bên cạnh một số hỗ trợ tài chính từ các dự án phi lợi nhuận và từ chính phủ, nhân dân thôn Vi Chring vẫn chưa được khai thác bền vững để thực sự hưởng lợi từ rừng.
Trong khi đó, việc thu hồi 9,87 ha rừng cộng đồng Vi Chring để xây dựng đường dây 500 kV mạch 3 đã cho thấy số phận mong manh của các khu rừng cộng đồng. Một mặt, người dân không được tiếp cận với phần gỗ vốn thuộc về họ được khai thác từ hành lang an toàn điện, nhưng mặt khác, một doanh nghiệp lại được giao tận thu gỗ, để rồi ngang nhiên tận thu cả vào phần rừng nằm ngoài phạm vi cho phép.
Đứng trước đề xuất từ phía cộng đồng và dự án, chính quyền địa phương đã chỉ đạo một số giải pháp tình thế để đền bù cho người dân. Nhưng về lâu dài, hy vọng rằng quyền hưởng lợi từ rừng và việc thực thi những quyền này trên thực tế sẽ sớm được quy định rõ ràng, để những cộng đồng cần mẫn giữ rừng có thể thực sự trở thành chủ rừng và có một thu nhập ổn định từ đó.
Video được sản xuất vớ́i sự hỗ trợ tài chính của Liên minh Châu Âu (EU) và Quỹ McKnight. Nội dung video do PanNature chịu trách nhiệm, không nhất thiết phản ánh quan điểm của các nhà̀ tà̀i trợ̣.
***
Làm gì để cộng đồng thực sự thành chủ rừng, được hưởng lợi từ rừng?
Luật Lâm nghiệp 2017 được Quốc hội thông qua, có hiệu lực từ ngày 1/1/2019, trong đó khái niệm cộng đồng dân cư đã được mở rộng và lần đầu tiên được công nhận là một trong 7 chủ rừng.
VN+ – Hùng Võ11/03/2019 16:20
Luật Lâm nghiệp có giúp cộng đồng trở thành những người chủ rừng thực sự, khi rừng tự nhiên vẫn thuộc quyền sở hữu của nhà nước? (Ảnh: Hùng Võ/Vietnam+)
Luật Lâm nghiệp 2017 đã được Quốc hội thông qua, có hiệu lực từ ngày 1/1/2019, trong đó khái niệm cộng đồng dân cư đã được mở rộng và lần đầu tiên được công nhận là một trong 7 chủ rừng. Đây là bước tiến quan trọng trong việc thúc đẩy quản lý rừng cộng đồng, hướng tới bảo vệ bền vững các khu rừng tự nhiên.
Thế nhưng, trong bối cảnh vẫn còn những định kiến về “giao đất-giao rừng,” Luật Lâm nghiệp có giúp cộng đồng trở thành những người chủ rừng thực sự, khi rừng tự nhiên vẫn thuộc quyền sở hữu của nhà nước? Nhà nước cần làm gì để đảm bảo rằng quản lý rừng cộng đồng được thực hiện một cách hệ thống, chuyên nghiệp?…
Trên đây là những vấn đề được các chuyên gia nghiên cứu về rừng đưa ra thảo luận tại buổi Tọa đàm “Để cộng đồng thực sự làm chủ: Thực tế và những thách thức” do Trung tâm Con người và Thiên nhiên tổ chức ngày 10/1, tại Hà Nội.
Công nhận cộng đồng là chủ rừng
Theo số liệu từ Tổng cục Lâm nghiệp, năm 2018 Việt Nam có 1.145.601 hécta rừng do cộng đồng dân cư tham gia quản lý (chiếm gần 8%), trong đó rừng tự nhiên là hơn 1.048.765 hécta, rừng trồng 96.836 hécta. Tuy nhiên, hiện mới chỉ có 524.477 hécta rừng đã có quyết định giao cho trên 10.000 cộng đồng.
Thực tế trên cho thấy diện tích rừng mà cộng đồng thực sự được “làm chủ” còn khá ít so với diện tích họ đang quản lý, sử dụng. Thậm chí, nhiều nơi, diện tích rừng giao cho cộng đồng quản lý còn ít hơn nhiều so với các công ty, ban quản lý, doanh nghiệp thuê rừng.
Đề cập vai trò của cộng đồng trong công tác bảo vệ rừng, ông Nguyễn Việt Dũng, Phó Giám đốc Trung tâm Con người và Thiên nhiên cho biết, sau gần hai thập kỷ thực hiện thí điểm giao rừng và phát triển các mô hình quản lý rừng cộng đồng cho thấy, cộng đồng địa phương có khả năng quản lý rừng cộng đồng một cách hiệu quả và mang lại nhiều lợi ích khác nhau về môi trường, kinh tế, và xã hội.
Cụ thể, giao rừng cho cộng đồng giúp hạn chế mất rừng và suy thoái rừng, gia tăng phục hồi và phát triển rừng, đồng thời giúp tạo thu nhập từ rừng cho người dân.
Tuy nhiên, ông Dũng cũng nêu ra thực tế là hiện nhiều địa phương, nhất là các cơ quan quản lý vẫn còn những định kiến hoặc ngần ngại, không ủng hộ giao đất-giao rừng cho cộng đồng vì thiếu đi niềm tin, hoặc lo ngại sau khi giao rừng sẽ mất.
“Việc cộng đồng tham gia quản lý rừng nhưng không được giao quyền làm chủ, kể cả ở những khu rừng quản lý theo truyền thống của đồng bào dân tộc thiểu số đang gây khó khăn cho tổ chức quản lý, phát triển và phục hồi rừng của cộng đồng địa phương. Đồng thời là nguy cơ gây mất rừng và suy thoái rừng,” ông Dũng nói.
Để giải quyết vấn đề trên, Luật Lâm nghiệp 2017 có hiệu lực từ ngày 1/1/2019, lần đầu tiên đã công nhận cộng đồng dân cư là một trong 7 chủ rừng. Đây là bước tiến quan trọng trong việc thúc đẩy quản lý rừng cộng đồng, hướng tới bảo vệ bền vững các khu rừng tự nhiên và góp phần cải thiện sinh kế cộng đồng.
Cụ thể, Luật Lâm nghiệp 2017 đã khẳng định “Nhà nước bảo đảm cho đồng bào dân tộc thiểu số, cộng đồng dân cư sinh sống phụ thuộc vào rừng được giao rừng gắn với giao đất để sản xuất” (Khoản 6 – Điều 4).
Tuy nhiên, trong bối cảnh vẫn còn những định kiến về “giao đất, giao rừng,” Luật Lâm nghiệp có giúp cộng đồng trở thành những người chủ rừng thực sự, khi rừng tự nhiên vẫn thuộc quyền sở hữu của nhà nước? Nhà nước cần làm gì để đảm bảo rằng quản lý rừng cộng đồng được thực hiện một cách hệ thống, chuyên nghiệp?
Theo đánh giá của giới chuyên gia nghiên cứu về rừng, nếu chiếu theo quy định, “rừng tự nhiên” là tài sản công, Nhà nước đại diện chủ sở hữu… thì công sức của người dân được giao rừng gần như mất trắng (?!). Trường hợp rừng cộng đồng Vi Chring ở xã Hiếu (Kon Tum) là một ví dụ. Năm 2008, cộng đồng thôn được nhận 808,8 hécta rừng sản xuất là rừng tự nhiên với mục tiêu thực hiện các nhiệm vụ bảo vệ, làm giàu rừng, phát triển lâm sản ngoài gỗ và sử dụng rừng bền vững.
Tuy nhiên, tuyên bố “đóng cửa rừng tự nhiên” của Chính phủ từ năm 2010 vô hình chung… đã khóa chặt cơ hội được hưởng lợi của cộng đồng này khi không cơ quan nào “dám” phê duyệt cho họ khai thác dù là theo thiết kế bền vững. Thậm chí, rất nhiều các hộ gia đình được giao rừng tự nhiên đều muốn chặt rừng để thành rừng sản xuất, rừng trồng bởi đơn giản, với rừng trồng, họ được thừa nhận quyền sở hữu đối với rừng.
Khu rừng này giao cho cộng đồng thôn Vi Glơng, xã Hiếu, huyện Kon Plông, tỉnh Kon Tum bảo vệ, nhưng hàng ngày vẫn bị chặt phá. (Ảnh: Vietnam+)
Cần có chính sách hỗ trợ hưởng lợi
Để giải quyết những vấn đề nêu trên, theo Trung tâm Con người và Thiên nhiên, cần thiết phải có những cải cách lớn để thiết lập một chế độ sở hữu và hưởng lợi từ rừng tự nhiên rõ ràng và phù hợp hơn nhằm một mặt hỗ trợ cơ quan quản lý trong công tác quản lý bảo vệ rừng, cải thiện hiệu quả nguồn lợi trên toàn bộ hệ thống.
Ngoài ra, trong hơn 10 triệu hécta rừng tự nhiên hiện nay, cần xác định rõ diện tích nào thuộc sở hữu nhà nước, diện tích nào có thể chuyển thành sở hữu chung (cộng đồng) hay sở hữu tư nhân. Với các diện tích rừng tự nhiên cần phải bảo vệ thì chuyển sang loại rừng bảo vệ, là tài sản công, sở hữu toàn dân và nhà nước cần tập trung đầu tư nguồn lực để bảo vệ.
Đối với rừng tự nhiên (có thể nghèo kiệt, hoặc trước đây nghèo kiệt) là rừng sản xuất thì nên được công nhận tài sản của chủ rừng, thuộc sở hữu riêng hoặc sở hữu chung (cộng đồng). Chủ rừng cần được phép khai thác theo quy trình quản lý và khai thác rừng bền vững. Quy định này sẽ tạo nên động lực lớn cho phát triển và khai thác rừng sản xuất là rừng tự nhiên từ ngay các chủ rừng.
Với kinh nghiệm nhiều năm nghiên cứu về rừng, ông Đào Xuân Khanh, Viện Chứng chỉ Rừng cho rằng việc giao rừng cho cộng đồng quản lý là bước tiến rất quan trọng. Tuy nhiên, ông Khanh cũng kiến nghị Nhà nước cần có chính sách hợp lý hỗ trợ cho đồng bào dân tộc thiểu số cũng như việc xem xét, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lâm nghiệp để người dân yên tâm bảo vệ, phát triển rừng.
Tại buổi tọa đàm, các đại biểu cũng đã thảo luận và đề xuất một số giải pháp thiết thực, góp phần hoàn thiện chính sách và thực hiện có hiệu quả việc quản lý rừng cộng đồng ở Việt Nam. Trong đó, Nhà nước cần có chính sách, cơ chế hưởng lợi phù hợp đối với rừng giao cho cộng đồng thôn/bản; cần đơn giản hóa thủ tục giao đất rừng cho đồng bào các dân tộc.
Chính quyền địa phương cần xác định giao đất giao rừng cho cộng đồng, thôn/bản là vấn đề ưu tiên bố trí kinh phí và thực sự quan tâm triển khai; cần rà soát lại ranh giới, trạng thái rừng, nhu cầu sử dụng đất rừng của cộng đồng để giải quyết tốt hiện trạng chồng lấn đất rừng, tranh chấp giữa các chủ rừng, thực hiện có hiệu quả công tác giao đất, giao rừng cho cộng đồng thôn/bản../.
Nhà nước cần làm gì để đảm bảo rằng quản lý rừng cộng đồng được thực hiện một cách hệ thống, chuyên nghiệp. (Ảnh: Hùng Võ/Vietnam+)
Luật Lâm nghiệp năm 2017 đã bổ sung cộng đồng dân cư là chủ rừng, theo đó, chủ rừng bao gồm: Ban quản lý rừng đặc dụng, ban quản lý rừng phòng hộ; Tổ chức kinh tế bao gồm doanh nghiệp, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã và tổ chức kinh tế khác được thành lập và hoạt động theo quy định của pháp luật; Đơn vị thuộc lực lượng vũ trang nhân dân được giao rừng; Tổ chức khoa học và công nghệ, đào tạo, giáo dục nghề nghiệp về lâm nghiệp; Hộ gia đình, cá nhân trong nước; Cộng đồng dân cư; Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được Nhà nước cho thuê đất để trồng rừng sản xuất.
(Vietnam+)
***
Nhìn lại mô hình cộng đồng tham gia quản lý rừng: Hiệu quả từ sự chung tay (Bài 1)
BDT – Sỹ Hào – 10:00, 22/06/2023
Cộng đồng tham gia quản lý rừng là một trong những hình thức quản lý rừng đã và đang được thực hiện tại một số địa phương. Mô hình này mang lại hiệu quả kinh tế – xã hội, sử dụng bền vững tài nguyên rừng và phù hợp với tập quán sản xuất truyền thống của cộng đồng các DTTS. Tuy nhiên, hiện vẫn còn nhiều rào cản cả về hành lang pháp ý cũng như cơ chế, chính sách để nhân rộng và làm tăng thêm hiệu quả của mô hình này.

Được triển khai bằng nhiều hình thức, mô hình quản lý rừng cộng đồng đã mang lại hiệu quả, không chỉ bảo vệ và phát triển rừng mà còn đem lại thu nhập cho cộng đồng, người dân trực tiếp tham gia. Từ mô hình này, tài nguyên rừng đã gia tăng giá trị, góp phần phát triển bền vững cho các địa phương có rừng.
Chung tay bảo vệ tài nguyên
Khu bảo tồn thiên nhiên (KBTTN) Bát Xát, tỉnh Lào Cai có diện tích 18.637 ha (trong đó hơn 15.000 ha là rừng tự nhiên) trải rộng trên địa bàn 5 xã: Y Tý, Dền Sáng, Sảng Ma Sáo, Trung Lèng Hồ và Nậm Pung. Đây là KBTTN có hệ sinh thái phong phú, đa dạng. Qua khảo sát, điều tra sơ bộ, Khu bảo tồn hiện có trên 976 loài thực vật rừng, trong đó có 137 loài thực vật rừng nguy cấp quý hiếm cần được bảo vệ, có 44 loài nằm trong Sách đỏ Việt Nam và trên thế giới; trên 173 loài động vật, trong đó có 52 loài là loài đặc hữu quý hiếm cần được bảo vệ.
Theo ông Ngô Kiên Trung – Hạt trưởng Hạt Kiểm lâm kiêm Trưởng Ban quản lý (BQL) KBTTN Bát Xát, để quản lý tốt tài nguyên thiên nhiên quý giá này, công tác bảo vệ rừng được đơn vị triển khai thực hiện nghiêm ngặt. Riêng năm 2022, BQL KBTTN Bát Xát đã tổ chức trên 800 đợt tuần tra, kiểm tra bảo vệ rừng.
Tuy nhiên, theo ông Trung, do có địa hình chia cắt mạnh, nhiều núi cao, vực sâu hiểm trở và lực lượng khu bảo tồn mỏng so với diện tích được giao quản lý nên công tác bảo vệ rừng và phòng cháy chữa cháy rừng tại KBTTN Bát Xát gặp nhiều khó khăn. Khó khăn nhất là nhận thức của người dân bản địa về giá trị đa dạng sinh học của khu bảo tồn còn hạn chế; nhiều hộ dân trong khu vực đã trồng cây thảo quả và sấy khô thảo quả ngay tại lõi rừng dẫn tới nguy cơ cháy rừng cao…

Để tăng cường bảo vệ rừng đặc dụng, bảo vệ đa dạng sinh học, BQL KBTTN Bát Xát đã trực tiếp ký hợp đồng giao khoán bảo vệ rừng cho các thôn bản trên địa bàn 5 xã. Người dân các thôn bản bầu ra Tổ bảo vệ rừng; các tổ thực hiện tuần tra bảo vệ rừng định kỳ hằng tháng (ít nhất 2 lần/tháng). Hiện, đơn vị đã ký hợp đồng giao khoán cho 32 Tổ bảo vệ rừng ở tất cả các thôn trên địa bàn, với tổng diện tích giao khoán là hơn 16.000 ha, nhờ đó, rừng được bảo vệ nghiêm ngặt.
Ông Lý A Xóa, thành viên Tổ Bảo vệ rừng thôn Pờ Chồ Cao (xã Trung Lèng Hồ) cho biết, mỗi đợt tuần rừng, tổ đi vào sâu trong những cánh rừng nhằm phát hiện sớm những vi phạm trong công tác bảo vệ rừng; đồng thời tuyên truyền để Nhân dân địa phương hiểu rõ ý nghĩa của việc bảo vệ rừng.
“Chúng tôi tuyên truyền cho dân không chặt phá rừng, chú ý phòng chống cháy rừng. Trong rừng có gấu, lợn rừng, nai rừng, sóc… hay các loại thú rừng khác nên cũng tuyên truyền cho bà con phải bảo vệ động vật hoang dã”, ông Xóa chia sẻ.
Nhiều hình thức bảo vệ rừng
Việc BQL KBTTN Bát Xát ký hợp đồng giao khoán bảo vệ rừng cho các thôn bản là một trong những hình thức triển khai mô hình quản lý rừng cộng đồng được Cục Lâm nghiệp – Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT) thí điểm thực hiện trong thời gian qua ở một số địa phương. Đây là hình thức hợp tác giữa chủ rừng là các BQL rừng, các công ty lâm nghiệp với các cộng đồng, nhóm hộ gia đình hoặc hộ gia đình; là hình thức hợp tác quản lý rừng giữa các tổ chức Nhà nước với người dân địa phương.
Theo số liệu của Cục Lâm nghiệp, cả nước hiện có 167 BQL rừng đặc dụng, 216 BQL rừng phòng hộ, 112 công ty lâm nghiệp. Hằng năm, các BQL rừng đã khoán trên 1,3 triệu ha rừng cho cộng đồng; các công ty lâm nghiệp cũng khoán hàng nghìn ha cho cộng đồng, mang lại hiệu quả cao trong bảo vệ, phát triển rừng, nhất là rừng đặc dụng, rừng phòng hộ.
Cùng với diện tích rừng được hợp đồng giao khoán cho cộng đồng bảo vệ thì một hình thức khác cũng mang lại hiệu quả cao là giao rừng cho cộng đồng quản lý và sử dụng. Số liệu trích dẫn tại Quyết định số 2869/QĐ-BNN-TCLN ngày 27/7/2022 về công bố hiện trạng rừng toàn quốc năm 2021 của Bộ NN&PTNT cho thấy, cả nước đã có trên 10.000 cộng đồng đang quản lý, sử dụng 989.827 ha rừng; trong đó có 524.477 ha đã giao và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng rừng cho cộng đồng.

Với việc giao rừng cho cộng đồng, các thành viên cộng đồng tự hợp tác với nhau thành lập hệ thống tổ chức quản lý rừng, xây dựng hương ước, cơ chế hưởng lợi, tổ chức quản lý, bảo vệ và phát triển rừng. Theo đánh giá của Bộ NN&PTNT tại Hội thảo “Phát triển kinh tế nông, lâm nghiệp xanh, bền vững vùng Tây Nguyên gắn với quản lý, bảo vệ và phát triển rừng” tổ chức ngày 4/4/2023 tại Đăk Lăk, quản lý rừng cộng đồng từng bước được thừa nhận là một trong các phương thức quản lý rừng hiệu quả.
Tại Hội thảo này, ông Trần Quang Bảo, Cục trưởng Cục Lâm nghiệp cho biết, ngoài các hình thức nêu trên, công tác quản lý rừng còn được thực hiện bằng hình thức tuần tra bảo vệ rừng có sự tham gia của cộng đồng, bắt đầu từ năm 2004 ở một số BQL rừng đặc dụng, rừng phòng hộ. Đây là cách thức thu hút cộng đồng, sử dụng kiến thức bản địa, gắn kết trách nhiệm và quyền lợi của cộng đồng cùng tuần tra bảo vệ rừng. Các BQL rừng hỗ trợ cộng đồng phát triển sinh kế, chuyển đổi cây trồng, vật nuôi; phổ biến kỹ thuật canh tác…
“Ngoài ra, còn hình thức đồng quản lý rừng bằng cơ chế thành lập Hội đồng quản lý rừng. Đây là một trong các cách thức hợp tác quản lý rừng giữa BQL rừng hoặc công ty lâm nghiệp với cộng đồng trong quản lý, bảo vệ và chia sẻ lợi ích từ rừng, bắt đầu được thí điểm từ năm 2012”, ông Bảo cho biết.
Gắn trách nhiệm và quyền lợi
Để công tác quản lý, bảo vệ rừng hiệu quả, thì việc bảo đảm quyền lợi của cộng đồng được ngành Lâm nghiệp đặc biệt quan tâm thực hiện. Từ nguồn kinh phí chi trả dịch vụ môi trường rừng (DVMTR) theo Nghị định số 99/2010/NĐ-CP ngày 24/9/2010 của Chính phủ; các cộng đồng có thêm nguồn thu nhập, từ đó tích cực tham gia bảo vệ, phát triển rừng.
Đơn cử tại thôn Tân Mỹ, xã Phong Mỹ (huyện Phong Điền, Thừa Thiên – Huế), cộng đồng thôn được giao quản lý, bảo vệ gần 560 ha rừng tự nhiên thuộc vùng đệm KBTTN Phong Điền, đã được chi trả 516 triệu đồng tiền DVMTR. Nguồn kinh phí này được sử dụng theo Quy chế quản lý, sử dụng tiền chi trả DVMTR, có xác nhận của chính quyền địa phương. Hay tại Bát Xát (Lào Cai), 32 Tổ bảo vệ rừng của KBTTN Bát Xát, từ nguồn quỹ chi trả DVMTR, bình quân mỗi năm BQL KBTNT chi trả khoảng 6 tỷ đồng cho hàng nghìn hộ đồng bào trên địa bàn 5 xã tham gia nhận khoán, bảo vệ rừng…

Theo số liệu của Cục Lâm nghiệp, giai đoạn 2017 – 2022, cả nước đã có 5.892 cộng đồng, thôn bản, nhóm hộ được nhận 2.029 tỷ đồng tiền DVMTR. Các cộng đồng tham gia quản lý, bảo vệ rừng được chi trả bình quân 50 triệu đồng/cộng đồng/năm. Ngoài ra, trong giai đoạn này có 259.139 hộ gia đình, cá nhân đã nhận được 943 tỷ đồng tiền DVMTR.
“Tiền DVMTR chiếm bình quân khoảng 20% thu nhập hằng năm của khoảng 250 nghìn hộ gia đình, cá nhân làm nghề rừng, góp phần cải thiện sinh kế, xóa đói giảm nghèo, tạo thêm việc làm, cải thiện sinh kế, thúc đẩy phát triển sản xuất cho đồng bào miền núi”, báo cáo của Cục Lâm nghiệp khẳng định.
Theo Cục trưởng Cục Lâm nghiệp Trần Quang Bảo, với việc chia sẻ lợi ích từ rừng, hiện cả nước có hàng trăm mô hình quản lý rừng cộng đồng có hiệu quả. Các mô hình này đã góp phần phát triển cộng đồng, nâng cao nhận thức và năng lực quản lý, bảo vệ rừng, tạo mối liên kết giữa cộng đồng với các đơn vị lâm nghiệp, giảm xung đột lợi ích từ rừng.
Tuy nhiên, theo đánh giá của đại diện Cục Lâm nghiệp, mỗi hình thức quản lý rừng cộng đồng có những thành công ở mức độ khác nhau và có những rào cản riêng; các vấn đề về pháp lý, cơ chế, chính sách cần được rà soát, sửa đổi để hợp tác quản lý rừng hiệu quả hơn.
Báo Dân tộc và Phát triển sẽ phản ánh nội dung này trong số báo tiếp theo.
Số liệu trích dẫn tại Quyết định số 2869/QĐ-BNN-TCLN ngày 27/7/2022 về công bố hiện trạng rừng toàn quốc năm 2021 của Bộ NN&PTNT cho thấy, cả nước hiện có trên 14,745 triệu ha rừng; trong đó rừng tự nhiên là gần 10,172 triệu ha, rừng trồng là hơn 4,573 triệu ha; có gần 2,2 triệu ha rừng đặc dụng và gần 4,7 triệu ha rừng phòng hộ. Tính đến 31/12/2021, diện tích rừng cộng đồng dân cư được giao quản lý, sử dụng là 989.827 ha, chiếm 6,7% tổng diện tích rừng của cả nước; trong đó có 920.827 ha là rừng tự nhiên, rừng trồng là 69.486 ha.
***
Nhìn lại mô hình cộng đồng tham gia quản lý rừng: Nhiều vướng mắc trong giao rừng (Bài 2)
BDT – Sỹ Hào – 22:42, 01/07/2023
Giao rừng cho cộng đồng được đánh giá là phương thức hiệu quả trong mô hình cộng đồng tham gia quản lý rừng. Mặc dù cộng đồng dân cư đã được pháp luật thừa nhận là một trong những chủ rừng, nhưng do thiếu các quy định cần thiết để trở thành một pháp nhân nên rừng cộng đồng hiện vẫn chưa “chính danh”; quyền chủ rừng của cộng đồng dân cư vẫn bị hạn chế so với các chủ rừng khác.

Hoàn thiện pháp lý về giao rừng cho cộng đồng
Trước khi có Luật Bảo vệ và Phát triển rừng năm 2004, việc giao rừng cho cộng đồng dân cư đã được thí điểm triển khai ở một số dự án lâm nghiệp, đem lại hiệu quả cao trong quản lý, bảo vệ và phát triển rừng. Đơn cử như năm 2001, đồng bào dân tộc Mnông ở bon Bu Nơr, xã Quảng Tâm (huyện Tuy Đức, Đăk Nông) đã được giao 1.016 ha rừng để quản lý, bảo vệ. Diện tích rừng được giao cho cộng đồng bon Bu Nơr không những được bảo vệ tốt, mà còn góp phần tạo thêm thu nhập cho người dân trong bon. Theo tính toán, sau khi trừ các khoản chi phí, cộng đồng bon Bu Nơr tham gia quản lý, bảo vệ rừng được hưởng khoảng 339 triệu đồng/năm.
Từ kết quả này, ngày 26/12/2012, UBND tỉnh Đăk Nông đã có văn bản số 5591/UBND-NN, thu hồi 853,7 ha rừng tự nhiên do Công ty TNHH Cao su Phú Riềng quản lý để giao thêm cho cộng đồng bon Bu Nơr. Tổng diện tích rừng được giao cho cộng đồng bon Bu Nơr ổn định từ đó đến nay.
Hay ở thôn Thủy Yên Thượng, xã Lộc Thủy (huyện Phú Lộc, Thừa Thiên Huế). Năm 2000, thôn được giao 404,5 ha rừng nghèo và một phần diện tích thuộc rừng phòng hộ xung yếu để quản lý, bảo vệ. Sau 4 năm (năm 2004), cộng đồng thôn Thủy Yên Thượng, đã đề xuất khai thác gỗ tạm ứng và được cấp phép khai thác 91,2 m3 gỗ, giá trị thu được sau khi trừ các khoản chi phí, thôn thu được khoảng 119 triệu đồng.
Hiệu quả quản lý, bảo vệ rừng, góp phần tạo thêm thu nhập cho cộng đồng từ các mô hình thí điểm này, là một trong những cơ sở thực tiễn để các nhà làm luật xây dựng quy định giao rừng cho cộng đồng trong Luật Bảo vệ và Phát triển rừng (BV&PTR) năm 2004. Từ khi có quy định của luật, kế đó là Luật Lâm nghiệp năm 2017 và các văn bản pháp luật liên quan, việc giao rừng cho cộng đồng dân cư quản lý, sử dụng đã đạt được nhiều kết quả tích cực.

Tính đến 31/12/2021, theo số liệu của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT), cả nước đã có 989.827 ha (trong đó, rừng tự nhiên là 920.827 ha, rừng trồng là 69.486 ha) đã được giao cho 10.006 cộng đồng dân cư quản lý, bảo vệ rừng, chủ yếu là cộng đồng các DTTS. Trong diện tích rừng nêu trên, đã cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng cho 524.477 ha rừng.
Theo số liệu của Bộ NN&PTNT, hiện cả nước có 10.006 cộng đồng dân cư đang tham gia quản lý, sử dụng 989.827 ha rừng; trong đó có 524.477 ha đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng rừng. Nhưng do quy định về quyền chủ rừng tại Luật Bảo vệ và Phát triển rừng, Luật Lâm nghiệp nên các Giấy chứng nhận quyền sử dụng rừng đã được cấp đều không có giá trị trong việc thế chấp, góp vốn kinh doanh của chủ rừng.
Theo đánh giá của Bộ NN&PTNT, khi được giao rừng, cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng rừng, rất nhiều cộng đồng dân cư đã xây dựng được quy ước quản lý, bảo vệ rừng rất cụ thể, các hoạt động quản lý bảo vệ rừng đã trở thành nề nếp.
Đơn cử như ở khu 9, thị trấn Than Uyên (huyện Than Uyên, Lai Châu), cộng đồng quy định các hộ làm nhà mới chỉ được sử dụng 1 – 3 cây gỗ có đường kính trên 30 cm dưới sự giám sát của cộng đồng; được sử dụng gỗ rừng trồng để phục vụ thủy lợi; mỗi năm chỉ được phép vào rừng lấy củi 1 lần vào dịp cuối năm trong vòng 1 – 3 ngày; không được lấy măng, chỉ được lấy rau, lá thuốc, nhưng phải báo cho Tổ bảo vệ…
Vướng từ “độ vênh” trong quy định
Thực tiễn đã cho thấy, hiệu quả của việc giao rừng cho cộng đồng dân cư quản lý, bảo vệ. Tuy nhiên, hiện tại, diện tích rừng cộng đồng còn rất hạn chế, ít hơn nhiều so với diện tích rừng của các chủ rừng khác. Theo Quyết định số 2869/QĐ-BNN-TCLN ngày 27/7/2022 về công bố hiện trạng rừng toàn quốc năm 2021 của Bộ NN&PTNT, diện tích rừng đã giao cho cộng đồng dân cư là 989.827 ha, chỉ chiếm 6,7% tổng diện tích rừng cả nước (hơn 14, 745 triệu ha).
Cũng theo số liệu của Bộ NN&PTNT, thì 989.827 ha này được giao cho 10.006 cộng đồng dân cư; vị chi, bình quân mỗi cộng đồng chỉ được giao chưa đầy 100 ha để quản lý, bảo vệ. Trong khi đó, cả nước hiện có 216 Ban Quản lý rừng phòng hộ, nhưng lại quản lý hơn 3,059 triệu ha rừng; cả nước có 112 công ty lâm nghiệp nhà nước được giao gần 1,689 triệu ha rừng…

Thực tế, các công ty lâm nghiệp, các ban quản lý rừng không đủ nhân lực để quản lý bảo vệ rừng. Sau nhiều năm chuyển hầu hết đất lâm nghiệp cho các lâm trường quản lý, tình trạng mất rừng, mất đất rừng, tranh chấp… diễn biến phức tạp, nên phương thức đồng quản lý rừng giữa Nhà nước và các cộng đồng thôn bản được chú trọng thực hiện. Nhưng nghịch lý là, diện tích rừng được giao cho cộng đồng dân cư đang có xu hướng giảm.
Cụ thể, năm 2018, theo báo cáo hiện trạng rừng Việt Nam của Bộ NN&PTNT, diện tích rừng được giao cộng đồng dân cư tham gia quản lý, bảo vệ là hơn 1,156 triệu ha, chiếm gần 8% tổng diện tích rừng của cả nước; trong đó 1.051.224 ha là rừng tự nhiên, rừng trồng là 105.490 ha. Nhưng đến 31/12/2021, diện tích rừng đã giao cho cộng đồng dân cư giảm xuống còn 989.827 ha, chiếm 6,7% tổng diện tích rừng cả nước như đã nêu ở trên; trong đó có 920.827 ha là rừng tự nhiên, rừng trồng chỉ có 69.486 ha.
Nghịch lý này đã được đại diện Cục Lâm nghiệp (Bộ NN&PTNT) lý giải tại Hội thảo “Phát triển kinh tế nông, lâm nghiệp xanh, bền vững vùng Tây Nguyên gắn với quản lý, bảo vệ và phát triển rừng” tổ chức ở Tp. Buôn Ma Thuột (Đăk Lăk) ngày 4/4/2023. Theo đó, một trong những nguyên nhân được xác định, là do những quy định về quản lý rừng cộng đồng còn chưa đồng bộ giữa một số bộ luật và các văn bản pháp luật liên quan.
Cụ thể, theo ông Trần Quang Bảo – Cục trưởng Cục Lâm nghiệp, cộng đồng dân cư được Nhà nước giao rừng phòng hộ theo quy định của Luật Bảo vệ và Phát triển rừng thì được giao đất rừng phòng hộ để bảo vệ, phát triển rừng (khoản 5, Điều 36 – Luật Đất đai 2013). Tuy nhiên, tại Điều 45a – Nghị định số 01/2017/NĐ-CP của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số nghị định quy định chi tiết thi hành Luật Đất đai 2013 lại quy định, kể từ sau ngày 1/7/2004, Nhà nước không giao đất rừng sản xuất là rừng tự nhiên cho cộng đồng dân cư.
“Đây chính là điểm không tương thích giữa giao đất và giao rừng cho cộng đồng dân cư, gây khó khăn trong xác định quyền sử dụng đất rừng, quyền sử dụng rừng trên đất cũng như khó khăn trong cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng rừng cho cộng đồng dân cư”, ông Bảo đánh giá.
Vì sao cộng đồng chưa mặn mà nhận rừng?
Cũng theo đại diện Cục Lâm nghiệp, một nghịch lý khác đang tồn tại ở vùng đồng bào DTTS và miền núi là, hiện có nhiều cộng đồng dân cư sinh sống gần rừng đang thiếu đất sản xuất, nhưng chưa thiết tha nhận đất rừng, nhận rừng. Nguyên nhân là do địa vị pháp lý của cộng đồng dân cư chưa được xác định một cách rõ ràng.

“Các văn bản quy phạm pháp luật đã thừa nhận vai trò của cộng đồng dân cư, được xem là một trong các chủ thể như Luật Đất đai 2013, Luật Lâm nghiệp 2017, Luật Dân sự 2015, Luật Bảo vệ và Phát triển rừng sửa đổi 2016… Nhưng đến nay, cộng đồng nói chung, cộng đồng dân cư nói riêng không được pháp luật thừa nhận là một pháp nhân; do đó cộng đồng dân cư thiếu các quy định pháp luật để giải quyết quan hệ dân sự trong quản lý rừng, kể cả xử lý hành chính, hình sự các tranh chấp”, đại diện Cục Lâm nghiệp khẳng định.
Theo Luật Lâm nghiệp 2017, “Chủ rừng” là tổ chức, hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư được Nhà nước giao rừng, cho thuê rừng; giao đất, cho thuê đất để trồng rừng; tự phục hồi, phát triển rừng; nhận chuyển nhượng, tặng cho, thừa kế rừng theo quy định của pháp luật. Có 7 chủ rừng được Luật này xác định, bao gồm: Ban Quản lý rừng đặc dụng, Ban Quản lý rừng phòng hộ; Tổ chức kinh tế bao gồm doanh nghiệp, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã và tổ chức kinh tế khác được thành lập và hoạt động theo quy định của pháp luật; đơn vị thuộc lực lượng vũ trang Nhân dân được giao rừng; tổ chức khoa học và công nghệ, đào tạo, giáo dục nghề nghiệp về lâm nghiệp; hộ gia đình, cá nhân trong nước; cộng đồng dân cư; doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được Nhà nước cho thuê đất để trồng rừng sản xuất.
Đây cũng là đánh giá của Gs. Đặng Hùng Võ – nguyên Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường. Theo ông Võ, khái niệm cộng đồng ở Việt Nam cũng rất mơ hồ, chưa được quy định trong các văn bản luật của Nhà nước. Cộng đồng không phải cơ quan chính quyền, không phải là doanh nghiệp, cũng không phải tư nhân, nên không có cả tư cách pháp nhân và thể nhân; vì vậy không thể mở tài khoản ở ngân hàng, cũng không thể cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ghi chủ thể là thôn bản.
Do không phải là một pháp nhân, nên khi được giao rừng, cộng đồng dân cư không có cơ hội hay đủ các điều kiện để tiếp cận các nguồn tín dụng để trồng rừng sản xuất. Theo tổng hợp của Bộ NN&PTNT, nhu cầu về vốn của cộng đồng tham gia quản lý, sử dụng rừng khá cao, kể cả vốn cho phát triển các loài cây lâm sản ngoài gỗ dưới tán rừng, hoặc vốn để sản xuất và chế biến lâm sản ngoài gỗ. Trong khi hiện nay, Nhà nước vẫn chưa có chính sách về vay vốn hay chính sách đầu tư cho chủ rừng là “cộng đồng dân cư” quản lý, sử dụng rừng.
Đặc biệt, theo các chuyên gia lâm nghiệp, một trong những nguyên nhân chính khiến cộng đồng dân cư chưa thiết tha nhận rừng, nhận đất rừng để quản lý, bảo vệ và phát triển là do quyền chủ rừng của họ rất hạn chế. Không tính diện tích rừng tự nhiên được giao bảo vệ, đối với diện tích rừng sản xuất dù đã hoặc chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng thì quyền chủ rừng của cộng đồng dân cư vẫn chỉ mang tính… tượng trưng.
Cụ thể, Luật Lâm nghiệp 2017 xác lập cộng đồng dân cư, là 1 trong 7 loại chủ rừng, nhưng lại không có các quyền như các chủ rừng khác, như: Quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thế chấp, góp vốn kinh doanh bằng giá trị quyền sử dụng rừng được giao (khoản 2, Điều 85 – Luật Lâm nghiệp 2017). Đây cũng là quy định được đưa ra trong Luật Bảo vệ và Phát triển rừng 2004 (sửa đổi 2016).
“Điều này dẫn đến làm hạn chế cộng đồng dân cư trong việc thế chấp, góp vốn kinh doanh bằng giá trị quyền sử dụng rừng. Hệ lụy là cộng đồng dân cư chưa thiết tha nhận đất để trồng rừng sản xuất, việc giao đất, giao rừng chậm, đất chưa giao còn nhiều”, đại diện Cục Lâm nghiệp khẳng định.
Chính vì những vướng mắc này nên dù được đánh giá là, phương thức quản lý rừng dựa vào cộng đồng hiệu quả nhưng việc giao rừng cho cộng đồng dân cư đang có xu hướng chững lại và đi xuống. Trong khi đó, các phương thức hợp tác với cộng đồng để quản lý rừng cũng chỉ dừng lại ở mức thí điểm do còn thiếu khuôn khổ pháp lý.
Báo Dân tộc và Phát triển sẽ phản ánh nội dung này trong số báo tiếp theo.