
UN – Ở Việt Nam, trung bình mỗi ngày vẫn có từ 5 đến 7 phụ nữ tử vong trong quá trình mang thai hoặc sinh nở. Mặc dù “tỉ lệ tử vong bà mẹ” đã giảm xuống đáng kể trong một vài năm qua nhưng vẫn tồn tại những cách biệt lớn giữa các vùng miền, khu vực – tỷ lệ tử vong mẹ ở một số khu vực dao động từ mức thấp nhất là 40 đến cao nhất là 410 ca trên mỗi 100.000 ca đẻ sống. Tỷ lệ cao nhất được thấy ở các vùng sâu vùng xa, vùng núi nơi người dân tộc thiểu số sinh sống. Các nguyên nhân chính bao gồm thiếu nữ hộ sinh có kỹ năng, năng lực của nhân viên y tế ở các vùng dân tộc thiểu số còn thấp và một số rào cản văn hóa hạn chế khả năng tiếp cận các dịch vu chăm sóc sức khỏe sinh sản của phụ nữ dân tộc thiểu số. Để giải quyết vấn đề này, Liên Hợp Quốc(LHQ) hiện đang hỗ trợ một sáng kiến tuyển chọn và đào tạo phụ nữ địa phương trở thành các nữ hộ sinh ờ ngay thôn bản mà họ đang sinh sống.
Thôn Ma Dú, xã Phước Thành, huyện Bác Ái, tỉnh Ninh Thuận – Sau một số công việc đồng áng, Cha Ma Lé Thị Tề vội rửa tay sạch sẽ, lấy bộ dụng cụ đỡ đẻ và vội vàng đến thăm các sản phụ trong thôn. Cô là một trong số 49 nữ hộ sinh đã tốt nghiệp chương trình đào tạo 18 tháng dành cho phụ nữ dân tộc thiểu số do Quỹ Dân số Liên Hợp Quốc (UNFPA) hỗ trợ tại ba tỉnh Ninh Thuận, Kon Tum và Hà Giang.
Trên cơ sở kết hợp lý thuyết với thực hành, chương trình thí điểm này nhằm cải thiện các dịch vụ chăm sóc sức khỏe bà mẹ và chăm sóc sức khỏe ban đầu cấp thôn bản và xã, qua đó góp phần giảm tỷ lệ tử vong bà mẹ và trẻ em trong các cộng đồng dân tộc thiểu số.
Ngay sau khi kết thúc khóa đào tạo vào tháng 3 năm nay, Tề, người dân tộc Rắc Lây, bắt đầu cung cấp các dịch vụ chăm sóc sức khỏe tại bản của mình. Giờ đây lịch làm việc của cô khá bận rộn. Từ Thứ Hai đến Thứ Sáu cô đến các hộ gia đình giúp đỡ các bà mẹ theo yêu cầu và khi cần thiết thì đến trạm y tế xã để hỗ trợ các cán bộ, nhân viên y tế nhằm tiếp tục học nâng cao kiến thức. Tề vẫn phải dành thời gian cho công việc đồng áng vào cuối tuần vì thu nhập từ việc làm hộ sinh thôn bản không đủ để cô chi tiêu cho gia đình. Nhưng cô vẫn rất vui. Không chỉ cuộc sống của bản thân thay đổi mà cô còn góp phần cải thiện cuộc sống của nhiều phụ nữ khác trong địa phương của mình.
“Nhờ có lớp tập huấn, tôi đã có được những kỹ năng và kiến thức cần thiết về sức khỏe bà mẹ. Giờ đây tôi thấy tự tin trong việc cung cấp các dịch vụ kế hoạch hóa gia đình, chăm sóc sức khỏe trước và sau sinh cũng như đỡ đẻ cho các ca sinh thường. Đối với những ca đẻ khó tôi biết cách chuyển sản phụ lên tuyến trên để họ có được những chăm sóc cần thiết,” Tề giải thích.
Công việc của Tề và hai nữ hộ sinh thôn bản khác được các cán bộ trung tâm y tế xã, đặc biệt là chị Loan, trưởng nhóm hộ sinh, theo dõi và hướng dẫn chặt chẽ. Chị Loan cho biết “Họ làm việc rất tốt và tất cả đều rất nhiệt tình”.
Vượt qua các tập quán lạc hậu
Hiểu được ngôn ngữ, văn hóa và phong tục tập quán của một dân tộc là yếu tố then chốt trong việc tạo dựng lòng tin và khuyến khích phụ nữ dân tộc tiếp cận các dịch vụ y tế phù hợp. “Phụ nữ ở đây hài lòng với công việc của tôi” – Tề khẳng định một cách chắc chắn. “Họ tin tưởng tôi vì một số lý do: tôi sinh ra và lớn lên ở bản này, chúng tôi biết nhau từ trước và họ cũng biết rằng tôi là một trong các nữ hộ sinh có kỹ năng. Thêm nữa, chúng tôi cùng là người dân tộc và nói cùng một ngôn ngữ.”
Tất cả những yếu tố này đã giúp Tề dễ dàng tiếp cận chị em phụ nữ trong bản của mình trong việc cung cấp các dịch vụ giáo dục, tham vấn sức khỏe và các dịch vụ liên quan khác. Điều này góp phần giúp các bà mẹ vượt qua một số tập quán lạc hậu mà trước đây đã không cho phép họ tiếp cận với các dịch vụ chăm sóc sức khỏe bà mẹ.
Chẳng hạn như khi một sản phụ không được các nữ hộ sinh có kỹ năng trợ giúp thì nguy cơ tai biến trong quá trình mang thai hoặc sinh nở sẽ cao hơn rất nhiều. Cách đây không lâu nhiều phụ nữ Rắc Lây vẫn sinh con trong rừng và được mẹ chồng hay các bà mụ đỡ đẻ theo kinh nghiệm dân gian. Trước ngày sinh, họ thường dựng một cái chòi bên cạnh một cái cây để làm nơi sinh con và ở đó ít nhất 3 ngày sau khi sinh. Sau đó, họ đun vỏ cây để uống bởi họ tin rằng điều đó sẽ giúp họ nhanh chóng ngưng ra máu sau sinh.
Mặc dù tục uống nước nấu từ vỏ cây vẫn còn tồn tại nhưng hiện nay hầu hết sản phụ đều muốn được nữ hộ sinh có chuyên môn đỡ đẻ cho mình. “Số lượng phụ nữ đến trạm y tế xã để khám thai và sinh con tăng lên mỗi ngày,” – anh Cha Ma Lé Vương, trưởng trạm y tế xã Phước Thành nói thêm. Có được điều đó là nhờ các chiến dịch tuyên truyền nâng cao nhận thức về mang thai và sinh nở an toàn do chính quyền địa phương và các cơ quan đoàn thể tổ chức cũng như nhờ có những nữ hộ sinh người dân tộc có kỹ năng.
Tề và các đồng nghiệp của mình tại trạm y tế còn tham gia tích cực vào ‘nhóm chuyển tuyến dựa vào cộng đồng’ nhằm đưa sản phụ và trẻ sơ sinh đến trạm y tế khi cần thiết. “Chúng tôi cũng có một câu lạc bộ nuôi con bằng sữa mẹ nhằm giúp các bà mẹ tiếp cận thông tin về dinh dưỡng, sức khỏe, vệ sinh và phòng chống thương tích cho bà mẹ và trẻ em,” – anh Vương bổ sung.
Đỡ các ca đẻ thường và chăm sóc trước và sau khi sinh
Cha Ma Lé Thị Cúc năm nay 24 tuổi. Cô được sinh ra trong rừng với sự trợ giúp của một bà mụ vườn. “Lúc đó còn chưa có trạm y tế xã” – Cúc nói. “Mọi việc thay đổi theo năm tháng. Khi tôi sinh đữa con đầu lòng cách đây 4 năm thì đã có trạm y tế xã nhưng lúc đó chúng tôi hầu như không biết gì về các dịch vụ ở trạm y tế. Đó là lý do tại sao tôi sinh cháu tại nhà.” Ba tháng trước, Cúc sinh đứa con thứ hai. Nhưng lần này cô được nữ hộ sinh Tề và Cha Ma Lé Thị Hém, một nữ hộ sinh khác mới tốt nghiệp khóa đào tạo ở cùng bản với cô trợ giúp. Cả hai nữ hộ sinh này thường xuyên đến thăm nhà Cúc trong suốt thời gian cô mang thai. “Mọi việc đều diễn ra đúng như dự kiến và cả mẹ và em bé hiện đều rất khỏe mạnh,” Tề cho biết trong lần đến thăm khám cho Cúc.
“Chúng tôi không còn phải lo lắng nữa,” – chồng Cúc nói. “Từ khi vợ tôi bắt đầu mang bầu đến giờ, hai nữ hộ sinh thôn bản đã đến thăm khám cho cô ấy, chăm sóc trước, trong và sau khi sinh,” – anh cho biết. “Họ khuyến khích chúng tôi đến trạm y tế xã để sinh con. Sau đó, họ đến thăm chúng tôi mỗi tuần một lần để đảm bảo rằng mọi việc đều tốt đẹp. Họ còn tư vấn cho chúng tôi về kế hoạch hóa gia đình và cách chăm sóc em bé” – Cúc cho biết thêm.
Gần nhà Cúc có Cha Ma Lé Thị Lém, một thai phụ đang mang thai 8 tháng và hiện đang được các nữ hộ sinh trong bản theo dõi. Lém đã đến khám ở trạm y tế xã 2 lần và đã được khám tại nhà 3 lần nữa. Năm nay cô 15 tuổi, mang thai đứa con đầu lòng. Do tuổi của thai phụ còn quá trẻ nên việc mang thai có thể gặp rủi ro nhưng “mọi việc hiện đều đang suôn sẻ” – Hẻm cho biết trong khi kiểm tra huyết áp của bà mẹ trẻ. “Do đây là một ca mang thai thông thường không có gì phức tạp nên chúng tôi khám những bước cơ bản. Đầu tiên chúng tôi kiểm tra huyết áp, đo kích thước bụng và kiểm tra xem chân và bàn chân có bị phù không. Chúng tôi cũng tiến hành nghe tim thai nhi và kiểm tra cân nặng người mẹ. Bên cạnh đó, chúng tôi cũng cho cô ấy biết nên làm gì trong trường hợp xảy ra biến chứng” – Hẻm cho biết thêm.
“Họ giúp tôi rất nhiều” – Lẻm nói. “Tôi đã nhận được rất nhiều thông tin từ họ, và tôi đã quyết định sinh con tại trạm y tế xã bởi vì như thế sẽ an toàn hơn nhiều.”
Xử lý các trường hợp sinh khó
Ba tuần trước, Hẻm – nữ hộ sinh làm việc tại bản – nhận được tin báo từ một thai phụ sống trong bản là Cha Ma Lé Thị Lum, đang trở dạ chuẩn bị sinh. “Khi tôi đến nhà cô ấy thì huyết áp của cô ấy rất thấp” – Hẻm nhớ lại. “Tôi biết trường hợp của cô ấy bởi vì trước đó Lum đã đến khám tại trạm y tế xã. Cô ấy mang thai ngôi ngược. Tôi xác định trường hợp bất thường này và đưa cô ấy đến tạm y tế xã. Ở đó cô ấy được hộ sinh Loan đỡ đẻ, còn tôi phụ giúp. Lúc đó là ban đêm chúng tôi không thể kiếm được xe ô tô để đưa cô ấy đến bệnh viện huyện, nhưng Loan đánh giá tình hình và cảm thấy đủ tự tin đỡ đẻ cho ca đó. Phải mất rất lâu bà mẹ mới sinh được con, nhưng may mắn là chúng tôi đã có thể đỡ đẻ cho cô ấy thành công” – Hẻm cho biết một cách nhẹ nhõm.
Vận động xây dựng các chính sách hỗ trợ
Cần phải có các chính sách hỗ trợ để có thể tăng cường tối đa tính hiệu quả của mô hình nữ hộ sinh người dân tộc thiểu số. Hiện vẫn chưa có khung chính sách dành cho các nữ hộ sinh người dân tộc thiểu số trong hệ thống y tế quốc gia của Việt Nam, do đó LHQ hiện đang làm việc với Bộ Y tế về vấn đề này. Đồng thời, Vụ Khoa học và Đào tạo của Bộ Y tế hiện đang tiến hành đưa mô hình đào tạo nữ hộ sinh người dân tộc vào chương trình học thường xuyên ở các trường trung cấp y tế, còn Vụ Tổ chức Cán bộ hiện đang điều chỉnh thang bậc lương để đưa vào đó lương cho các nữ hộ sinh người dân tộc.
“LHQ đã và đang vận động để cho các nữ hộ sinh người dân tộc được công nhận là một trong số những nguồn lực quý giá đối với các khu vực miền núi, bởi vì chúng tôi tin rằng họ đóng vai trò chủ chốt trong việc cải thiện sức khỏe bà mẹ” – ông Bruce Campbell, Trưởng Đại diện UNFPA tại Việt Nam, phát biểu. Những tiến bộ đạt được hướng tới việc sử dụng một cách chính thức các nữ hộ sinh người dân tộc làm việc ngay tại thôn bản trong hệ thống y tế và quyết định tăng cường đội ngũ hộ sinh ở các khu vực dân tộc thiểu số được thể hiện trong Chiến lược Quốc gia về Dân số và Sức khỏe Sinh sản mà hiện đang được xây dựng. Bên cạnh đó, sự đồng thuận trong việc xem xét vai trò của nữ hộ sinh người dân tộc trong Đánh giá Phối hợp Thường niên ngành Y tế năm 2010 do Bộ Y tế và Nhóm Đối tác Y tế (bao gồm các đối tác phát triển và các bên có liên quan trong lĩnh vực y tế ở Việt Nam) tiến hành đã cho thấy tất cả những nỗ lực kể trên đều đang bắt đầu đem lại thành quả.
Tải bản Tiếng Việt định dạng PDF tại đây
***
Mời các bạn xem 1 video clip dưới đây, nói về những đóng góp quan trọng của cô đỡ người dân tộc ở một huyện miền núi ở Hà Giang. Video clip do AI Jazeera sản xuất với sự hỗ trợ của UNFPA tại Việt Nam: