Việt Nam cần dừng phát triển thủy điện

Chúng ta chỉ nghĩ đến vài hồ thủy điện vĩ đại khi xả đập, nhưng không biết rằng xả đập và tạo lũ chính là tội của hàng nghìn con đập tư nhân nhỏ mà không ai để ý và quản lý.

PTH
 
  • Âu, Mỹ rộ xu hướng phá bỏ đập thủy điện cứu môi trường
  • Đã đến lúc phải tính tới dừng phát triển thủy điện

***

Âu, Mỹ rộ xu hướng phá bỏ đập thủy điện cứu môi trường

VNN – Thứ Bảy, 07/11/2020 – 05:03

Trong khi nhiều nước đang phát triển ở châu Á và châu Phi đầu tư xây dựng vô số đập thủy điện trên sông, các chính phủ ở châu Âu và Mỹ đã bắt đầu cho phá bỏ những công trình kiểu này.

Theo Viện Trái đất thuộc Đại học Columbia (Mỹ), động thái trái ngược của các quốc gia phát triển ở Âu, Mỹ diễn ra sau khi có nhiều nghiên cứu đánh giá về tác hại của các đập thủy điện với môi trường, hệ sinh thái và những cộng đồng dân cư xung quanh.

Lợi ích

Các chuyên gia cho biết, việc xây dựng các con đập chắn ngang sông từng được tiến hành ồ ạt ở phương Tây trong những thập niên 1920 – 1970, nhằm cung cấp nguồn nước tưới tiêu ổn định cho nông nghiệp, kiểm soát lũ và đặc biệt là khai thác tiềm năng về giao thông cũng như thủy điện dồi dào của các con sông.

Đập thủy điện John Day trên sông Colombia của Mỹ. Ảnh: Wikimedia

Một ví dụ điển hình cho hệ thống phức hợp thủy điện và thủy lộ quy mô như vậy là tổ hợp công trình trên sông Colombia nằm giữa hai bang Washington và Oregon của Mỹ.

Ngoài việc góp phần đáp ứng tới 80% nhu cầu điện năng của vùng đông bắc Mỹ, hệ thống liên hoàn các đập và 8 âu tàu (hệ thống khóa có tác dụng tăng – giảm mực nước để tàu thuyền có thể di chuyển qua các vùng chênh lệch mức nước) trên dòng sông đã được nạo vét này giúp vận chuyển tới hơn 17 triệu tấn hàng hóa mỗi năm. Theo tổ chức Giáo dục về nguồn nước và năng lượng (FWEE), hệ thống cũng tham gia điều tiết dòng lũ và kiểm soát sự di chuyển của các loài cá.

Suốt một thời gian dài, các đập thủy điện được coi là nguồn cung cấp năng lượng tái tạo sạch và rẻ hơn các nhà máy sản xuất điện than hay điện khí.

Cụ thể, do các đập thủy điện không sử dụng nhiên liệu hóa thạch (dầu mỏ, than đá, khí đốt tự nhiên…) nên chúng không làm phát thải khí CO2 trong quá trình sản xuất năng lượng và không phải phụ thuộc vào sự biến động giá của những nhiên liệu này. Ngoài ra, chi phí trung bình để xây dựng và duy trì 1 trạm thủy điện công suất trên 10MW chỉ vào khoảng 0,03 – 0,05 USD/kWh. Các nhà máy thủy điện nhìn chung cũng có tuổi thọ lớn hơn các nhà máy nhiệt điện.

Vì các lợi thế trên, thủy điện đã đóng vai trò then chốt cho động lực phát triển kinh tế của nhiều nước. Xét về tỉ lệ, 99% lượng điện tạo ra ở Na Uy là nhờ sức nước, trong khi các thủy điện tại Iceland đáp ứng tới 83% nhu cầu về điện của người dân. Tỉ lệ này ở Canada là hơn 70% và Áo khoảng 67%.

Mặt trái

Ngoài các lợi ích không thể phủ nhận, thế giới đã chứng kiến không ít thảm họa gắn liền với các đập thủy điện, gây tổn thất nặng nề về người và của, chẳng hạn như các vụ vỡ đập Gleno ở Valle di Scalve, Italia năm 1923; Malpasset ở Frejus, Pháp năm 1959; Bản Kiều ở tỉnh Hà Nam, Trung Quốc năm 1975; Kelly Barnes ở bang Georgia, Mỹ năm 1977; Machchu-2 tại Morbi, Ấn Độ năm 1979…

Các nghiên cứu, đánh giá kỹ lưỡng cũng chỉ ra rằng, tính trên quy mô toàn cầu, trong thế kỷ qua có khoảng 472 triệu người phải chuyển nơi ở, mất sinh kế vì các dự án đập thủy điện. Sự cân bằng hệ sinh thái ở nhiều nơi bị phá vỡ do sự thay đổi dòng chảy và hoạt động của máy phát điện. Công tác trữ nước và xả lũ chưa hợp lý có thể gây ngập lụt hoặc hạn hán ở khu vực hạ lưu sông. Nguy cơ xói mòn bờ sông, lở đất và động đất cũng tăng cao.

Ví dụ, ngay sau khi Brazil xây đập thủy điện Tucurui trên sông Amazon, lượng cá đánh bắt được tại đây giảm 60%. Khoảng 100.000 dân ở vùng hạ lưu nghèo đi do mất nguồn cá và đất canh tác bị ngập.

Tam Hiệp (Trung Quốc) – đập thủy điện lớn nhất thế giới. Ảnh: AP

Để xây dựng Tam Hiệp, đập thủy điện lớn nhất thế giới, từ năm 1994 Trung Quốc đã phải di dời khoảng 1,3 triệu dân (có báo cáo ghi nhận con số thực tế tới 1,9 triệu người) khỏi hơn 1.500 thành phố, thị trấn và làng mạc dọc theo sông Dương Tử vì mực nước dâng cao. Nhiều cảnh quan tráng lệ, vô số địa điểm kiến trúc có giá trị khảo cổ học và văn hóa trong vùng chịu tác động tiêu cực.

Bộ Môi trường sinh thái và Cục Địa chấn Trung Quốc thống kê, có tới 776 trận động đất xảy ra ở khu vực xung quanh sông Dương Tử vào năm 2017, tăng 60% so với một năm trước đó và số trận động đất trong vùng đã tăng gấp 30 lần trong giai đoạn từ năm 2003 – 2009.

Các chuyên gia cảnh báo, sự tích tụ chất cặn gần đập đang đe dọa những nỗ lực kiểm soát lũ lụt. Trong khi, hồ chứa nước khổng lồ của Tam Hiệp có thể đang góp phần làm gia tăng nhiệt độ trong khu vực và cùng với sự phân tán môi trường sinh thái đang đe dọa sự tồn tại của các loài thủy sản ở sông Dương Tử, đặc biệt là cá tầm.

Như vậy, nếu tính tổng các phí tổn, hầu hết các dự án thủy điện không còn rẻ như nhận định ban đầu. Bên cạnh đó, do tuổi thọ trung bình của các đập ngắn, chỉ 30 – 50 năm nên theo thời gian, các công trình trở nên lạc hậu và hoạt động kém hiệu quả hơn nhiều so với thiết kế ban đầu. Chỉ tính riêng ở Mỹ, tạp chí Thủy điện quốc tế ước tính, tới 85% trong tổng số hơn 80.000 đập trên toàn quốc, với đủ kích cỡ khác nhau đã tồn tại hơn 50 năm vào thời điểm năm 2020.

Theo các chuyên gia, chi phí bảo trì thiết bị lỗi thời, nâng cấp máy móc để đáp ứng các yêu cầu vận hành an toàn với đập thủy điện hàng chục năm tuổi tương đối tốn kém. Trong khi đó, việc phá dỡ các đập cũ thường giúp tiết kiệm 10 – 30% chi phí so với việc cố gắng duy trì chúng.

Phá bỏ

Sau khi cân nhắc lợi, hại, Mỹ và nhiều nước ở châu Âu đã quyết định loại bỏ các đập ngăn sông quá lỗi thời, gây hại cho môi trường và ít mang lại lợi ích kinh tế cho cộng đồng.

Đập thủy điện khổng lồ Glines Canyon trên sông Elwha, Mỹ bị phá dỡ hoàn toàn vào tháng 8/2014. Ảnh: Reuters

Tổ chức Các dòng sông Mỹ thống kê, trong vòng 30 năm qua, nước này đã phá dỡ tổng cộng gần 1.300 đập thủy điện, trong đó chỉ tính riêng năm 2017 đã loại bỏ 86 công trình kiểu này.

Xu hướng cũng phát triển mạnh ở châu Âu sau khi Liên minh châu Âu (EU) năm 2000 thông qua một chính sách mới về nguồn nước. Chính sách này đặt ra các tiêu chuẩn cụ thể về môi trường, đồng thời yêu cầu các nước thành viên phải đưa các sông, hồ và vùng nước trong lãnh thổ của mình về “tình trạng tốt” vào năm 2027.

Theo tổ chức Wetlands, hơn 60% các sông của châu lục hiện cần được cải thiện dòng chảy và hệ sinh thái để đáp ứng các tiêu chuẩn trên. Các chính phủ, tổ chức phi lợi nhuận và các nhóm cộng đồng đang cùng chung tay xúc tiến các kế hoạch nhằm đạt được mục tiêu này.

“Khôi phục 25.000km sông chảy tự do là một bước đột phá, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc phá dỡ các đập nhằm hồi sinh cho các dòng sông đang chết dần ở châu Âu. Với phong trào đang phát triển mạnh khắp châu Âu, chúng tôi tin tưởng rằng mục tiêu sẽ sớm được hoàn thành, mang lại lợi ích to lớn cho chính các dòng sông, con người và thiên nhiên”, bà Eva Hernandez, Trưởng nhóm Sáng kiến sông ngòi châu Âu thuộc Quỹ Bảo tồn thiên nhiên quốc tế (WWF) nhận định.

Các công nhân phá bỏ một đập thủy điện trên sông Tây Ban Nha. Ảnh: phys.org

Theo tổ chức Dam Removal Europe, trong khoảng 20 năm qua, gần 5.000 đập ngăn sông trên khắp châu Âu đã bị loại bỏ. Trong đó, việc phá 2 đập Vezins và Le Roche Qui Boit chắn ngang sông Selune ở Pháp năm 2018 là dự án phá dỡ lớn nhất ở châu lục cho đến thời điểm này. Những nỗ lực được tin đã giúp giải cứu các con sông; trả lại dòng chảy tự nhiên; cải thiện chất lượng nước; khôi phục môi trường sống cho các loài động vật nước ngọt, nhất là những loài quen với cuộc sống di cư như cá hồi; thúc đẩy đa dạng sinh học và tạo ra những cơ hội phát triển mới cho người dân địa phương.

Các nhà quản lý thống nhất rằng, không cần thiết phải đánh đổi quá nhiều về vấn đề môi trường, hệ sinh thái và đời sống dân cư bản địa để phát triển thủy điện. Hội đồng Năng lượng Thế giới (WEC) khuyến nghị, với các đập thủy điện đang tiếp tục vận hành, chính quyền và các nhà quản lý cần phải giám sát chặt chẽ, bảo dưỡng thường xuyên, sửa chữa kịp thời khi xảy ra sự cố, đảm bảo quy trình tích nước, xả lũ an toàn cũng như có kịch bản ứng phó trong trường hợp thiên tai, khẩn cấp.

Với các dự án đang và sẽ triển khai, các bên liên quan cần tính toán kỹ lợi – hại, lựa chọn thiết kế tối ưu và đảm bảo cơ chế chia sẻ lợi ích giữa nhà đầu tư và các cộng đồng địa phương.

Tuấn Anh

***

Đã đến lúc phải tính tới dừng phát triển thủy điện

CAND – Chủ Nhật, 29/07/2018, 08:47

Lưu vực sông Mê Kông có tiềm năng to lớn về thủy điện, nguồn lợi thủy sản, đất đai, thảm thực vật, động vật phong phú. Hiện nay, tất cả các nước trong lưu vực Mê Kông đều tìm cách đẩy mạnh phát triển kinh tế, kể cả việc tìm cách khai thác ngày càng nhiều các lợi thế về tài nguyên nước và các tài nguyên liên quan của lưu vực và coi đó là biện pháp cần thiết để vượt qua nghèo đói.

Một trong những tiềm năng to lớn của sông Mê Kông đó là thủy điện. Tuy nhiên, thảm hoạ vỡ đập thuỷ điện tại Lào vừa qua được coi là lời cảnh báo rất lớn cho một nước có nhiều thuỷ điện như nước ta (7.000 đập thuỷ điện lớn – nhỏ).

Phóng viên Báo CAND đã có cuộc trò chuyện với PGS.TS Đào Trọng Tứ, nguyên Phó tổng thư ký Ủy ban sông Mê Kông, xung quanh câu chuyện lợi ích và hệ luỵ của thuỷ điện.

Phóng viên: Thưa ông, vụ việc vỡ đập thuỷ điện ở Lào vừa xảy ra cảnh báo điều gì cho Việt Nam chúng ta, khi chúng ta cũng đang sở hữu số lượng rất lớn các đập thuỷ điện?

PGS.TS Đào Trọng Tứ: Vỡ đập thuỷ điện Lào là câu chuyện cảnh báo cho việc xây dựng quá nhiều thuỷ điện trên thượng nguồn sông Mê Kông. Sông Mê Kông là con sông lớn nhất ở Đông Nam Châu Á, bắt nguồn từ cao nguyên Tây Tạng, Trung Quốc.

PGS.TS Đào Trọng Tứ.

Chảy qua lãnh thổ của 6 nước là Trung Quốc, Myanmar, Lào, Thái Lan, Campuchia và Việt Nam, sông Mê Kông có chiều dài dòng chính là 4880km, diện tích lưu vực 795 nghìn km2 và tổng lượng dòng chảy hàng năm 475 tỉ m3.

Việt Nam chiếm khoảng 8% diện tích lưu vực và đóng góp khoảng 11% tổng lượng nước sông. Phần lãnh thổ của Việt Nam nằm trong lưu vực sông Mê Kông kéo dài từ thượng nguồn sông Nậm Rốm (Điện Biên) tới gần như toàn bộ đồng bằng sông Cửu Long, nơi sản xuất lúa lớn nhất cả nước.

Đập thuỷ điện Xe Pian-Xe Namnoy ở tỉnh Attapeu, Đông Nam Lào, dung tích chứa trên 1 tỷ m3. Đập thuỷ điện này bắt đầu xây dựng từ tháng 2-2013, dự kiến hoàn thành năm 2018, tuy nhiên tiến độ xây dựng chậm nên phải sang năm 2019 con đập này mới đi vào hoạt động. Đập thuỷ điện này bị vỡ trong giai đoạn đang thi công, nhà máy này dự kiến bán điện chủ yếu cho Lào.

Tổng đầu tư khoảng 1,2 tỷ USD. Đập thuỷ điện này nằm trên dòng nhánh, cách dòng chính khoảng 100km, qua dòng chính rồi mới đến sông Mê Kông. Toàn bộ dung tích 1 tỷ m3 đổ xuống ngay ảnh hưởng rất lớn, nước có thể đổ xuống hàng vạn m3/giây.

Cũng rất may là hậu quả của vụ vỡ đập này không gây ảnh hưởng nhiều cho chúng ta, tôi theo dõi thông tin thấy rằng, mực nước tại đồng bằng sông Cửu Long chỉ dâng cao khoảng 5cm.

Tuy nhiên đây là lời cảnh báo rất lớn đối với câu chuyện thuỷ điện. Vụ vỡ đập này là thảm họa lớn nhất khu vực. Việt Nam là nước cuối cùng ở hệ thống sông Mê Kông, chúng ta phải gánh chịu toàn bộ hậu quả từ các đập thuỷ điện thượng nguồn, nếu xảy ra sự cố. Bởi vì tất cả các nước thượng nguồn sông Mê Kông như Lào, Campuchia, Trung Quốc đều xây dựng rất nhiều đập lớn bé trên thượng nguồn.

Phóng viên: Tại sao ý thức được hệ lụy từ việc xây nhiều đập thuỷ điện trên sông Mê Kông nhưng các nước vẫn tiếp tục thực hiện?

PGS.TS Đào Trọng Tứ: Xét công bằng, tác động của phát triển thủy điện cần được nhìn nhận cả hai khía cạnh, tác động tích cực và tác động tiêu cực. Đối với hạ lưu các công trình thủy điện, tác động tích cực chủ yếu là tác động điều hòa dòng chảy nếu là thủy điện hồ chứa điều tiết năm. Song việc hồ chứa có điều hòa dòng chảy cho hạ lưu hay không, tùy thuộc rất nhiều vào chế độ vận hành của hồ chứa.

Theo đánh giá của Ủy ban sông Mê Kông, tiềm năng thủy điện toàn lưu vực sông Mê Kông có thể khai thác vào khoảng 53.900 MW trong đó phần thượng lưu sông Mê Kông thuộc lãnh thổ Trung Quốc – sông Lang Thương là 23.000 MW. Phần hạ lưu thuộc bốn quốc gia Lào, Thái Lan, Campuchia và Việt Nam là 30.900 MW trong đó Việt Nam là 2.000 MW. Đánh giá trên cho thấy, tiềm năng thủy điện tại thượng lưu sông Mê Kông thuộc Trung Quốc là rất lớn.

Do đó, quốc gia này đang triển khai xây dựng thêm nhiều công trình thủy điện lớn. Trong khi đó, ở phần hạ lưu, các quốc gia như Thái Lan, Lào, Campuchia cũng đang thực hiện nhiều công trình thủy điện lớn trên dòng chính.

Đối với Việt Nam, sông Mê Kông vào lãnh thổ qua vùng đồng bằng châu thổ, địa hình bằng phẳng nên khả năng phát triển thủy điện hầu như không có. Hiện Thái Lan đã khai thác gần như toàn bộ tiềm năng thủy điện của dòng nhánh Mê Kông thuộc nước này. Lào đã và đang xây dựng hàng loạt nhà máy thủy điện lớn, trung bình.

Trên thực tế, nhiều chuyên gia, nhà khoa học trong nước và quốc tế đã chỉ ra rằng các bậc thang thủy điện thượng nguồn đã dẫn đến những tác động môi trường đối với châu thổ sông Mê Kông nói chung và đặc biệt là đồng bằng sông Cửu Long. Đó là việc làm thay đổi chế độ dòng chảy ở hạ lưu.

Sự thay đổi dòng chảy do các bậc thang thủy điện gây ra đối với lưu vực sông Mê Kông cho thấy, trừ những năm lũ đặc biệt lớn, việc giảm lưu lượng lũ xuống hạ lưu tạo nên “lũ xấu” và ảnh hưởng đáng kể đến lợi ích kinh tế do lũ mang lại, đặc biệt đối với Campuchia và đồng bằng sông Cửu Long của Việt Nam.

Việc giảm lưu lượng mùa khô do việc vận hành vì nhiều lý do còn gây nên tác động tiêu cực lớn hơn cho hạ lưu như thiếu nước cho sinh hoạt và sản xuất, tăng diện tích xâm nhập mặn.

Bên cạnh đó nhiều chuyên gia môi trường cũng lo lắng về nguy cơ giảm lượng phù sa xuống hạ lưu châu thổ và đồng bằng sông Cửu Long. Điều này sẽ dẫn đến sự suy giảm lượng cá hạ lưu, ảnh hưởng đến nông nghiệp, làm thay đổi động lực dòng chảy, tăng khả năng xói lở bờ, lòng sông… gây mất đất, bất ổn cho cuộc sống của nhiều cộng đồng dân cư, phá hủy các công trình hạ tầng cơ sở lớn nằm ven bờ.

Phóng viên: Không chỉ có sông Mê Kông, ngay cả các dòng sông khác của Việt Nam cũng được tận dụng triệt để để xây thuỷ điện. Một thuỷ điện đa mục tiêu, được điều hành thận trọng, đúng quy trình sẽ giảm tác động của lũ lụt cho hạ du. Dân ở đồng bằng sông Hồng, từ khi có thuỷ điện Hoà Bình, Thác Bà, Tuyên Quang, Sơn La… nhiều năm nay đã không còn mối lo về mùa lũ dữ.

Nhưng hiện nay phần lớn các công trình ở các hệ thống sông khác là công trình đơn mục tiêu, tức chỉ có nhiệm vụ chính là phát điện hoặc tưới, hoặc kết hợp. Chính vì vậy mới có chuyện ở miền Trung, cứ thuỷ điện thi nhau xả lũ là vùng dưới bị ngập lụt. Ông có thấy rằng, lợi ích của thuỷ điện đem lại quá ít so với cái giá phải trả?

PGS.TS Đào Trọng Tứ: Nhiều nghiên cứu của thế giới chỉ ra rằng, phát thải khí nhà kính của một số lòng hồ thuỷ điện lớn hơn cả nhiệt điện, nên nó không phải là năng lượng sạch. Chỉ hơn 20 năm, chúng ta khai thác trên 80% tiềm năng kỹ thuật, gần 7.000 công trình thuỷ điện lớn nhỏ được xây dựng.

Những người nghiên cứu sông ngòi thế giới đã kết luận: khi một dòng sông bị chia cắt và bị chặn để xây đập với tổng chiều dài dòng chảy biến thành các dạng nước chảy lững lờ từ 30% trở lên thì con sông đó được gọi là vỡ vụn, môi trường, sinh thái sông bị tác động mạnh.

Tôi có thể kể những dòng sông vỡ vụn, trong khi sẽ đau đầu để chỉ tên những dòng sông trinh nguyên tại Việt Nam, những dòng sông chưa bị con người chinh phục. Khi chặn sông thì phải di dân tái định cư. Về lý thuyết chính sách này tốt, nơi ở mới sẽ đẹp hơn, tốt hơn.

Tuy nhiên, trong thực tế, nhiều khu tái định cư không đủ đất cho dân sản xuất, một số công trình phải san ủi đất đồi để thành đất sản xuất. Chưa kể, việc di dân khiến họ thay đổi tập quán, những di tích lịch sử, khảo cổ giá trị cũng mất theo…

Thuỷ điện là bài toán đánh đổi, nhưng phải giải quyết bài toán đánh đổi theo cách khác. Không thể để nhiều người được hưởng lợi, trong khi nhiều người mà phần lớn là những người nghèo, phải chịu hy sinh, thiệt thòi.

An toàn đập rất quan trọng, chỉ cần vài nghìn m3 nước đổ xuống từ hồ đập là những hộ dân sống phía dưới hồ đập lâm nguy, đập thuỷ điện ở Lào vỡ, hàng vạn m3 đổ xuống nên khiến dân cư quanh đó chịu ảnh hưởng nghiêm trọng, hàng trăm người chết và mất tích, trên 6.000 người mất nhà. Những hồ chứa 1 tỷ m3 nước nếu xảy ra sự cố rất nguy hiểm.

Phóng viên: Không chỉ thuỷ điện, các hồ chứa thuỷ lợi cũng đang ẩn giấu hiểm họa khi đến 1.200 hồ chứa bị xuống cấp nghiêm trọng, trong khi chúng ta đang ở thời điểm mùa mưa bão. Theo ông, trước mắt chúng ta cần làm gì để đối phó với thực trạng này?

PGS. TS Đào Trọng Tứ: Chúng ta cần dành nhiều quan tâm hơn nữa cho công tác di dân khi vùng nguy hiểm có nguy có lũ quét, sạt lở, cần phải làm quyết liệt để người dân có nơi an cư an toàn. Không thể để tình trạng cứ xảy ra sự cố mới bắt đầu đi giải quyết.

Hay như tình trạng xói lở bờ sông ở các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, tính mạng người dân không thể chờ làm xong kè bờ mới được đảm bảo. Cần quy hoạch và di dời dân ngay khỏi những điểm đen đó để tránh xảy ra hậu quả đáng tiếc về sau.

Riêng với thuỷ điện, muộn còn hơn không. Chúng ta không giữ được hết cả một dòng sông, thì giữ lại một phần lớn dòng sông vậy, và nếu không giữ được phần lớn thì cũng phải để một đoạn lưu thông đủ dài cho ra dáng một con sông.

Tôi cho rằng nên dừng hẳn phát triển thuỷ điện, tập trung nghiên cứu toàn diện lợi hại, tìm cách giảm thiểu tác động cho môi trường, rừng, đất. Bảo đảm cuộc sống tốt hơn cho người dân bị tác động như chính sách đã đề ra và bảo đảm an toàn tuyệt đối đập.

Phóng viên: Cảm ơn ông!

Ngọc Yến (thực hiện)

Bình luận về bài viết này