- Nỗi đau của đất: [Bài 1] Án tử Bời Lời
- Nỗi đau của đất: [Bài 2] ‘Chết đứng’ ở Tân Đông
- Nỗi đau của đất: [Bài 3] Có đắng cay tên…“đất nhà nước”
- Nỗi đau của đất: [Bài 4] Những chủ đất ‘hồn Trương Ba, da hàng thịt’!?
- Tâm nguyện cuối cùng ở Bời Lời của ‘vua chuối’ Võ Quan Huy
- Chuyện đất công, đất tư và kinh tế tư nhân
***



Bời Lời vốn là tên của một vùng đất nằm ở phía Đông Nam của tỉnh Tây Ninh. Sau ngày giải phóng miền Nam được lấy để đặt tên cho một nông trường ở Trảng Bàng. Trải qua gần nửa thế kỷ, lớp lớp đất Bời Lời gian khó thuở xưa nay đã trở thành miền xanh cây trái bạt ngàn.
Chỉ có điều, lẩn khuất dưới màu xanh tưởng như bình yên và trù phú ấy dường như đang có một Bời Lời khác, chất chứa nhiều nỗi đau nhức nhối, ngay trên đồng đất.
Trang trại trồng chuối của ông Võ Quan Huy trải dài trên đồng đất mênh mông ở xã Đôn Thuận (thị xã Trảng Bàng). Rộng vượt quá một tầm mắt. Hơn 80 mẫu Nam bộ, trồng mỗi giống chuối già Nam Mỹ. Mùa này chuối đang thu hoạch. Đứng xa đã có thể nghe tiếng rì rầm của hệ thống cáp treo, ròng rọc tự động. Lời thì thầm của đất chăng? Lại thấy chuối từng buồng sau khi cắt xuống được khoác lên mình túi nilon, hàng nối hàng như có đoàn người khoác áo mưa đi vào nhà xưởng sơ chế.

Ông Huy bảo, mỗi tuần trang trại thu khoảng 3.500 đến 4.000 buồng chuối, đạt sản lượng tầm 50-60 tấn, mang thương hiệu Fohla xuất khẩu đi Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc và Malaysia… Người ta gọi nơi này là trang trại chuối triệu đô, thu hoạch lần đầu năm 2016. Toàn bộ hệ thống cáp treo, hệ thống chống đổ ngã, tưới tự động và phun bằng máy bay.
Tụi Hàn Quốc, Nhật Bản sang đây cũng phải nể. Giọng ông Huy thủng thẳng. Cũng dữ dằn chớ bộ. Cái tên Huy chuối, vua chuối người ta đặt cho tui xuất phát từ đây. Nào ngờ số phận trang trại hiện giờ còn tính bằng ngày. Như một tên tử tù đang bị áp giải ra pháp trường vậy đó. Ánh mắt ông Huy chợt chùng xuống. Có nằm mơ cũng không nghĩ hơn 30 năm trời gầy dựng trang trại, đầu tư công sức, tiền của vào nông nghiệp, giờ phủi tay đứng dậy sạch trơn. Chẳng còn gì.
Người Nam bộ, nhất là dân nông nghiệp có lẽ không mấy ai xa lạ với Út Huy. Một người say đất. 17 tuổi rời quê nhà Long An với hành trang là chiếc máy cày đi khẩn hoang. Đến giờ, ở tuổi 70 nhìn thoáng qua thôi đã dễ dàng cảm nhận, ông là một cuộc đời của đất. Màu đất lấp lánh trên làn da đen cháy, chất phác trong lối trò chuyện dân dã. Và dường như đến cả hơi thở trong thân hình cao lớn này cũng là hơi thở của đất.
Nông dân mà, không yêu đất sao được. Tui mê đất lắm. Giọng Út Huy nhẹ bẫng, thoáng tươi sau tiếng thở dài.
Ông kể về đất bằng vẻ say sưa. Hơn nửa thế kỷ qua, một nửa đời người với ông là hành trình đằng đẵng hòa mình cùng đất. Ông lái máy cày lên Bắc Tân Uyên (tỉnh Sông Bé cũ) khai hoang, trở thành Huy mía. Cởi trần trùng trục lao xuống cải tạo vùng nhiễm phèn Đồng Tháp Mười biến thành Huy đất. Xuống Sóc Trăng, Cà Mau thành Huy tôm. Về Long An, Tây Ninh trở thành Huy ớt, Huy mì, Huy bò rồi vua chuối…
Có thời điểm người ta làm phép cộng cho kết quả, Út Huy đang sản xuất hơn 1.000ha đất. Hầu hết trong số đó là đất khai hoang, phục hóa. Hết trồng trọt, chăn nuôi lại nuôi trồng thủy sản. Út Huy giống như vua Midas trong ngành nông nghiệp vậy. Chạm tay vào đất, đất biến thành vàng. Đất nâng bước ông lên bục nhận danh hiệu Nông dân xuất sắc 2 lần. Đất theo ông lên chuyên cơ ngồi cùng Thủ tướng, Bộ trưởng bay ra nước ngoài quảng bá nông sản. Sinh thời GS Võ Tòng Xuân từng suy tôn Út Huy là Nông dân số 1 Việt Nam…
Vậy mà bây giờ…

Trong lá đơn gửi nhiều cơ quan từ Trung ương đến địa phương, gửi đến cả Bí thư Tỉnh ủy và Chủ tịch UBND tỉnh Tây Ninh trước đó, ông Huy giãi bày thân phận của đất thật đắng cay. Đất như trứng treo đầu gậy, như sợi chỉ treo mành. Nhất là vào những ngày này, khi nguyện vọng hoãn thi hành án của vợ chồng ông gửi đến cơ quan thi hành án vừa mới có kết quả: Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Trảng Bàng bác bỏ. “Án tử” đã ban rồi. Trang trại chuối triệu đô này nhất quyết sẽ bị xóa sổ.
Nhà nước thu thì mình buộc phải chịu. Nông dân tụi tui nào dám cãi gì. Nhưng còn công lao khai khẩn… Ông Huy buông lửng câu, đưa ánh nhìn về phía ông Phạm Văn Thơ (Hai Thơ) đang ngồi đó với mấy người bạn khai hoang khác. Ai nấy đều bó gối trầm tư và lặng im như đất. Những gương mặt đen cháy, vết tích mưa nắng của phận đời vỡ hoang.
Út Huy, tao xin lỗi nghen mậy. Giọng ông Hai Thơ buông nghèn nghẹn. Mắt nhìn xa xăm như đang trôi về miền ký ức của những ngày nghe tiếng hô hào lên đường khai khẩn, trôi về những ngày đầu tiên họ đặt chân đến đất Bời Lời.
Rồi Hai Thơ mới kể: Gốc gác tui vốn ở Trảng Bàng này. Thời trẻ cũng làm mía đường với Út Huy bên Bình Dương. Làm theo kiểu công ty cấp tiền cho người có sức đi tìm đất trồng mía. Hết Bình Dương, Tây Ninh rồi lại lộn về dưới Đồng Tháp Mười. Có đất nào ở xứ này mà tụi tui chưa đặt chân đến? Bằng niềm tin sắt đá, người yêu đất, đất sẽ chẳng phụ người.
Một lần về quê gặp ông Hai Đỏ, Giám đốc nông trường Bời Lời, ông ấy bàn tui: Đất Bời Lời mênh mông cần người khai phá, mầy coi có ai dẫn về giúp tụi tao cái coi.
Hai Thơ gật. Bụng nghĩ ngay đến người bạn sức vóc đang vỡ hoang đất trồng mía ở Bình Dương.

Bời Lời ngày ấy quả thật hoang vu lắm. Nguồn gốc đất nghe kể lại là những năm tháng trước nông trường đã khai hoang để làm dự án trồng cao su với các nước Đông Âu. Nhưng sau không thực hiện được. Đất bị hoang hóa trở lại như thuở ban đầu.
Ông Nguyễn Văn Đớt (62 tuổi), nguyên cán bộ Nông trường cao su Bời Lời nhớ lại: Trước năm 1990, mục đích thành lập nông trường là để đưa dân lên khai hoang, hợp tác trồng cao su, trồng điều với các nước xã hội chủ nghĩa. Không may đúng thời điểm “anh bạn” bên Đông Âu sắp sụp đổ, dự án cũng tan theo. Chừng 20 cán bộ công nhân nông trường hoạt động chủ yếu dựa vào nguồn nộp sản phẩm của người thuê đất. Thành thử tiếng là nông trường cao su nhưng diện tích phần nhiều là trồng mía, sau này là mì, cây ăn quả… Dân lên khai hoang muốn làm bao nhiêu thì làm.
Nghe Hai Thơ thuật lại lời ông Hai Đỏ, Út Huy lập tức dẫn người lên Bời Lời. Thoáng nhìn đất bạt ngàn thật, nhưng tứ phía toàn hố bom, cỏ dại ken đặc như rừng. Một vài chỗ là rừng chồi đang tái sinh, ụ mối đùn lên từng đống như mồ mả.
Chỗ này xương, máy cày sao vào được? Út Huy thắc mắc với Hai Thơ nhưng vẫn bảo anh em khác dựng lán, đi tìm nguồn nước để tính kế lâu dài. Mỗi người đi một hướng, Hai Thơ mò mẫm mãi mới thấy một cái giếng bỏ hoang. Nhặt hòn sỏi ném thử xuống rồi quay gót. Đi mấy bước mới nghe tiếng hòn sỏi chạm đáy vọng lên. Nước ngầm sâu quá. Không khéo lại phải bó tay với đất này. Nhưng Út Huy bảo anh em mình phải cố. Đất đang cần bàn tay của chúng ta.
Vừa khẩn hoang vừa đào kênh dẫn nước về và mất gần 2 năm Bời Lời mới có thể canh tác. May thay lúc ấy cũng đã có hệ thống nước tưới của Kênh Đông hồ Dầu Tiếng dẫn nước về. Đám người khẩn hoang dốc sức cải tạo, san lấp các mặt bằng theo hình thức “da beo” là “hố bom, ổ mối, bờ gom” để mở thêm diện tích sản xuất.
Khi nhóm Út Huy khuất phục được gần 90 ha đất cũng là lúc Hợp đồng kinh tế về việc nhận đất trồng mía được ký ngay trên đồng.
Bàn tay thô ráp của ông Huy lần dở hai bản hợp đồng, đã nhuốm màu thời gian, vỏn vẹn trong một tờ A4. Mực in cũ nhòe, giấy cũng đã ố vàng. Người đại diện nông trường, bên A tên Hà Minh Đỏ (Hai Đỏ) nghe bảo đã ra người thiên cổ từ lâu. Nhưng ngày tháng, số liệu và điều khoản vẫn còn khá rõ. Chiếu theo giấy tờ, diện tích 2 hợp đồng thuê đất vừa tròn 70ha, ký từ năm 1992 và 1993.
Ngoài 70ha trong hợp đồng tui còn khai hoang chừng 12ha nữa. Ông Huy tiếp. Đúng như Năm Đớt nói. Đất bạt ngàn, lại cần người nữa. Ai muốn làm bao nhiêu thì làm, mất công đo đạc làm gì. Quan trọng mỗi năm phải nộp thuế nông nghiệp và phí quản lý cho nông trường 6 tấn mía có 10 chữ đường trên một ha canh tác. Nộp bằng tiền đầu vụ thu, tương ứng với từng vụ thu hoạch. Nếu không sản xuất cũng phải nộp thuế và phí quản lý cho nông trường.
Hai hợp đồng của ông Võ Quan Huy ghi rất rõ: Sau khi hết hạn hợp đồng được ưu tiên ký tiếp.
Đó là điều khoản mà Út Huy cho rằng là một sự bảo đảm chắc chắn để tập trung hết mọi nguồn lực, thuê thêm 25 nhân công lên khai phá đất Bời Lời. Mỗi giọt mồ hôi dân khẩn hoang thấm vào đất mang theo cả khát vọng, niềm tin đưa vùng đất này trở thành điển hình sản xuất nông nghiệp của Tây Ninh. Nhưng đoạn trường của Út Huy và bạn bè khai hoang cũng bắt đầu từ đó.

Út Huy nghèn nghẹn: Theo hợp đồng thì thời gian sử dụng đất để canh tác cây trồng hàng năm là 11 năm và được giao tiếp nếu có nhu cầu. Đến khi hợp đồng hết hạn, tôi có đề nghị được thuê tiếp, còn nếu thu hồi thì trả công khai phá cho tôi, nhưng phía nông trường không chịu và kéo tôi ra tòa.
Từ năm 2004 nông trường Bời Lời đã đòi đất. Liền sau đó, không biết sáp nhập kiểu gì mà đến năm 2008, ông Võ Quan Huy và một số người khác lại thành bị đơn trong vụ kiện của Công ty TNHH một thành viên cao su 30-4 Tây Ninh. Mở đầu “kỳ án vườn chuối” và dẫn đến số phận hơn 80ha đất trang trại trồng chuối hiện nay của “nông dân số 1 Việt Nam” rơi vào thảm cảnh “bị áp giải đi ra pháp trường”.
Ở mấy phiên tòa trước, những người bạn khai hoang của Út Huy đã chán nản và bỏ cuộc. Nông dân mà. Nói chuyện làm sao để phát huy giá trị của đất còn rành, chứ đụng đến pháp lý có mấy ai nắm rõ? Mất đất là mất sạch trơn. Ông Phạm Văn Chí sau khi bị tòa xử thu hồi đất và tài sản trên đất cũng không được bồi thường đồng nào, thành ra người quen với chán nản. Mỗi bận nhắc đến cứ ngồi lặng im, giấu hết bức xúc vào trong. Ông Phạm Văn Thơ phẫn chí. Lệnh thu hồi đất giáng xuống, ông bình thản đứng dậy phủi tay khăn gói rời khỏi Bời Lời sang Campuchia thuê đất tiếp tục làm nông nghiệp. Không may gặp dịp Covid-19 mất trắng, giờ lại quay về tìm đất thuê trồng mì.
Riêng ông Huy, tiếc công sức, tiền bạc là một nhẽ, lại còn đèo bòng số phận hàng trăm con người đi theo mình đã mấy chục năm nay, giờ họ bơ vơ như gà lạc mẹ, nếu bỏ cuộc e là không ổn. Ông quyết phải khiếu nại, kêu cứu. Dù phải trả bất cứ giá nào.
Nhiều người bảo tui thưa kiện đi. Nhưng tui chưa. Bởi còn tin sự thật sẽ không thể nào thay đổi được. Út Huy phân trần. Tui cũng nói rõ luôn là không giữ đất nữa. Bất cứ lúc nào cũng sẵn sàng trả lại cho tỉnh Tây Ninh, ủng hộ tỉnh phát triển khu công nghiệp. Chỉ mong được xem xét bồi thường công khai hoang, phục hóa, công lao mấy chục năm nâng cao giá trị của đất. Không phải xem xét cho mình tui mà còn biết bao người.
Có điều, nguyện vọng đó của ông vua chuối đã hơn một lần bị cơ quan xét xử tỉnh Tây Ninh cự tuyệt. Kỳ án trang trại chuối triệu đô trở thành mớ bòng bong rắc rối khi các cấp tòa không có được sự thống nhất quan điểm. Hai vụ kiện trên cùng một diện tích đất biến Út Huy từ một người mê đất, có công khai hoang giờ đây đang ngày đêm day dứt, khổ đau vì đất.

Ở vụ kiện lần một từ năm 2007 -2008, kết quả mấy phiên xử đều tuyên buộc gia đình ông Võ Quan Huy trả đất và tháo dỡ toàn bộ tài sản trên đất. Phán quyết của tòa cũng bác kháng cáo của ông Huy yêu cầu thanh toán công khai hoang, phục hóa, san lấp, gìn giữ đất, cải tạo làm tăng độ phì của đất…
Mỗi lần nhận trát của tòa, Út Huy như chết lặng: Đất nhà nước thu hồi thì mình phải trả lại thôi. Nhưng tuyên thế này thì công lao của bao nhiêu người trong mấy chục năm qua coi như bỏ. Cảm giác như thể mọi người đang ngồi ăn cơm, gặp một cơn gió bụi lùa qua, mâm cơm đành phải vứt đi.
Sau nhiều đêm suy nghĩ, không can tâm với phán quyết của cơ quan xét xử huyện Trảng Bàng và Tây Ninh, vua chuối bèn khiếu nại lên Tòa án Nhân dân Tối cao. Và tia sáng hy vọng lại lóe lên đôi chút.
Ngày 21/5/2010, tại quyết định giám đốc thẩm, Hội đồng Giám đốc thẩm tòa dân sự Tòa án Nhân dân Tối cao xét thấy: Cần hủy bản án dân sự phúc thẩm và hủy bản án dân sự sơ thẩm của 2 cấp tòa Trảng Bàng và Tây Ninh để thu thập, xác minh thêm vụ việc liên quan đến đất nông trường Bời Lời.
Xin được trích dẫn nhận định của tòa tối cao về vụ việc: “Nếu diện tích đất tăng thì cần xác minh, làm rõ về diện tích đất tăng (do khai phá mở mang thêm hay khi giao đất không đo đạc cụ thể) để có cơ sở giải quyết theo quy định của pháp luật”.
Và: “Ngoài ra, cũng cần xem xét đến chính sách miễn, giảm thuế đất nông nghiệp của Nhà nước để làm căn cứ giải quyết vụ án theo Nghị quyết số 15/2003/QH11 ngày 17/6/2003 của Quốc hội là thiếu sót; chưa làm rõ diện tích đất khi ông Huy nhận thuê của Nông trường cao su Bời Lời là đất như thế nào, ông Huy đã phải cải tạo, đầu tư gì hay không để xem xét công sức cho ông Huy. Công ty lấy lại đất là để Công ty trực tiếp canh tác hay cho người khác thuê để đảm bảo thứ tự ưu tiên cho ông Huy thuê lại theo thỏa thuận của hợp đồng đã ký giữa hai bên”…
Từ những luận cứ nêu trên, Tòa án Nhân dân Tối cao quyết định hủy các bản án của Tòa án Nhân dân huyện Trảng Bàng và Tòa án Nhân dân tỉnh Tây Ninh về vụ đòi đất ông Võ Quan Huy.
Tiếp đó, ngày 6/7/2010, Tòa án Nhân dân huyện Trảng Bàng thụ lý lại vụ án mà Tòa án Nhân dân Tối cao đã tuyên hủy. Đến ngày 14/5/2014 tòa tiếp tục đình chỉ vụ án do nguyên đơn rút đơn kiện vì đất đã bị thu hồi theo Quyết định số 2027/QĐ- UBND ngày 30/9/2009 của UBND tỉnh Tây Ninh để thực hiện dự án Khu liên hiệp Công nghiệp – Đô thị – Dịch vụ Phước Đông – Bời Lời. Tiếp đó năm 2018, Công ty cao su 30-4 Tây Ninh lại khởi kiện, nhưng tòa không thụ lý với lý do không đủ điều kiện.
Những diễn biến của vụ kiện lần thứ nhất khiến Út Huy suy nghĩ, phải chăng công lý đã được thực thi, số phận vườn chuối sẽ được cứu rỗi. Nhưng không. Đoạn trường lại bắt đầu.

Hồ sơ vụ án thể hiện: Ngày 29/4/2021, Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Tây Ninh có ký hợp đồng cho Công ty cao su 30-4 Tây Ninh thuê 136ha đất với mục đích “để khai thác cây cao su” và trang trại chuối của gia đình ông Võ Quan Huy lại tiếp tục vào vòng lao lý. Tòa án Nhân dân tỉnh Tây Ninh thụ lý và xét xử vụ kiện lần thứ hai, tiếp tục đòi đất trang trại chuối. Án tuyên của tòa buộc vợ chồng ông Võ Quan Huy phải trả lại đất. Trang trại chuối của nông dân xuất sắc Út Huy một lần nữa chịu án tử.
Ông Huy lại khiếu nại và lại có hy vọng. Tháng 11 năm 2023 khi Viện Kiểm sát Nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh có quyết định kháng nghị đối với bản án của Tòa án Nhân dân tỉnh Tây Ninh theo thủ tục giám đốc thẩm.
Cụ thể, sau khi nghiên cứu hồ sơ vụ việc, cơ quan này có một số nhận định như sau: “Diện tích đất thuê hiện do ông Huy sử dụng, hợp đồng thuê đất chưa được giải quyết đúng pháp luật và các tài sản trên đất của ông Huy tại thời điểm tranh chấp có giá trị lớn nhưng UBND các cấp ra nhiều quyết định thu hồi là không đúng pháp luật”.
“Bản án của tòa Trảng Bàng và Tây Ninh quyết định bị đơn và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có nghĩa vụ đập bỏ, tháo dỡ, di dời cây trồng và các loại tài sản khác gây thiệt hại cho đương sự”.
Vì lẽ đó, Viện Kiểm sát Nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh cho rằng quyết định kháng nghị giám đốc thẩm là có căn cứ. Đồng thời Viện đề nghị Ủy ban Thẩm phán Tòa án Nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử giám đốc thẩm. Tạm đình chỉ thi hành bản án của Tòa án Nhân dân tỉnh Tây Ninh.
Ai cũng tưởng lần này sẽ rõ. Nhưng mới đây nhất, hồi tháng 2 và tháng 3 năm 2025, Viện Kiểm sát Nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh bất ngờ ra Quyết định rút toàn bộ Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm nêu trên.
Lý do được nêu trong quyết định gửi đến đương sự: Để phục vụ tình hình chính trị tại địa phương, bảo đảm dự án Khu liên hợp Công nghiệp – Đô thị – Dịch vụ Phước Đông – Bời Lời thực hiện đúng tiến độ nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế trên địa bàn tỉnh Tây Ninh, Viện Kiểm sát Nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh thấy cần rút Quyết định kháng nghị. Đồng nghĩa, bản án của Tòa án Nhân dân tỉnh Tây Ninh tiếp tục có hiệu lực thi hành toàn bộ.
Út Huy ngậm ngùi: Tui là nông dân. Làm sao hiểu hết quy trình tố tụng. Tui cũng mong và ủng hộ tỉnh Tây Ninh có nhiều dự án phát triển kinh tế và sẵn sàng chịu thiệt thòi. Ví dụ chuyện đồng ý làm đường, lấy đất tới đâu giao tới đó như lần tỉnh thu hồi hơn 16ha giai đoạn 2 mà đến nay vẫn chưa đền bù. Tui vẫn chờ đợi mà không một lời ca thán. Và tui cũng tin pháp luật luôn được bảo đảm công bằng.
Giọng vua chuối chùng hẳn xuống. Một tiếng khóc nấc bật ra từ người phụ nữ, xóa vỡ bầu không khí nặng nề.

Người phụ nữ ấy là Nguyễn Thị Kim Huê, vợ của Nguyễn Sơn Hải. Hai vợ chồng họ cùng với gia đình ông anh trai Nguyễn Chí Trung và Phạm Thị Mỹ Lang theo ông Út Huy hết đi trồng mía, trồng mì lại trồng chuối đã mấy chục năm nay.
Cứ nghĩ sẽ gắn bó mãi với đất Bời Lời, họ luôn mong mỏi có được mảnh đất cắm dùi, cất nhà lấy chỗ chui ra chui vào. Cả 4 người gom góp mãi mới cất được hai ngôi nhà trên đất nông trường Bời Lời cũ. Giờ phán quyết của tòa là đập bỏ hết. Chị Huê khóc: Năm ngoái chồng tui chết, bỏ lại hai mẹ con. Đứa con gái nhiễm chất độc da cam, lại thêm đứa cháu ngoại đang còn nhỏ. Giờ nhà cửa bị đập, đất đai bị thu, thử hỏi sao tui sống hả trời?
Út Huy vỗ về: Tụi tao sống thì mày sống. Sự thật chắc chắn sẽ không thể nào thay đổi.
Chẳng rõ ông vua chuối đã nhắc đi nhắc lại câu “sự thật không thể thay đổi” lần thứ bao nhiêu.
Ông Huy lại tiếp tục ngồi viết đơn thư gửi đến các cơ quan chức năng và cá nhân lãnh đạo Trung ương, địa phương.
Vẫn là mạch nguồn tự sự của một người yêu đất. Út Huy giãi bày: Cuối năm ngoái, sau khi dự đối thoại của Thủ tướng, tui nhớ mình nêu nhiều vấn đề về khai thông nguồn lực đất nông lâm trường và trân trọng mời Thủ tướng vi hành tới các nông lâm trường để hiểu hơn về thực trạng hiện nay.
Trong phần kết luận, đề cập đến vấn đề tui nêu, Thủ tướng đã giao Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường (nay là Bộ Nông nghiệp và Môi trường) chủ trì lập “tổ công tác đặc biệt” của Thủ tướng để kiểm tra, rà soát hiện trạng thực tế đất đai tại các nông lâm trường như kiến nghị, để tham mưu cho Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ kịp thời ban hành các chính sách nhằm tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong phát triển sản xuất nông lâm nghiệp.
Giờ này tui đang tha thiết mong Thủ tướng chỉ đạo cơ quan, ban, ngành chuyên môn xem xét giải quyết nguyện vọng chính đáng của bản thân. Tui sẵn sàng giao đất cho địa phương để thực hiện dự án, nhưng đồng thời xin được xem xét bồi thường, hỗ trợ như bao người nông dân khác trong vùng dự án theo quy định của địa phương.
Nếu không có phương án thỏa đáng, thì rất nhiều tài sản như chuối đang thu hoạch, cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất sẽ phải phá hủy và di dời, gây lãng phí và thiệt hại hàng chục tỷ đồng.
Tài sản đó đối với người nông dân ngoài công sức, tiền bạc, còn là cả cuộc đời.
(Còn nữa)
——-
Nội dung: Hoàng Anh – Kiên Trung – Minh Sáng
Thiết kế: Tiến Thành
***



Một buổi sáng ở Bời Lời (xã Đôn Thuận, huyện Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh), khi Út Huy đang phăm phăm trên con đường đầy đá sỏi nằm lọt thỏm giữa trang trại chuối bạt ngàn thì có đoàn công tác đến kiểm kê. Ai đó bắn tiếng: “Đất này vốn dĩ là đất Nhà nước. Anh em các ông “ăn” mấy chục năm nay chưa đủ hay sao? Giờ các ông phải trả lại cho Nhà nước”.
“Nghe xong tui muốn khuỵu luôn, trời!”, giọng Út Huy như có lửa. Lúc ấy, dù ngoài mặt cố giữ vẻ điềm tĩnh nhưng trong lòng thực sự héo như tàu lá, gãy đổ như cây chuối bị ai đó phạt ngang thân. Chắc chắn không thể ở đất Bời Lời này được nữa. Út Huy nghĩ bụng và lập tức phóng chiếc bán tải lên Tân Đông. Nơi ấy cách Bời Lời gần 3 giờ chạy xe, là xã biên giới của huyện Tân Châu.
Từ nhiều năm trước, Út Huy đã thường xuyên qua lại với những người bạn khai hoang ở Tân Đông. Họ, mê đất như nhau, mang chí hướng và khát vọng làm giàu từ đất như nhau. Nghe Út Huy kể chuyện Bời Lời có nguy cơ “thất thủ”, Mười Trừ (Nguyễn Văn Trừ) khoát tay: “Thôi bỏ. Mày mang chuối lên trên này với tụi tao. Đất mênh mông, ngày trước trồng cao su mà giờ đang bỏ hoang. Tiếc lắm. Tụi mình cho cái đất biên giới này thành trang trại chuối số 1 Việt Nam luôn!”.
Nghe lời bạn. Và dường như linh cảm được, không chóng thì chầy, đất chuối Bời Lời sẽ “thất thủ”. Tháng 3/2019, Út Huy mở đường lên vùng biên Tân Đông tìm chỗ đứng cho giống chuối già mà mình đang canh tác.
“Chỗ đứng” ở đây hoàn toàn theo nghĩa đen. Nghĩa là đi tìm đất để cây chuối yên vị chứ không phải cuộc gian nan đi tìm thương hiệu, bởi danh tiếng “vua chuối Long An” Út Huy đã vang khắp nước.

Từ đây, qua cửa khẩu Kà Tum, cửa khẩu Tống Lê Chân hơn chục km là đặt chân sang đất bạn Campuchia. Tại hai xã Tân Đông, Suối Dây, Công ty cao su 1-5 Tây Ninh từ lâu đóng chốt, quản lý diện tích lên tới hơn 2.600ha.
Lần ngược thời gian: Năm 1989, huyện mới Tân Châu được thành lập trên cơ sở gộp 8 xã Tân Đông, Tân Hiệp, Tân Hội, Tân Hưng, Tân Phú, Tân Thạnh, Thạnh Đông, Thạnh Nghĩa (huyện Tân Biên) và 2 xã Tân Thành, Suối Dây của huyện Dương Minh Châu. Sau đó không lâu, Liên hiệp Xí nghiệp cao su Tây Ninh được thành lập trên huyện mới cũng với mục tiêu làm kinh tế, trồng cây cao su. Quãng ấy, đất Đôn Thuận (huyện Trảng Bàng) đã hoang hóa, thưa người thì đất Tân Đông, Suối Dây còn hoang vu hơn bội phần.
Mảnh đất vùng biên vừa qua cơn binh biến, dư âm cuộc chiến xâm lược biên giới Tây Nam của tập đoàn Pol Pot – Ieng Sary vẫn còn hoảng loạn trong ký ức của người dân bản địa. Để phủ xanh mảnh đất vùng biên, Đảng, Nhà nước chủ trương đưa dân vào vùng kinh tế mới, khai hoang phục hóa…
Giai đoạn khởi đầu gian nan này, như hầu hết các nông – lâm trường khác, Xí nghiệp cao su 1-5 Tây Ninh cũng không đủ lực để khai thác quỹ đất rộng hàng ngàn ha, phải hợp đồng giao khoán cho các hộ dân theo mô hình liên kết: Xí nghiệp cho vay vốn, giống, hướng dẫn kỹ thuật; người dân cải tạo đất, trồng, chăm sóc cây cao su và trả bằng mủ, sau khi khấu trừ hết vốn vay sẽ ăn chia theo tỷ lệ % khai thác mủ. Thời gian giao khoán đất dài hạn lên tới 50 năm.
Theo thời gian, đơn vị chủ đất thay đổi tên gọi, cơ cấu tổ chức, từ Xí nghiệp cao su 1-5 Tây Ninh chuyển thành Công ty Cổ phần Cao su 1-5, tiếp đó là Công ty TNHH MTV Cao su 1-5 Tây Ninh. Tháng 5/2018, Tây Ninh chủ trương giải thể Công ty Cổ phần cao su 1-5 do cây cao su đã hết khả năng gia tăng giá trị kinh tế, để chuyển sang mô hình nông nghiệp công nghệ cao.
Đấy cũng là lý do mà Út Huy cất công tìm hiểu nguồn gốc đất Tân Đông!

Đầu năm 2019, vườn chuối công nghệ cao đầu tiên ở xã Tân Đông (huyện Tân Châu) thành hình. Mười Trừ là người đầu tiên ở Tân Đông bắt tay với Út Huy, “góp cổ phần” bằng gần chục ha đất trồng chuối.
“Ý định của tui, đó là mở rộng vùng trồng chuối sạch ở Tân Đông để các hộ dân trong xã có đất cùng tham gia sản xuất. Tui hướng dẫn kỹ thuật, lo đầu ra, bao tiêu sản phẩm cho nông dân. Nó là bài toán “muốn đi xa thì phải đi cùng nhau” như anh Sáu Hoan (nguyên Bộ trưởng Bộ NN-PTNT, Phó Chủ tịch Quốc Hội Lê Minh Hoan) vẫn nói, và cũng là kế sách giúp người nông dân làm giàu, gia tăng giá trị nông nghiệp.
Bao năm cây cao su khốn khó, cây mì bấp bênh vì giá thu mua lên xuống, không ổn định. Muốn thay đổi đời sống người dân vùng biên phải có một cây trồng bền vững. Ở Tây Ninh, đó là cây chuối”, Út Huy chậm rãi.
Trong kế hoạch, Út Huy còn tính chuyện đường dài, là bày cho nông dân Tân Đông thành lập Hợp tác xã công nghệ cao trồng chuối sạch, chuối hữu cơ. Ông sẽ nhận làm “bà đỡ” trong những ngày đầu bỡ ngỡ.
Tháng 12/2019, vụ chuối đầu tiên cho thu hoạch. Những buồng chuối thành phẩm lũ lượt về xưởng sơ chế, được kỳ cọ, làm sạch, phân loại rồi đóng hộp xuất khẩu. Nông dân ấp Đông Lợi mừng khôn xiết. Nó giống như một cơn mưa mát lành trên vùng đất bấy lâu khô hạn.
Người vui nhất khi đó có lẽ là ông Mười Trừ!

Gia đình Mười Trừ có 2 hợp đồng giao khoán đất trồng cao su với Công ty cao su 1-5 Tây Ninh từ năm 1996. Một hợp đồng do ông đứng tên với diện tích 5,62 ha. Cái còn lại là vợ ông, bà Lê Thị Gái, với 4,78 ha.
Hơn 30 năm trước, vợ chồng, con cái dắt díu nhau từ dưới xã Phước Chỉ, huyện Trảng Bàng (nay là thị xã Trảng Bàng) lên với đất này. Biên giới Tân Đông khi ấy chỉ là toàn rừng le. Một màu bạc phếch. Bà Gái nhìn đất chán chê xong quay ra ngán ngẩm, tha thiết khuyên chồng con quay về.
Nhưng Mười Trừ còn sức vóc, nói với vợ con: Lỡ đi rồi giờ sao quay lại? Thôi má con tụi bây cứ xem như cha bị đi tù. “Mức án” là 5 năm. Ba sẽ theo mọi người đi vào nhận đất của công ty để trồng cao su. Gắng chừng 5 năm nữa, đến chu kỳ cao su cho khai thác, may ra cả nhà mình mới có cái ăn.
Vào gặp công ty mới biết, họ cũng đang cần người làm. Hình thức là công ty giao đất, cho hộ nhận khoán vay tiền và hai bên cùng cải tạo đất, trồng cao su. Đến giai đoạn cây cao su có mủ, người nhận khoán trả quyền lợi cho công ty hằng năm, từ tiền thuê đất, tiền đầu tư hạ tầng, tiền bảo vệ… Thời hạn giao khoán theo hợp đồng là 50 năm, nghĩa là kéo dài đến năm 2046.
“Tui tính đến lúc hết hợp đồng chắc mình còn sống nên càng cố sức làm. Hy vọng để lại cho vợ con chút đỉnh. Vậy mà giờ lại thành kẻ trắng tay”, Mười Trừ ngắt quãng.
Trên diện tích xấp xỉ chục mẫu, vợ chồng Mười Trừ trồng cao su đến năm 2017. Cũng có thể coi là đủ nuôi mấy miệng ăn. Nhưng từ năm ấy, sóng gió bỗng từ đâu ập tới. Tự dưng không thấy công ty hoạt động gì nữa. Mủ cạo ra không biết bán cho ai. Công ty cũng không nói rõ là thực hiện tiếp hợp đồng như thế nào. Hỏi một vài người nghe nói, giá mủ xuống quá, chắc công ty phá sản, giờ người nhận khoán muốn làm gì thì làm. Bà con lần lượt phá bỏ cao su, chuyển sang trồng mì, trồng chuối…
Thanh lý vườn cao su xong mấy anh em tui gọi Út Huy lên gầy dựng trang trại chuối này. Mười Trừ khoát tay vẽ hình cánh cung. Phía xa chỉ thấy một màu xanh của chuối.
Cho nên, thành quả mà Mười Trừ nhìn thấy, nó cho ông niềm tin, hy vọng!

Út Huy là người trông xa, nhìn rộng. Tháng 5/2020, nhận ủy quyền từ các hộ có hợp đồng liên kết với Công ty cao su 1-5, hầu hết là những người tuổi cao sức yếu, không còn đủ sức khỏe, năng lực sản xuất. Hiệp đồng bằng “Giấy thỏa thuận chuyển giao quyền lợi, nghĩa vụ thực hiện giao khoán”, Út Huy tiếp tục quyền sử dụng gần 68ha vẫn còn thời hạn, có những khế ước giao khoán, thời hạn tới… năm 2045.
Với kinh nghiệm gây dựng hàng chục farm trồng chuối công nghệ cao, từ Long An cho tới Bình Dương, Đồng Nai, Trảng Bàng (Tây Ninh), Củ Chi (TP.HCM)…, thêm một farm chuối trên đất Tân Châu, với Út Huy không khó. Đó là sở trường, và cũng là đam mê.

Có thêm hơn 20 ha do các hộ cá thể cùng liên kết góp vốn bằng đất, Út Huy bỏ vốn, quy hoạch cải tạo lại đất. Công nhân kinh nghiệm từ các farm khác được tăng cường về Tân Đông. Lắp đặt hệ thống tưới tự động, giàn chống, hệ thống ròng rọc dài vài chục km dọc ngang vườn; cất mới 4 nhà xưởng sơ chế chuối sau thu hoạch… Chi phí trên 1ha là 650 triệu đồng.
Tính cả vùng chuối tròm trèm 90ha, kinh phí đầu tư Út Huy bỏ ra lên tới 50 – 60 tỷ đồng. Một số tiền khổng lồ! Bỏ ngần ấy tiền, đương nhiên không ai làm chơi. Đó là một cuộc dốc vốn lâu dài!
Người hiểu Út Huy cũng sẽ nhận ra, đó là phương án phòng xa của ông. Trong tình huống farm chuối Bời Lời bị thu hồi để thực hiện dự án khu công nghiệp, Tân Châu sẽ là vùng gối đầu, thay thế trên đất Tây Ninh, vừa duy trì ổn định vùng trồng, vừa giữ chữ tín với các đối tác đã ký kết hợp đồng tiêu thụ…
Hồ Thị Nguyền, cô kỹ sư nông nghiệp trẻ quê Cà Mau, sinh năm 1994, tốt nghiệp loại giỏi khoa Trồng trọt của trường Đại học Cần Thơ, vừa ra trường đã xin “đầu quân” cho Công ty Huy Long An, theo “Út” – cách xưng hô đầy yêu thương, trìu mến mà cô dành cho ông Võ Quan Huy, tới nay đã sang năm thứ 9.
Ngày đầu tiên đưa giống chuối già lên vùng biên giới, cô có mặt.

“Khi Út mới lên, Tân Đông cũng đã có người trồng chuối nhưng quy mô nhỏ, phân tán, chưa bài bản. Nông dân chưa có vốn, chưa có kinh nghiệm nên chất lượng chuối chưa cao, giá bán vì thế rất thấp nên không mấy ai mặn mà. Farm Tân Đông của Út là farm đầu tiên, bài bản và lớn nhất ở Tân Châu”, Nguyền nói.
Có đất, Út Huy tiến hành trồng chuối đại trà. Được mấy tháng thì xảy ra Covid. Sản xuất nông nghiệp giữa mùa dịch. Những ai sống trong thời khắc này đều biết khó khăn nhường nào. Tổ 970 (tổ công tác đặc biệt của Bộ NN-PTNT tại Nam bộ) thời kỳ dịch đã góp phần không nhỏ để duy trì sản xuất cho nhiều nông trại, trong đó có farm chuối của Út Huy.
Út Huy họp bàn một số đơn vị đang làm kinh tế trên đất Tây Ninh, nói: “Phải chung tay cùng tỉnh chống dịch, đứng ngoài cuộc không có được!”.
Đóng góp tiền, hỗ trợ hàng thiết yếu cho địa phương, hỗ trợ người dân. Tỉnh cấp vacxin về chích ngừa cho công nhân đủ liều lượng theo quy định. Công nhân trồng chuối cách ly tại chỗ, ngày đi làm mỗi người phụ trách một khu. Đêm về, ai ở phòng đó, tự giãn cách, không ai tiếp xúc ai. Tuân thủ quy chế chống dịch mà sản xuất vẫn duy trì, không đứt gãy.
Đại dịch qua đi thì tới thiên tai, địch họa. Một cơn bão lớn đổ bộ vào Tân Châu bẻ gãy 4.000 cây chuối đang tuổi sung, sắp cho buồng. Chuối đổ như ngả rạ. Lại huy động công nhân từ các farm Bời Lời, Đức Huệ… lên hỗ trợ, dọn dẹp, trồng mới, trồng dặm. Thiệt hại không kiểm xiết.

Tiếp đến là những khó khăn do chưa hiểu hết, biết hết về đất mới, chưa thông thổ nhưỡng, địa hình đất Tân Đông. Công nhân tuyển mới chưa có kinh nghiệm, đào rãnh thoát nước giữa các hàng trồng không đủ độ sâu. Mưa lớn, nước ngập, rừng chuối ngâm mình trong nước quá gốc. Hệ lụy của ngập úng khiến chuối bị úng. Thối rễ, sâu bệnh lây lan hoàng loạt.
Bệnh phổ biến nhất trên cây chuối là bệnh Panama do nấm fusarium gây ra. Thân chuối nứt dọc. Một thời gian cây vàng lá, chết hàng loạt.
“Không triệt dứt điểm bởi tới nay vẫn chưa có thuốc trị. Cách xử lý duy nhất, đó là trồng mới, và phải chọn giống chuối có khả năng kháng bệnh để thay thế”, Kỹ sư phụ trách kỹ thuật farm chuối Tân Đông, cô Hồ Thị Nguyền khẳng định.
Lại mất thêm cả năm trời. Sang năm 2024, vườn chuối Tân Đông mới bắt đầu ổn định, đi vào nề nếp. Vụ chuối đang thu hoạch thời điểm chúng tôi có mặt là những trái ngọt đầu tiên!
Tính toán sơ bộ của kỹ sư Nguyền: farm chuối Tân Đông mỗi ngày đang cho thu hoạch từ 400 – 600 buồng, mỗi buồng đạt gần 30kg đủ tiêu chuẩn xuất khẩu. Rộ vụ tháng 9 tới đây, sản lượng cho 700 – 800 buồng/ngày, ước tính 1 năm đạt khoảng 5.400 tấn chuối quả. Đủ tin tưởng, cây chuối của Út Huy tự tin đứng chân trên đất Tân Châu.
Điều đó minh chứng rằng, đầu tư vào nông nghiệp, thuần dưỡng được đất, đó không chỉ là công sức, tiền của, mà còn một ý chí sắt đá cùng thời gian!

Những tưởng đã đến lúc được thở thì một khúc cua mới lại bất ngờ vẽ ra trước mặt Út Huy, khiến ông chết đứng: UBND huyện Tân Châu ra thông báo thu hồi toàn bộ 90ha đất chuối Tân Đông mà ông vừa dày công gây dựng. Mà thu hồi trắng, không đền bù, không biết người ta bỏ công sức khai phá đất, bỏ 5 – 6 chục tỷ đồng đầu tư cho cây chuối đứng lên!
Quyết định mang số 3479 của UBND tỉnh Tây Ninh với nội dung: “Phê duyệt Phương án sử dụng quỹ đất Công ty TNHH MTV Cao su 1-5 Tây Ninh, bàn giao về địa phương quản lý”. 5/11 xã thuộc Tân Châu nằm trong diện thu hồi. Kèm theo Quyết định này là thực trạng quản lý, sử dụng quỹ đất do nhà nước giao của Công ty cổ phần Cao su 1-5 Tây Ninh.
Theo đó, Công ty cao su 1-5 đang trực tiếp quản lý, sử dụng gần 740ha, gồm hơn 675ha đất nông nghiệp. Hơn 63ha đất phi nông nghiệp, có lẽ là phần diện tích xây dựng hạ tầng, nhà xưởng, công trình trên đất.
Đất giao cho Công ty 1-5 nhưng công ty không trực tiếp quản lý, sử dụng, cũng không thuộc các hợp đồng giao khoán là 57,6ha, gồm 21,3ha đất vườn cao su Phạm Môn tại xã Trường Hòa, thị xã Hòa Thành; 33,2ha đất có cây rừng, chủ yếu là cây dầu tại xã Tân Đông; 3ha đất bị lấn chiếm tại xã Suối Dây.
Đất Công ty hợp đồng giao khoán, cho mượn là hơn 2.069ha. Trong đó, diện tích lớn nhất là hợp đồng liên doanh liên kết (105 hợp đồng tương ứng 1.068,5ha); 18 trường hợp cho mượn đất (144,6ha). Đối tượng hợp đồng có hai dạng: giao vườn cây liên kết trồng, khai thác cao su và khoán đất trồng cao su. Các hợp đồng hầu hết ghi thời hạn từ 25 – 50 năm hoặc ghi chu kỳ cao su kèm theo thời hạn. Có 9 hợp đồng với diện tích 57,7ha không xác định thời hạn.
Cũng tại Quyết định 3479, ghi: Hợp đồng liên kết trồng và khai thác cao su (liên doanh – liên kết), tổng số có 130 hợp đồng, diện tích hơn 1.272ha. 105/130 hợp đồng chưa thanh lý, trả đất cho công ty cao su chiếm diện tích 1.068,5ha, vườn cây hầu hết đã già cỗi, không còn hiệu quả kinh tế. Thời hạn hợp đồng ghi nhận từ 40 – 50 năm. Tính đến thời điểm ban hành quyết định phê duyệt phương án sử dụng đất trồng cao su của Công ty cao su 1-5, nhiều hợp đồng còn thời hạn từ 5 – 10 năm (42 hợp đồng); 10 – 15 năm (58 hợp đồng); trên 15 năm có 3 hợp đồng và 2 hợp đồng không xác định thời hạn.
Khi xem những nội dung này, Út Huy lặng thinh, không nói. Ông nhìn ra rừng chuối xanh ngút tầm mắt mà mình vừa gây dựng trong vòng 5 năm, tính từ thời điểm 2019, giờ đã trải dài tưởng như đến tận chân trời. Tiếc. Trong khi những người làm thật khát đất, thì đất được giao cho các đơn vị như Công ty cao su 1-5 bỏ phí. Ngần ấy năm trời, Cao su 1-5 mới chỉ sử dụng, khai thác 675/2.865ha, chưa đầy 1/4 quỹ đất.
Điều đó có thể được hiểu, phần diện tích đất mà Cao su 1-5 liên doanh liên kết (hình thức giao vườn cây liên kết trồng, khai thác cao su và khoán đất trồng cao su), hiệu suất, hiệu quả lớn hơn nhiều so với pháp nhân Nhà nước vận hành.
Trong số này có phần diện tích gần 10ha của vợ chồng ông Mười Trừ đang canh tác, và có gần chục trường hợp khác liên doanh liên kết ủy quyền cho Út Huy thừa kế, tiếp tục khai thác quyền sử dụng đất cho tới khi hết thời hạn trong hợp đồng. Út Huy đã biến nó thành những rừng chuối xanh ngút ngàn ở vùng biên giới Tân Đông.
Nhưng, mục đích thu hồi để làm gì, đó mới là câu trả lời quan trọng nhất!

Sau Quyết định 3479, ngày 22/4/2022, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Tây Ninh Trần Văn Chiến ban hành QĐ 940 thu hồi hơn 2.520ha đất của Cao su 1-5 tại hai xã Tân Đông, Suối Dây. Không có một từ nào nhắc những người dân đã gắn bó với đồng đất Tân Đông, Suối Dây suốt mấy chục năm qua.
Mười Trừ chua xót: tỉnh Tây Ninh nói đất thuộc quyền sử dụng của Công ty Cổ phần cao su 1-5 Tây Ninh. Ừ thì đúng. Nhưng 30 năm qua chúng tôi là người khai hoang, phục hóa, cải tạo đất. Công ty chỉ quản lý đất trên danh nghĩa, còn lại dân làm hết. Cớ sao giờ thu hồi mà không bồi thường cho dân được một đồng nào?
Xanh mướt mắt dưới ánh nắng mai đầu hạ. Những tàu chuối xanh thẫm, ngửa tênh hênh như bàn tay vẫy. Nhờ Út Huy đưa giống, phân bón, khoa học kỹ thuật vào cải tạo mới được như vầy. Vụ chuối đầu tiên xuất khẩu liền, mỗi ha lãi lời hơn trăm triệu, bằng mấy chục năm cao su cộng lại. Mười Trừ từng thoáng vui. Nhưng niềm vui ngắn ngủi, như mắc nghẹn.

“Tui đi lên huyện, hỏi đất đang còn thời hạn hợp đồng, người dân đang sống tốt sao lại thu hồi? Nghe trả lời đất này là của công ty cao su, tức là đất Nhà nước, giờ Nhà nước thu hồi để bàn giao về cho huyện Tân Châu quản lý. Hỏi cán bộ phụ trách thì nói rằng để quy hoạch phát triển khu nông nghiệp công nghệ cao và giao cho người dân có nhu cầu sản xuất. Thì chúng tôi cũng là dân. Cũng đang làm nông nghiệp công nghệ cao còn gì”, Mười Trừ thắc mắc.
Nhưng lệnh thu hồi đất đã ban. Mười Trừ không cam lòng, tiếp tục khiếu nại. Kết quả là quyết định xử phạt hành chính về hành vi chiếm đất, mức phạt 85 triệu đồng.
Đau đớn như Hoàng Văn Lâm, một nông dân quê mãi ngoài Phú Thọ vào tìm đất xây dựng kinh tế mới. Công ty hết hợp đồng, anh Lâm nhận sang nhượng lại của mấy người lớn tuổi. Vừa trồng cao su, trồng chuối, trồng mì. Giờ tỉnh thu hồi thành ra người tay trắng.
Hay như trường hợp của Nguyễn Như Tuyên, hợp đồng nhận khoán do bố mẹ cho kế thừa, đang trực tiếp canh tác trên 5,36ha. Giữa năm rồi đang chuẩn bị trồng mì thì bỗng nhiên nhận được thông báo thu hồi đất, cả anh Lâm và anh Tuyên đều tá hỏa. Chạy ra rẫy xem đã thấy người khác lái máy cày vào làm đất để chuẩn bị trồng mì.
“Đời người nông dân, đau đớn nhất là nhìn người khác canh tác trên đất của mình dày công khai mở”, giọng Tuyên tức nghẹn.

Từ người trực tiếp ký hợp đồng giao khoán, người sang nhượng, thừa kế đất từ khế ước với Công ty cao su 1-5 Tây Ninh, không một ai là ngoại lệ.
Út Huy cũng chết đứng trong số ngần ấy con người đang sử dụng đất của Cao su 1-5, đang khai thác hiệu quả từ sản xuất nông nghiệp, đang đi đúng, mà còn đi trước đường hướng “phát triển nông nghiệp công nghệ cao” mà Tây Ninh vừa vạch đường.
Nhớ lại cuộc trao đổi của PV Báo Nông nghiệp Môi trường với Giám đốc Sở Nông nghiệp Môi trường tỉnh Tây Ninh, ông Nguyễn Đình Xuân nói: “Ông ấy (Võ Quan Huy – PV) phải bước một chân lên trước, đưa một cái tay ra trước thì mới có thể tìm được hướng giải quyết (trong câu chuyện thu hồi đất nông – lâm trường) này được”.
Đấy là khi vụ việc đất Bời Lời tại Trảng Bàng của Út Huy vẫn đang bế tắc. Công ty TNHH MTV 30-4 do Văn phòng Tỉnh ủy Tây Ninh thành lập, đang nhân danh Nhà nước khởi kiện những người mượn đất của Nông trường cao su Bời Lời khi xưa ra tòa để đòi lại đất.
Đấy là khi, Tây Ninh thu hồi hơn 2.600ha đất nông nghiệp mà Cao su 1-5 làm chủ suốt hơn 40 năm không hiệu quả, trong khi những người thuê mượn, hợp đồng sử dụng đất lại đang canh tác hiệu quả, thuần dưỡng để đất trả vàng.
Và, mục đích thu hồi đất tại huyện Tân Châu, là để quy hoạch vùng sản xuất nông nghiệp công nghệ cao – thứ mà “vua chuối” Võ Quan Huy đã và đang thực hiện từ rất lâu.
Khi chúng tôi đặt câu hỏi này, đại diện Phòng Nông nghiệp và Môi trường huyện Tân Châu bối rối: “Huyện đang trình phương án lên UBND tỉnh để xin ý kiến chỉ đạo”.
Còn Út Huy, ông “chết đứng” trước một quyết định thu hồi, dù nó không phải là bản án mà cơ quan tố tụng tỉnh Tây Ninh đã tuyên như với đất nông trường Bời Lời mà ông đang đeo đuổi.
“Cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng từng nói: Nông nghiệp là lợi thế quốc gia, trụ đỡ của nền kinh tế. Nhưng ở địa phương, trụ đỡ ấy có đúng hay không, tôi không có rành”, Út Huy nói.
“Mấy năm nay, Út lo nhiều công chuyện, Út già đi nhiều, tóc bạc trắng tới độ không thể trắng hơn”. Chợt nhớ lời của cô kỹ sư trẻ Hồ Thị Nguyền, khi một cơn gió bất chợt ập đến giữa buổi trưa chang nắng vùng biên Tân Châu. Cơn gió khiến những tàu lá chuối lật ngửa, như những bàn tay vẫy!
(Còn nữa)
Nội dung: Hoàng Anh – Kiên Trung – Minh Sáng
Thiết kế: Tiến Thành
***


Đất nhà nước. Tôi đã nghe cái cụm từ ấy cả nghìn lần trong những ngày rong ruổi để tìm hiểu về câu chuyện đất nông trường ở xã Đôn Thuận, thị xã Trảng Bàng và 2 xã biên giới Tân Đông và Suối Dây thuộc huyện Tân Châu, tỉnh Tây Ninh.
Nghe trong cuộc trò chuyện ngắn ngủi với ông Nguyễn Đình Xuân, Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Tây Ninh, với hy vọng sẽ tìm thấy chút đồng cảm số phận những cuộc đời dấn thân vào nông nghiệp.
Nghe khi gặp gỡ bà Mai Thị Kim Thanh, người luôn theo sát chiến dịch thu hồi đất Công ty cao su 1 – 5 Tây Ninh từ những ngày đầu.
Dù có thoáng chút ngập ngừng và dường như có ít nhiều trắc ẩn: “Đúng là người dân có thiệt thòi thật”. Nhưng cuối cùng vị Phó Trưởng phòng Nông nghiệp và Môi trường huyện Tân Châu vẫn quả quyết: “Đất của Nhà nước từ ngày xưa tới giờ. Hơn 2.520ha đất đó là của Công ty Cao su 1-5 Tây Ninh, được UBND tỉnh Tây Ninh thu hồi và giao UBND huyện Tân Châu quản lý. Thành thử nói công khai hoang hay gì thì đất người dân đang canh tác cũng vẫn nằm trong diện tích đất Công ty Cao su 1-5 Tây Ninh, không có nằm ngoài. Bây giờ Nhà nước phải thu hồi lại”, bà Mai Thị Kim Thanh nói.
Quan điểm của chính quyền là vậy. Đồng nhất và quyết liệt. Bảo sao, với những cuộc đời của đất như Út Huy (Võ Quan Huy), Hai Thơ (Phạm Văn Thơ), Mười Trừ (Nguyễn Văn Trừ) và vô vàn phận đời khai hoang khác ở tỉnh Tây Ninh, cái cụm từ “đất nhà nước” giờ đây thật chua xót, đắng cay và ám ảnh.

Bà Mai Thị Kim Thanh cung cấp cho chúng tôi Quyết định thu hồi hơn 2.520ha đất ở 2 xã Tân Đông và Suối Dây của huyện Tân Châu. Cùng với đó là Quyết định phê duyệt Phương án sử dụng quỹ đất thu từ công ty cao su để bàn giao về huyện Tân Châu quản lý.
Tại các văn bản này của UBND tỉnh Tây Ninh thể hiện: Trong số hơn 2.520ha đất của Công ty Cao su 1-5 Tây Ninh quản lý, có khoảng 2.069ha là diện tích giao khoán, cho mượn theo hợp đồng. Đến thời điểm rà soát vẫn còn hơn 1.853ha của 263 hợp đồng các loại chưa thu hồi.
Đối tượng hợp đồng có hai dạng giao vườn cây liên kết trồng, khai thác cao su và khoán đất trồng cao su. Các hợp đồng hầu hết có ghi thời hạn từ 25 – 50 năm hoặc ghi chu kỳ cây cao su kèm theo thời hạn. Cá biệt có 9 hợp đồng với diện tích 57,7ha không xác định thời hạn hợp đồng.
Nhìn chung các hợp đồng không có sự thống nhất theo một khuôn mẫu nhất định nên tính phức tạp rất cao, khó áp dụng chính sách khi thu hồi sắp xếp sử dụng đất bàn giao về địa phương…

“Rõ ràng, tỉnh nắm rất rõ bản chất của các hợp đồng giao khoán và thời hạn của rất nhiều hợp đồng là 50 năm, từ năm 1996 đến năm 2046 mới hết hạn. Vậy tại sao chưa đến 30 năm đã thu hồi rồi? Làm như vậy liệu có phải là “đánh úp” dân hay không?”. Nguyễn Như Tuyên (40 tuổi), một trong số “263 hợp đồng các loại”, tuôn một tràng dài. Câu nào cũng thấy hỏi, bức xúc như bị dồn nén từ lâu.
“Nhưng năm nay anh mới có 40. Có phải người trực tiếp ký hợp đồng đâu mà thắc mắc?”, tôi hỏi lại.
“Hợp đồng giao khoán là của bố mẹ tôi trực tiếp ký. Bây giờ một người đã già yếu còn người kia mất rồi. Tôi nhận thừa ủy quyền từ bố mẹ mình. Không làm thì ai?”
Có lẽ chúng tôi cứ hỏi đi hỏi lại nhau mãi như vậy nếu ông Trần Văn Trừ, Hoàng Văn Lâm và mấy người khác không kịp thời chạy tới.
Vừa ngồi xuống, Mười Trừ vội cắt ngang: Nếu nói hợp đồng của Công ty Cao su 1-5 Tây Ninh với người nhận khoán phải phân ra nhiều loại. Loại thứ nhất là hai bên ký trực tiếp với nhau, đất thật, người thật, làm thật. Loại thứ hai là dân tự bỏ công khai hoang đất, nhưng gặp giai đoạn đầu khó khăn quá, không có tiền để đầu tư nên buộc phải nhờ công ty dựng giúp hợp đồng, nhằm vay vốn ngân hàng. Loại thứ ba là các hợp đồng ủy quyền, cha mẹ già yếu để lại cho con cái, người này sang nhượng lại người kia…
“Hợp đồng nào tỉnh cũng thu hồi hết, không có đền bù gì hay sao?”, tôi lại hỏi. Cả Mười Trừ lẫn anh Tuyên, anh Lâm đồng thanh: Thu hồi sạch sẽ. Chúng tôi cũng chỉ nhận được giấy thông báo ghi rất chung chung từ huyện. Một tờ A4 như trên trời rơi xuống. Ụp lên đầu người dân. Ai cũng bàng hoàng, điêu đứng.
Nguyễn Như Tuyên kể tiếp: Tui chạy lên xã hỏi bà Chủ tịch Nguyễn Thị Nhung. Tại sao đất của gia đình đang canh tác ổn định, hằng năm đều thực hiện nghĩa vụ với Công ty Cao su 1-5, cớ sao bây giờ thu hồi mà tôi không biết? Tui còn mách bà Chủ tịch xã là đất của mình hiện đang có người khác nhảy vào cày, yêu cầu xã ra lập biên bản. Chủ tịch xã trả lời, đất ấy đã giao Ban chỉ huy quân sự huyện Tân Châu quản lý để chống tái canh.
Lại chạy lên huyện hỏi. Nghe được thông tin đúng là có một số diện tích thu về từ Công ty Cao su 1-5 tỉnh đã bàn giao cho huyện. Tiếp nhận một thời gian huyện Tân Châu mang ra đấu giá cho người khác trồng mì. Họ nói làm thế để đất đỡ lãng phí. Trời ơi. Đất gia đình tui đang yên ổn canh tác bao nhiêu năm rồi, có phải bỏ hoang vô chủ đâu mà lãng phí hả trời?
Thảng thốt xong, Tuyên vội kéo tôi ngồi sau xe, nổ máy chạy ra đồng. Đồng rộng mênh mông bát ngát, loang lổ như một tấm da báo khổng lồ. Chỗ bên này đất mới thu hồi, đang bỏ không. Bạc phếch. Chỗ bên kia mấy hộ như ông Mười Trừ, ông Thanh đang trồng mì, trồng chuối. Xanh um.

“Đất này nông dân phải mất nhiều năm cải tạo, dày công chăm bón mới được như vầy”, vừa chậm rãi chạy xe, Tuyên ngậm ngùi. Dường như với những người thuộc thế hệ thứ hai ở Tân Đông như anh, ai cũng biết ơn công khai hoang của người đi trước. Càng biết nghĩ lại càng đau, càng tiếc.
“Nhà báo xem. Toàn bộ khu này vốn của gia đình tui và gia đình anh Hoàng Văn Lâm đang canh tác. Nhưng giờ bỗng dưng thành đất của người khác. Họ cũng đang trồng mì. Thử hỏi như thế có đau xót hay không?”, Tuyên lại hỏi.
Xe chạy qua trang trại chuối của Mười Trừ. Sau cơn mưa hồi sáng, bạt ngàn chuối đang lên xanh mơn mởn. Trái ngược với lòng người đang héo úa.
“Càng nghĩ tui càng thấy như có ai đó đã đeo sẵn vòng kim cô trên đầu mình tự hồi nào rồi”, Mười Trừ nuốt nghẹn.
Cái hồi Luật Đất đai 2024 chuẩn bị ra đời, nông dân tụi tui hy vọng nhiều lắm. Công ty đã giải thể từ lâu, nhiều năm trời lại nay đất là mình canh tác, hy vọng chính quyền xem xét, có phải nộp thêm tiền vào mà được tiếp tục sản xuất cũng là mừng. Vậy mà, trong tất cả các buổi chính quyền mời lên làm việc, họ đều nói quy định của hợp đồng giao khoán là không được sang nhượng, không được chuyển đổi cơ cấu cây trồng…
Họ lấy đó làm cớ để cho rằng người nhận khoán đang vi phạm. Còn vấn đề quan trọng nhất là thời hạn hợp đồng, từ 50 năm vì sao thành 30 năm, chúng tôi lại không hề hay biết.
“Thông báo thu hồi đất của chính quyền giống như câu thần chú vậy”, Mười Trừ thở dài. “Đọc xong, nông dân chỉ mỗi việc đứng lên, phủi tay rời đi mà không hiểu vì sao”.

Cùng thời điểm nông dân Tân Đông đang tá hỏa với những tờ thông báo thu hồi đất thì ở xã Đôn Thuận (thị xã Trảng Bàng), câu chuyện đất đai đang đi đến hồi cuối. Đau đớn nhất là những nông dân đi làm thuê, làm mướn cho các trang trại trồng chuối, theo thời gian giờ đã bén hơi đất Bời Lời, nguyện lấy Bời Lời làm quê hương. Đã từng mang hy vọng có thể gắn bó hết cuộc đời với mảnh đất này.
Giờ đây, hơn ai hết, họ đang gặm nhấm nỗi đau mang tên đất nhà nước.
Trong ngôi nhà cấp 4 tuềnh toàng, bà Nguyễn Thị Kim Huê (SN 1977) rầu rĩ nhìn vườn cao su già cỗi trong vườn nhà, cái nhìn như thể van lạy hàng cây mau ra mủ. Vườn cao su mới trồng hơn chục năm, không hiểu lý do vì sao năm nay cạn mủ. Những vết cạo chằng chịt khắp thân cây nhưng chiếc bát hứng nhựa dưới gốc vẫn khô coong, không có lấy một giọt mủ rơi xuống.
“Năm ngoái còn mót được một ít mủ, cả vườn cao su gần 100 gốc bán được vài ba triệu tiền mủ nhưng năm nay thì chưa được giọt nào”, bà Huê rầu rĩ.

Vườn cao su cằn cỗi này là một trong những nguồn thu chủ yếu của gia đình bà Huê. Gần 20 năm trước, vợ chồng bà tay trắng lên Bời Lời, được Út Huy (ông Võ Quan Huy – chủ trang trại chuối Huy Long An) nhận làm công nhân, lại được xắn cho một góc đất dựng nhà, làm vườn nên mới trồng xen ít cao su để có thêm thu nhập. Cuối năm 2024, chồng bà – ông Nguyễn Sơn Hải – chết vì bạo bệnh, để lại cho bà đứa con gái Nguyễn Thị T.T (sinh năm 2001) bị chất độc da cam, tâm thần, 25 tuổi mà ngô nghê như trẻ lên 10. Mỗi tháng, Nhà nước hỗ trợ T. 540 ngàn đồng – chế độ dành cho người khuyết tật.
Lại thêm nỗi éo le: Dù không được như người bình thường nhưng có đám mai mối, con gái bà Huê cũng có một tấm chồng. Như hiểu được nỗi băn khoăn của chúng tôi về câu chuyện này, bà Huê phân trần: “Cha mẹ nào chả mong con mình một lần được hưởng niềm hạnh phúc của một con người, rồi giời thương cho đứa con thì mai này, vợ chồng tôi có chết đi, nó vẫn có chỗ mà trông dựa…”.
Gạt nước mắt, mua âu lo, ông bà cho đứa con tật nguyền đi lấy chồng, chấp nhận canh bạc, để con mình kiếm được một chỗ dựa…
Ơn giời, T. cũng hạ sinh được một đứa trẻ. Khi đứa nhỏ lên 2 thì bố mẹ chồng chết, thằng chồng ruồng bỏ đứa vợ khuyết tật, hai mẹ con T. lại bồng bế về nhà mẹ đẻ, mang thêm cho chị Huê một gánh nặng: nuôi con tật nguyền, nuôi cháu đỏ hỏn…
Quệt nước mắt, bà Huê vào nhà lục tìm mảnh giấy xác nhận tình trạng khuyết tật của con, có chữ ký của ông Chủ tịch xã Đôn Thuận Bùi Văn Nhung từ năm 2013, đóng cái dấu đỏ chót cho chúng tôi xem làm bằng, cùng cuốn sổ nhật trình các tháng T. nhận tiền trợ cấp, mỗi tháng 540 ngàn đồng. Đấy là “nguồn thu” ổn định nhất của một đứa trẻ tàn tật!
“Giờ chồng tôi chết rồi, cao su cằn cỗi không ra mủ, vườn chuối của Út Huy tới đây nếu bị thu hồi sẽ có rất nhiều người trong đó có tôi mất việc. 3 mẹ con, bà cháu bây giờ chỉ biết trông vào mấy con bò nuôi thả…”, bà Huê ầng ậc nước mắt khi kể câu chuyện.
Người con gái tật nguyền ôm đứa trẻ trong lòng, nhìn mẹ khóc chỉ biết dỗ dành: “Mẹ, mẹ đừng khóc đi mẹ…”.

Nhưng, vẫn chưa hết những ai oán trong câu chuyện của mẹ con bà Huê. Tại ấp Bến Kinh (xã Đôn Thuận), trong số hàng trăm hộ dân sử dụng đất có nguồn gốc từ đất nông trường, khi bị thu hồi họ vẫn được hỗ trợ đền bù, có những hộ còn được tái định cư nơi ở mới. Chỉ duy nhất 2 trường bị thu hồi trắng, éo le thay lại rơi đúng vào gia đình bà Huê và gia đình người anh chồng – ông Nguyễn Chí Trung, nhà sát vách.
Gia đình bà Huê, ông Trung đều làm thuê cho trại chuối, được Út Huy cho mượn đất dựng nhà, làm vườn. Trong vụ án khởi kiện thu hồi đất trồng chuối của Công ty TNHH MTV cao su 30/4 với ông Võ Quan Huy, phần diện tích này nằm trong khu đất tranh chấp nên chịu chung bản án mà TAND 2 cấp ở Tây Ninh tuyên xử.
Trong khi đó, cũng sử dụng đất có nguồn gốc đất nông trường bằng hình thức thuê, mượn, sang nhượng…, cũng cùng thời điểm những năm 1990, khi bị Tây Ninh thu hồi phục vụ dự án Khu liên hợp Công nghiệp Phước Đông – Bời Lời… thì các hộ này lại được nhận đền bù, nhiều hộ được bố trí tái định cư nơi ở mới…, hoặc chí ít cũng được hỗ trợ tài sản trên đất.
Điển hình như trường hợp gia đình ông Lê Văn Nhẫn – bà Châu Thị Mai. Năm 1992, vợ chồng ông Nhẫn xin ông Nguyễn Văn Chí (Chín Chí) khoảnh đất rộng 1.728m2 đất để làm nhà ở và trồng cây, sau đó xây dựng công trình kiên cố, sống trên 30 năm trên thửa đất này.
Tương tự, vợ chồng ông Nguyễn Ngọc Dũng, bà Trần Thị Hương mua 1.026m2 đất của ông Hồ Công Huy (nguồn gốc đất cũng thuộc phần diện tích đất ông Chí thuê của Nông trường). Sau khi Công ty TNHH MTV Cao su 30/4 khởi kiện ông Chí ra tòa đòi lại đất, tại bản án phúc thẩm số 264 ngày 15/9/2006, TAND tỉnh Tây Ninh đã chấp thuận cho các ông bà Lê Văn Nhân – Châu Thị Mai; Nguyễn Ngọc Dũng – Trần Thị Hương được quyền sử dụng đất đối với 2 thửa đất này sau khi thực hiện nghĩa vụ thanh toán một phần không đáng kể tiền sử dụng đất.
Những nghịch lý ấy khiến tôi cảm thấy day dứt suốt thời gian đi tìm nghe câu chuyện về nỗi đau của đất Bời Lời. Như thể trong sự vô lý ấy có lỗi của chính mình. Khi rời khỏi Trảng Bàng, tin nhắn bà Huê đuổi theo chúng tôi ra mãi ngoài Hà Nội: thông báo cưỡng chế, thu hồi đất của Chi cục thi hành án thị xã Trảng Bàng chuẩn bị thực hiện trên mảnh đất của gia đình bà…
“Giờ thêm cả cái phí trả cho đoàn tháo dỡ, cưỡng chế thì mẹ con, bà cháu tôi biết sống làm sao”, hình như bà Huê khóc qua điện thoại.

Gia đình bà Huê, ông Trung cũng từng được nhận quyết định chế độ hỗ trợ tài sản trên đất (gồm nhà cửa, chuồng trại, cây cối hoa màu…) đối với trường hợp bị thu hồi lấy mặt bằng cho Khu liên hiệp Công nghiệp – Đô thị – Dịch vụ Phước Đông – Bời Lời. Ngày 6/6/2024, Thị xã Trảng Bàng ban hành quyết định đền bù, hỗ trợ tài sản trên đất số tiền hơn 417 triệu đồng (đối với gia đình bà Huê); hơn 980 triệu đồng đối với gia đình ông Trung. Ngày 16/7/2024, Trung tâm phát triển quỹ đất Thị xã Trảng Bàng gửi Thông báo cho 2 gia đình lên UBND xã Đôn Thuận nhận tiền hỗ trợ.
Thế nhưng, không hiểu vì lý do gì, cho tới nay, hai hộ dân này vẫn chưa được nhận và cũng không có bất kỳ thông báo giải thích nào từ chính quyền tỉnh Tây Ninh.
Theo giấy mời, 14h ngày 18/7/2024, công dân sẽ lên xã để lãnh tiền, nhưng khoảng 11h trưa ngày hôm đó, một người điện thoại cho bà Huê nói rằng không phải lên xã ký nhận nữa. Từ đó tới nay, chúng tôi cũng không biết số phận gia đình mình như thế nào. “Trong khi đó, Chi cục Thi hành án Thị xã Trảng Bàng vừa gửi Thông báo sẽ tiến hành cưỡng chế, tháo dỡ nhà cửa. Mẹ con, bà cháu tôi còn chưa biết ở đâu, không có tiền sinh sống hằng ngày nói chi đến tiền chi trả cho lực lượng cưỡng chế”, bà Huê tức tưởi.
Cách đó một bờ rào, hoàn cảnh gia đình ông Nguyễn Chí Trung cũng tương tự.
Theo tìm hiểu của PV Báo Nông nghiệp và Môi trường, tại ấp Bến Kinh (xã Đôn Thuận, thị xã Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh), giai đoạn 3 của dự án Khu liên hợp Công nghiệp – Đô thị – Dịch vụ Phước Đông – Bời Lời có hàng trăm hộ dân bị thu hồi đất; nguồn gốc đất bị thu hồi cũng là đất Nông trường Cao su Bời Lời, thời điểm sử dụng đất cũng giống nhau (giai đoạn đầu những năm 1990) nhưng vẫn được nhận tiền đền bù đất, tài sản, hoa màu trên đất; nhiều hộ còn được bố trí tái định cư.
Vì sao cùng một tính chất như nhau lại có những trường hợp bị thu hồi trắng, không xem xét đền bù, hoặc đã có phương án đền bù, hỗ trợ một phần (tài sản trên đất) nhưng cuối cùng lại bị bỏ lửng như trường hợp của hộ dân Nguyễn Thị Kim Huê, Nguyễn Chí Trung?
Câu hỏi này, rõ ràng Tây Ninh cần có câu trả lời thấu đáo!!!

Trong những câu chuyện rất dài về đất nông trường cao su 30/4, cao su 1/5 ở Tây Ninh, từ Đôn Thuận (thị xã Trảng Bàng) cho tới Tân Đông, Suối Dây (huyện Tân Thuận), chúng tôi gặp rất nhiều gương mặt, nghe nhắc tới nhiều cái tên bởi có nhiều người đến nay đã không còn có mặt trên cuộc đời này…
Những câu chuyện, những nỗi niềm, những hoang mang, khắc khoải của những người làm thật, sống chết với đất từ những thuở ban đầu. Đến một ngày, họ bẽ bàng trở thành bị đơn trong những vụ kiện đòi lại “đất nhà nước”, và kéo dài, dai dẳng suốt gần 20 năm qua.

Ông Phạm Văn Thơ (Hai Thơ), 75 tuổi, xã An Tịnh, thị xã Trảng Bàng, là một trong những người đầu tiên có mặt tại Nông trường Quốc doanh Bời Lời (đơn vị được thành lập từ thập niên những năm 1970 về trước).
“Sau tất cả, tụi tui đều mắc vào cái vòng luẩn quẩn thu hồi đất, không có tư liệu sản xuất. Mấy chục năm vật lộn vất vả, sau rồi phủi quần, vỗ tay một cái ra đi”, lão nông Hai Thơ chép miệng.
Giai đoạn những năm 1980, Nông trường Bời Lời do ông Nguyễn Văn Lũy (Sáu Lũy) làm giám đốc, đất đai mênh mông mà không có người khai khẩn, không có lực đầu tư. Sáu Lũy kêu gọi những người có “máu liều”, có đam mê nông nghiệp về khai khẩn, canh tác. Lớp đầu có Hai Thơ, Hai Phủ (ông Võ Quốc Phủ, nay đã mất)… Sau giám đốc Sáu Luỹ, tới thời ông Hà Minh Đỏ làm giám đốc, đất vẫn hoang vu, lứa Út Huy, Chín Chí… là lớp thứ 2.
Trồng mía một thời gian không hiệu quả vì không có đầu ra, không có nhà máy chế biến. Mía đường bên Thái Lan năng suất gấp 3 mía mình trong khi giá thành chỉ bằng 1/3, sao cạnh tranh được. Cây mía lụi. Vậy là chuyển sang trồng chuối, trồng mì… để có thu nhập, có tiền nuôi đất.
Khi Tây Ninh triển khai dự án xây dựng Khu di tích lịch sử Bời Lời, vùng đất canh tác 60ha của ông Hai Thơ nằm trong dự án, bị thu hồi toàn bộ. “Công trình trọng điểm có ý nghĩa lịch sử của tỉnh nên tui chấp thuận chủ trương, bàn giao trả đất cho chính quyền không được một cắc hỗ trợ công sức san ủi, cải tạo đất, chỉ được khoản hỗ trợ đền bù tài sản, cây cối trên đất đâu đó gần 1 tỷ đồng.
Người nông dân yêu đất, yêu lao động, ngưng tay là không chịu được. Tui mang số tiền đó qua Campuchia mướn đất tiếp tục trồng chuối, trồng mì, làm được mấy vụ thì xảy ra dịch Covid, lại bỏ dở về tránh dịch. Rẫy bỏ không, không người trông coi, chăm sóc. Hết dịch trở lại, cả khu rẫy tan hoang bởi dân địa phương thả trâu bò vào phá hết. Thế là lại trắng tay, lại vỗ tay một cái rồi về”.
Chặng hành trình dài, mệt mỏi, lão nông Hai Thơ chỉ gói gọn trong bốn từ “vỗ tay rồi về” mà nghe nặng hơn cả tảng núi.

Xác nhận câu chuyện của Hai Thơ, ông Nguyễn Văn Đớt (65 tuổi), cán bộ kỹ thuật thế hệ đầu tiên của Nông trường Quốc doanh Bời Lời, nay đã nghỉ hưu, chia sẻ: Khi thành lập nông trường, mục tiêu là trồng cây cao su làm kinh tế nhưng khi đó, thứ mà nông trường sẵn nhất đó là đất, còn lại cái gì cũng thiếu: nhân lực, vật lực, nguồn nước… Do đó, khi cá nhân nào có ý định mướn đất để khai khẩn, canh tác, diện tích bao nhiêu cũng được chấp thuận. Bởi nhẽ, khi dự án cao su đổ bể, nông trường chuyển qua trồng điều. Cây điều là cây dễ trồng, dễ sống nhất mà cũng không chịu được, thế là bỏ đất hoang.
Nhiều năm, Nông trường cầm cự bằng tiền cho các hộ cá nhân thuê đất trồng mía, có những bữa cuối năm, anh Sáu Lũy phải đôn đáo chạy vạy, mượn tiền, vàng… của người thuê khoán đất mới có tiền trả lương, trả Tết cho cán bộ, công nhân. Nếu không linh động cho thuê đất trong thời gian đó, chắc chắn không có bộ mặt đất đai canh tác quy củ như ngày nay, mà cũng không chắc có giữ được đất bởi người ta vào khai phá, lấn chiếm tự phát…
Cùng câu chuyện của ông Hai Thơ, ông Nguyễn Văn Chí (Chín Chí) cũng ký hợp đồng thuê 6,4ha đất Nông trường Cao su Bời Lời từ tháng 9/1992 để sản xuất nông nghiệp. Quá trình sử dụng đất, Chín Chí đã khai phá, mở rộng thêm hơn 3ha nên thực tế sử dụng gần 10ha. Sau đó, ông cũng bị Công ty TNHH MTV Cao su 30/4 khởi kiện ra tòa thu hồi đất mà không đền bù, hỗ trợ. Hơn 20 năm, ông Chí kiên trì thưa kiện, kháng cáo… và đề đạt nguyện vọng xin tiếp tục được thuê để trồng mì, trồng chuối…, ngổn ngang đến tận bây giờ.
Những người như Hai Thơ, Chín Chí… là những người làm ăn quy củ, làm lớn, làm lâu dài.
Không riêng các hộ cá thể sử dụng đất nông trường cao su làm nhà ở, những người làm ăn lớn, quy củ, có hợp đồng thuê đất vài chục ha trở lên, khi bị thu hồi cũng vẫn được nhận đền bù, hỗ trợ công sức khai phá từ đó làm gia tăng giá trị đất đai ở Bời Lời.

Theo tài liệu chúng tôi thu thập, xác minh được cho thấy, gia đình bà Trần Thị Lài (vợ của ông Võ Quốc Phủ (Hai Phủ), người đầu tiên thuê đất nông trường cao su Bời Lời từ giai đoạn những năm đầu 1990 để làm nông nghiệp trồng mía, chuối, mì, nay ông Hai Phủ đã mất) – đang sử dụng phần diện tích gần 59ha tại Đôn Thuận, trong đó phần diện tích tự khai phá là hơn 18,8ha.
Năm 2018, khi Tây Ninh triển khai dự án Khu công nghiệp Phước Đông – Bời Lời (giai đoạn 1), chủ đầu tư đã thỏa thuận đền bù, hỗ trợ cho gia đình bà đối với phần diện tích 34,5ha (Biên bản thỏa thuận ngày 10/9/2018); tiếp đó, ngày 4/11/2021, tiếp tục thống nhất thỏa thuận nhận đền bù đối với phần diện tích 4ha, đơn giá 300 triệu đồng/ha.
Mới đây nhất, ông Võ Quốc Quân (con trai ông Hai Phủ) cho biết, gia đình đã bàn giao toàn bộ đất nông nghiệp (theo HĐ thuê đất với Công ty cao su Bời Lời), thống nhất phương án hỗ trợ 300 triệu đồng/ha.
Vì sao có sự khác biệt đối với các hợp đồng cùng thuê đất nông trường, cùng cải tạo, khai khẩn, cùng bị thu hồi để phục vụ dự án khu công nghiệp… nhưng có hộ được hỗ trợ, đền bù như gia đình ông Hai Phủ, bà Phạm Thị Lài, nhưng lại có nhiều trường hợp thu hồi trắng, không đền bù như các ông Hai Thơ, Chín Chí, Út Huy? Sự khác biệt này có lẽ cũng thêm nguồn cơn khiến câu chuyện đất nông trường Bời Lời thêm dai dẳng.
Rốt cuộc, những nông dân mất đất bị gián đoạn công cuộc đầu tư sản xuất nông nghiệp; dự án khu công nghiệp – niềm hy vọng của tỉnh Tây Ninh nhằm tạo cú hích đột phá để phát triển, thu hút đầu tư bị chậm tiến độ; chính quyền, các cơ quan tố tụng, người dân liên quan dai dẳng trong cuộc hành trình giải quyết câu chuyện đất đai theo con đường tố tụng…
Để giải quyết dứt điểm câu chuyện kéo dài nhiều năm và hài hòa lợi ích các bên, rõ ràng Tây Ninh cần có một đường hướng phù hợp hơn thay vì con đường tố tụng!
(Còn nữa)
Nội dung: Hoàng Anh – Kiên Trung – Minh Sáng
Thiết kế: Tiến Thành
***


Xuyên suốt câu chuyện đất nông trường ở Tây Ninh, pháp nhân giữ vai trò chủ đất đều là các công ty TNHH MTV vừa được thành lập mới. Tại Trảng Bàng, nguyên đơn khởi kiện ra tòa đòi lại đất nông trường cao su Bời Lời khi xưa là Công ty TNHH MTV 30-4 Tây Ninh. Tại Tân Châu, Công ty TNHH MTV Cao su 1-5 Tây Ninh là chủ đất đang quản lý hàng ngàn ha đất nông nghiệp.
Tuy nhiên, hợp đồng thuê đất nông nghiệp hay hợp đồng liên doanh liên kết trồng cây cao su của nhiều hộ nông dân lại được ký kết với các nông trường, xí nghiệp…


Đầu những năm 1990, các ông Võ Văn Phủ (Hai Phủ), Phạm Văn Thơ (Hai Thơ), Nguyễn Văn Chí (Chín Chí); Võ Quan Huy (Út Huy)… ký hợp đồng thuê đất nông trường cao su Bời Lời do ông Hà Minh Đỏ (Hai Đỏ) làm giám đốc; Lý Thành Sâm giữ vai trò kế toán trưởng.
Riêng diện tích thuê đất của 4 cá nhân này trên hợp đồng lên tới gần 200ha. Đi ngược lịch sử sẽ thấy được vai trò, pháp lý của các đơn vị nông – lâm trường một thời đại diện Nhà nước đứng ra quản lý đất đai và hiệu quả sử dụng đất của họ không được như kỳ vọng.

Như vậy, có thể hiểu, Công ty Cao su 30-4 Tây Ninh (sau đó là Công ty TNHH MTV Cao su Tây Ninh) và Nông trường Bời Lời là hai pháp nhân độc lập. Tòa án Nhân dân 2 cấp của tỉnh Tây Ninh trong các phiên xét xử chưa có nội dung nào thể hiện, làm rõ diện tích đất đai của Nông trường Bời Lời được chuyển giao cho công ty Cao su quản lý hay không, và chuyển giao thời điểm nào?
Trong trường hợp chuyển giao đất (từ Nông trường Bời Lời sang Công ty Cao su) – pháp nhân mới quản lý, cần thực hiện bước thu hồi, thanh lý các hợp đồng mà Nông trường Bời Lời đã ký với các cá nhân cho thuê đất, từ đó ký tiếp hoặc chấm dứt tính pháp lý của những hợp đồng này.

Từ đơn khởi kiện lần thứ 3 của Công ty TNHH MTV Cao su 30-4 Tây Ninh, tại Bản án sơ thẩm số 120 ngày 19/10/2022, Tòa án Nhân dân thị xã Trảng Bàng chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Ông Võ Quan Huy kháng cáo toàn bộ Bản án. Ngoài ra, ông Huy có Đơn đề nghị thu thập chứng cứ yêu cầu Toà án thu thập chứng cứ liên quan đến pháp lý của Nông trường Cao su Bời Lời trước năm 1992 vì không thể tự mình thu thập được. Tuy nhiên, khi Đơn đề nghị của ông Huy chưa được trả lời, ngày 13/10/2022, vụ án vẫn được đưa ra xét xử.
Luật sư Trương Thị Minh Thơ (từng giữ vai trò Thẩm phán Tòa án Nhân dân Tối cao tại TP. Hồ Chí Minh, nay đã nghỉ hưu, bào chữa cho ông Võ Quan Huy) phân tích: Công ty Cao su 30-4 Tây Ninh cũng như Nông trường Bời Lời không có quyền cho thuê đất.
Dẫn chứng lập luận, bà Thơ cho rằng, thời điểm Luật Đất đai 1987 có hiệu lực, tại Điều 1: “Nhà nước giao đất cho các nông trường, lâm trường, hợp tác xã, tập đoàn sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, xí nghiệp, đơn vị vũ trang nhân dân, cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và cá nhân để sử dụng ổn định, lâu dài”; Điều 49 quy định: người sử dụng đất không có quyền cho thuê lại phần đất Nhà nước đã giao.
Khi Luật Đất đai 1993 có hiệu lực (ngày 1/1/1993), Điều 1, Điều 30 quy định: trường hợp được Nhà nước giao đất không được chuyển quyền sử dụng đất; Đất giao cho các tổ chức mà pháp luật quy định không được chuyển quyền sử dụng”; tại Điều 4 Pháp lệnh số 37-PL/CTN (ngày 25/10/1994) quy định: Doanh nghiệp Nhà nước được Nhà nước giao đất để sử dụng vào mục đích nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản, làm muối không có quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê quyền sử dụng đất.
Cho đến ngày 13/4/1999, Nghị định 17/1999 có hiệu lực, tại khoản 2 Điều 19 mới quy định việc tổ chức kinh tế được cho thuê lại đất: “Tổ chức kinh tế được cho thuê lại quyền sử dụng đất khi có các điều kiện sau đây: Đất do Nhà nước cho thuê mà đã trả tiền thuê đất cho cả thời gian thuê hoặc đã trả trước tiền thuê đất cho nhiều năm mà thời hạn thuê đất đã được trả tiền còn lại ít nhất là 05 năm; Đất cho thuê lại đã có đầu tư theo dự án”.

Luật sư Thơ cũng cho rằng, chưa chứng minh được Nông trường Bời Lời được thành lập vào thời điểm nào nên không xác định được Nông trường Bời Lời có tư cách pháp nhân để cho ông Huy thuê đất hay không. Nếu Nông trường Bời Lời có tư cách pháp nhân thì cũng không có quyền cho ông Huy thuê lại đất. Do đó, các Hợp đồng kinh tế Nông trường Bời Lời cho các hộ dân thuê đất đều không có giá trị pháp lý.
Đối với diện tích đất này, ông Huy đã thực hiện việc đóng thuế đầy đủ cho Nhà nước. Đến năm 2007, Công ty TNHH MTV Cao su 30-4 Tây Ninh khởi kiện đòi đất thì ông Huy mới ngừng đóng thuế. Ông Huy đã quản lý, sử dụng, canh tác trước ngày 15/10/1993, căn cứ Điều 101 Luật Đất đai 2013 thì quyền, lợi ích hợp pháp của ông Huy cần được đảm bảo.
Trường hợp Nông trường Bời Lời có quyền cho thuê lại đất: Các pháp nhân Công ty Cao su 30-4 Tây Ninh và Công ty TNHH MTV Cao su 30-4 Tây Ninh, Nông trường Bời Lời là các chủ thể độc lập. Việc ông Huy chỉ giao dịch với Nông trường Bời Lời do đó không liên quan tới 2 pháp nhân còn lại (Công ty Cao su 30-4 Tây Ninh, sau này là Công ty TNHH MTV Cao su Tây Ninh).
Sau khi Nông trường Bời Lời không hoạt động nữa, ông Huy cũng không nhận được thông báo gì liên quan đến việc chuyển giao quyền nghĩa vụ của Nông trường Bời Lời cho bất cứ một chủ thể nào khác. Nguyên đơn cho rằng được kế thừa quyền nghĩa vụ của Nông trường Bời Lời để đòi lại đất là không có cơ sở.
Theo tài liệu Luật sư Trương Thị Minh Thơ thu thập: ngày 13/1/1997, UBND tỉnh Tây Ninh ban hành Quyết định số 417 có nội dung sáp nhập Nông trường cao su Bời Lời vào Công ty Cao su 30-4 Tây Ninh. Tuy nhiên, sau khi sáp nhập, Nông trường Bời Lời vẫn tồn tại và hoạt động song song với Công ty Cao su 30-4 Tây Ninh.
Về việc Văn phòng Tỉnh ủy Tây Ninh ra Quyết định số 90 (ngày 13/5/2004) chuyển đổi Công ty Cao su 30-4 Tây Ninh thành Công ty TNHH MTV Cao su 30-4 Tây Ninh, dù đã áp dụng Nghị định 63/2001 nhưng theo luật sư Thơ vẫn là trái pháp luật.
Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 2, khoản 1 Điều 10, điểm a khoản 1 Điều 5 Nghị định 63/2001, Chủ tịch UBND tỉnh Tây Ninh là người có thẩm quyền quyết định danh sách và kế hoạch chuyển đổi và là người có thẩm quyền ký Quyết định chuyển đổi đối với Công ty Cao su 30-4 Tây Ninh. UBND tỉnh Tây Ninh là đại diện chủ sở hữu của Công ty sau khi được chuyển đổi.
Công ty Cao su 30-4 Tây Ninh do UBND tỉnh thành lập không liên quan đến Tỉnh ủy Tây Ninh. Việc Văn phòng Tỉnh ủy Tây Ninh ra quyết định số 90 chuyển đổi Công ty Cao su 30-4 Tây Ninh thành Công ty TNHH MTV Cao su 30-4 Tây Ninh do đó không có giá trị pháp lý.
Luật Đất đai cũng không có quy định nào cho phép Tỉnh ủy, Thành ủy là cơ quan có quyền quản lý về đất đai. Văn phòng Tỉnh ủy Tây Ninh chỉ là một bộ phận nằm trong Tỉnh ủy ra quyết định chuyển đổi Công ty Cao su 30-4 Tây Ninh thành Công ty TNHH MTV Cao su 30-4 Tây Ninh là lạm quyền, vi phạm pháp luật nghiêm trọng, vi phạm Hiến pháp 1992, Luật Đất đai 2003, và Nghị định 63/2001.
Trong khi đó, khi Công ty TNHH MTV Cao su 30-4 Tây Ninh ra đời, Công ty Cao su 30-4 Tây Ninh vẫn tồn tại và hoạt động song song với Công ty TNHH MTV Cao su 30-4 Tây Ninh đến năm 2008 mới đóng mã số thuế, chấm dứt hoạt động.

Ngày 21/5/2010, Tòa án Nhân dân Tối cao ra Quyết định giám đốc thẩm số 217 về vụ án Đòi lại quyền sử dụng đất giữa nguyên đơn là Công ty TNHH MTV cao su 30-4 Tây Ninh, bị đơn là ông Võ Quan Huy.
Hội đồng Giám đốc thẩm yêu cầu hủy bản án dân sự phúc thẩm và hủy bản án dân sự sơ thẩm để thu thập, xác minh diện tích đất ông Huy đang sử dụng là bao nhiêu (tăng hay giảm so với diện tích đất thuê). Nếu diện tích đất tăng thì cần xác minh, làm rõ về diện tích đất tăng (do khai mở thêm hay khi giao đất không đo đạc cụ thể) để có cơ sở giải quyết theo quy định của pháp luật.
Sau khi Tòa Tối cao có Quyết định Giám đốc thẩm, Tòa án Nhân dân thị xã Trảng Bàng đã mở phiên xét xử (ngày 19/10/2022) buộc các bị đơn tháo dỡ, di dời tài sản trên đất, trả lại cho Công ty cao su 30-4; Tòa án Nhân dân tỉnh Tây Ninh xét xử phúc thẩm (ngày 22/3/2023) không chấp nhận kháng cáo của ông Võ Quan Huy, giữ nguyên bản án sơ thẩm của Tòa án Nhân dân Thị xã Trảng Bàng đã tuyên.
Các bị đơn tiếp tục có đơn đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm. Tại Quyết định số 313 ngày 14/11/2023, Viện Kiểm sát Nhân dân tối cao nhận định: “Diện tích đất thuê hiện do ông Huy sử dụng, hợp đồng thuê đất chưa được giải quyết đúng pháp luật và các tài sản trên đất của ông Huy tại thời điểm tranh chấp có giá trị lớn nhưng UBND các cấp ra nhiều quyết định thu hồi là không đúng pháp luật… Bản án của tòa Trảng Bàng và Tây Ninh quyết định bị đơn và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có nghĩa vụ đập bỏ, tháo dỡ, di dời cây trồng và các loại tài sản khác gây thiệt hại cho đương sự.
Chính vì vậy, Viện Kiểm sát Nhân dân tối cao quyết định Kháng nghị đối với bản án phúc thẩm số 109 ngày 22/3/2023 của Tòa án Nhân dân tỉnh Tây Ninh theo thủ tục giám đốc thẩm; đề nghị Ủy ban Thẩm phán Tòa án Nhân dân cấp cao tại TP. Hồ Chí Minh xét xử giám đốc thẩm; hủy toàn bộ Bản án phúc thẩm số 109 và Bản án số 120; tạm đình chỉ thi hành Bản án số 109 của Tòa án Nhân dân tỉnh Tây Ninh cho tới khi có Quyết định giám đốc thẩm.

Ông Võ Quan Huy cho biết: Sau khi có Quyết định Kháng nghị bản án, tôi đã làm đơn trình bày nguyện vọng kết thúc vụ kiện Bời Lời gửi Thường trực Tỉnh ủy Tây Ninh nhưng không được xem xét.
Trong đơn, tôi nêu rõ: Tôi sẵn sàng giao đất thực hiện dự án bất cứ lúc nào dự án cần triển khai, chỉ xin thương lượng được Nhà nước đền bù tài sản trên đất và hỗ trợ của nhà đầu tư cho công bằng như bao nhiêu người dân khác trong vùng dự án. Tôi vẫn miệt mài chờ đợi, hằng ngày vẫn tạo ra công ăn việc làm cho hơn 300 lao động địa phương tại 2 vườn chuối Bời Lời (xã Đôn Thuận) và Tân Đông (xã Tân Đông).
Tuy nhiên, trong lúc ông Huy mong muốn thỏa thuận với tỉnh tây Ninh để “kết thúc vụ Bời Lời” thì tháng 2 và tháng 3 năm 2025, Viện Kiểm sát Nhân dân cấp cao tại TP. Hồ Chí Minh bất ngờ ra 2 Quyết định rút toàn bộ Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm.
Lý do rút Kháng nghị được nêu trong quyết định gửi đến đương sự: Để phục vụ tình hình chính trị tại địa phương, bảo đảm dự án Khu liên hợp Công nghiệp – Đô thị – Dịch vụ Phước Đông – Bời Lời thực hiện đúng tiến độ nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế trên địa bàn tỉnh Tây Ninh.
Điều đó có nghĩa, Bản án thẩm 109/2023 DS-PT ngày 22/3/2023 của Tòa án Nhân dân tỉnh Tây Ninh mặc dù “gây thiệt hại cho đương sự” như nhận định của Viện Kiểm sát Nhân dân cấp cao tại TP. Hồ Chí Minh, nhưng vẫn tiếp tục có hiệu lực.
Hiện cơ quan thi hành án đang gấp rút tổ chức thực hiện di dời trang trại chuối. Vì vậy, ông Võ Quan Huy tiếp tục khiếu nại lên lãnh đạo Trung ương.
Trong khi đó, tại huyện biên giới Tân Châu, trong số hơn 2.520ha đất của Công ty Cao su 1-5 Tây Ninh quản lý có khoảng 2.069ha là diện tích giao khoán, cho mượn theo hợp đồng. Đến thời điểm rà soát vẫn còn hơn 1.853ha của 263 hợp đồng các loại chưa thu hồi. Bà Mai Thị Kim Thanh, Phó Trưởng phòng Nông nghiệp và Môi trường huyện Tân Châu, thừa nhận, sau khi tỉnh thu hồi đất có nhiều người dân gửi đơn thư đến huyện, đơn kiện ra tòa nhưng đều bị bác hết.

Trao đổi với PV Báo Nông nghiệp và Môi trường, ông Nguyễn Đình Xuân (Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường Tây Ninh) cho biết: Quá trình phát triển của tỉnh Tây Ninh trong giai đoạn hòa bình lập lại, đất đai bị hoang hóa rất nhiều. Bom mìn, chất độc da cam, đường sá đi lại khó khăn, hệ thống thủy lợi không có, điện cũng không có, phương tiện khai thác cày bừa cũng hết sức hạn chế.
Giai đoạn đó, Đảng và Nhà nước có chủ trương di dân đi làm kinh tế mới, kêu gọi doanh nghiệp đầu tư, mở ra các nông lâm trường quốc doanh, khai thác quỹ đất đưa vào sản xuất. Tuy nhiên, trong giai đoạn phát triển kinh tế thị trường đến nay, kinh tế nông lâm trường kiểu cũ bộc lộ rất nhiều hạn chế. Hiệu quả sản xuất của các công ty so với vốn Nhà nước bỏ ra bao nhiêu năm qua không tương xứng. Chưa kể để xảy ra một số vấn đề về tiêu cực. Quản lý đất đai không tốt, cho mượn, cho thuê, bị lấn chiếm, bị tranh chấp…
Chính vì vậy, Đảng và Nhà nước đã có những chỉ đạo chấn chỉnh, thay đổi cách làm.
Tinh thần Nghị quyết số 30-NQ/TW ngày 12/3/2014 của Bộ Chính trị và các Chỉ thị, văn bản chỉ đạo về cơ bản phải đưa đất đai vào sử dụng đúng theo quy định của pháp luật. Đất của Nhà nước giao phải được sử dụng đúng, khai thác đúng, phát huy được vai trò của đất. Không được lấn chiếm, cho thuê, cho mượn, hưởng chênh lệch địa tô bất hợp pháp.

Trả lời câu hỏi địa phương làm gì với đất trả lại, ông Nguyễn Đình Xuân cho biết: Phần lớn đất trả về các địa phương đang có 1 ông chủ trên đấy. Có thể là lấn chiếm, cho mượn, cho thuê; có thể hợp pháp, hợp pháp 1 phần hoặc không hợp pháp. Đất giao về địa phương có trách nhiệm xây dựng phương án sử dụng, tuy nhiên phần lớn còn lúng túng.
Một số đất diện tích lớn, tương đối tập trung thì địa phương thu hồi sau đó kêu gọi đầu tư. Để có được những cánh đồng mẫu lớn, có những nông trường mới, công nghệ cao, hoặc đầu tư vào phát triển chăn nuôi, làm giống… nhằm nâng cao giá trị, hiệu quả đất tăng lên.
Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường Tây Ninh cũng giải thích, đối với các trường hợp muốn được giao đất (sau khi tỉnh thu hồi bàn giao về cho địa phương quản lý) phải đang không có đất, có nhu cầu trực tiếp sản xuất và phải tuân thủ pháp luật đất đai, thực hiện đủ nghĩa vụ tài chính…
“Có nhiều khó khăn nên trong thời gian qua Tây Ninh khá thận trọng, hạn chế giao đất cho các tổ chức. Khi thu hồi, người dân muốn tiếp tục làm, một số hộ dân khiếu nại, yêu cầu bồi thường công khai phá, tài sản trên đất của họ”, ông Nguyễn Đình Xuân nói.
Về trường hợp cụ thể của ông Võ Quan Huy mà chúng tôi đề cập, ông Nguyễn Đình Xuân nói ông tôn trọng phán quyết của tòa.
(Còn nữa)
Nội dung: Hoàng Anh – Kiên Trung – Minh Sáng
Thiết kế: Tiến Thành
***
Thứ Ba 13/05/2025 , 21:37 (GMT+7)
Tâm nguyện cuối cùng ở Bời Lời của ‘vua chuối’ Võ Quan Huy
Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Trảng Bàng buộc ông Võ Quan Huy phải trả lại quyền sử dụng đất, di dời tài sản và hơn 100.000 cây chuối trên đất.
Chiều 13/5, thông tin đến Báo Nông nghiệp và Môi trường, “vua chuối” Võ Quan Huy (Út Huy) cho biết: Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Trảng Bàng (tỉnh Tây Ninh) vừa trao quyết định về việc cưỡng chế chuyển giao quyền sử dụng đất, buộc ông Huy phải trả lại quyền sử dụng đất cho Công ty TNHH MTV 30/4 Tây Ninh hơn 58,4ha.

“Vua chuối” Võ Quan Huy. Ảnh: Kiên Trung.
Đây là diện tích ông Võ Quan Huy đang trồng chuối ở xã Đôn Thuận, thị xã Trảng Bàng. Ngoài việc cưỡng chế chuyển giao quyền sử dụng đất, cơ quan thi hành án buộc ông Út Huy phải có nhiệm vụ đập bỏ, tháo dỡ, cắt bỏ, thu dọn, di dời tất cả các tài sản trên đất như hệ thống nhà xưởng, bể nước, hệ thống cáp thu hoạch… và hơn 100.000 cây chuối trên đất.
Trong biên bản thi hành án được hai bên ký vào chiều 13/5, ông Út Huy tiếp tục nêu ý kiến: Xin được tiếp tục canh tác, thu hoạch chuối cho đến khi dự án Khu liên hiệp Công nghiệp đô thị dịch vụ Phước Đông – Bời Lời sử dụng diện tích đất này để phát triển dự án.
“Diện tích chuối đang ở thời điểm thu hoạch, nếu buộc phải phá bỏ ngay sẽ rất lãng phí. Chính vì vậy nguyện vọng của gia đình là nếu dự án phát triển nhanh thì đến ngày 30/6/2025 gia đình tôi sẽ trả đất. Còn nếu dự án vẫn chưa cần đất để thực hiện thì để gia đình tôi xin được tiếp tục được canh tác”, ông Võ Quan Huy đề xuất.
Trước đó, như Báo Nông nghiệp và Môi trường đã phản ánh: Từ năm 1992 và 1993 ông Võ Quan Huy thuê đất của Nông trường Bời Lời trồng mía, sau đó gầy dựng thành trang trại chuối rộng gần 88ha ở xã Đôn Thuận, thị xã Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh.
Sau đó Nông trường Bời Lời giải thể. Đến năm 2007, Công ty TNHH MTV Cao su 30/4 Tây Ninh khởi kiện ông Võ Quan Huy tại Tòa án Nhân dân huyện Trảng Bàng. Bản án sơ thẩm số 35 ngày 24/4/2008 của Tòa án Nhân dân huyện Trảng Bàng chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty TNHH MTV Cao su 30/4 Tây Ninh.
Ông Võ Quan Huy kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm trên. Bản án phúc thẩm số 354 ngày 31/10/2008 của Tòa án Nhân dân tỉnh Tây Ninh giữ nguyên quyết định của Bản án sơ thẩm.
Không đồng ý với kết quả của các bản án sơ thẩm và phúc thẩm, ngày 5/5/2009, ông Võ Quan Huy khiếu nại lên Viện Kiểm sát và Tòa án Nhân dân cấp cao tại TP. Hồ Chí Minh đề nghị xem xét lại theo thủ tục Giám đốc thẩm.
Trong khi chờ cơ quan Viện Kiểm sát và Tòa án Nhân dân Tối cao xem xét lại theo thủ tục Giám đốc thẩm, ngày 30/9/2009, UBND tỉnh Tây Ninh đã ban hành Quyết định 2027 thu hồi hơn 510ha để thực hiện dự án Khu liên hợp Công nghiệp – Đô thị – Dịch vụ Phước Đông – Bời Lời, xác định đất thu hồi diện tích đất trên thuộc quyền sử dụng của Công ty TNHH MTV Cao su 30/4 Tây Ninh.
Ngày 21/5/2010, Tòa án Nhân dân Tối cao ban hành Quyết định giám đốc thẩm số 217 hủy toàn bộ 2 bản án sơ thẩm và phúc thẩm để giải quyết lại từ đầu theo thủ tục tố tụng. Hội đồng Giám đốc thẩm yêu cầu thu thập, xác minh diện tích đất ông Huy đang sử dụng là bao nhiêu (tăng hay giảm so với diện tích đất thuê). Nếu diện tích đất tăng thì cần xác minh, làm rõ về diện tích đất tăng (do khai mở thêm hay khi giao đất không đo đạc cụ thể) để có cơ sở giải quyết theo quy định của pháp luật.
Ngày 4/9/2018, một lần nữa, Công ty TNHH MTV Cao su 30/4 Tây Ninh tiếp tục làm đơn khởi kiện ông Võ Quan Huy lần 2. Ngày 18/5/2020, Tòa án Nhân dân thị xã Trảng Bàng ra quyết định đình chỉ vụ án do người khởi kiện chưa đủ điều kiện khởi kiện.
Ngày 21/9/2021, Công ty TNHH MTV Cao su 30/4 Tây Ninh tiếp tục làm Đơn khởi kiện lần thứ 3, yêu cầu ông Huy trả lại toàn bộ diện tích đất hơn 53ha (thuộc tờ bản đồ số 17 tọa lạc tại ấp Bến Kinh, xã Đôn Thuận, thị xã Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh); Tự thanh lý tài sản trên đất, di dời tài sản khỏi đất và trả lại đất, không bồi thường tài sản trên đất; Nộp tiền thuê đất cho công ty từ ngày 1/1/2009 đến ngày 31/12/2020 với số tiền hơn 2 tỷ đồng.
Từ đơn khởi kiện lần thứ 3 của Công ty TNHH MTV Cao su 30/4 Tây Ninh, tại Bản án sơ thẩm số 120 ngày 19/10/2022, Tòa án Nhân dân thị xã Trảng Bàng chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Tòa án Nhân dân thị xã Trảng Bàng buộc các bị đơn tháo dỡ, di dời tài sản trên đất, trả lại cho Công ty cao su 30/4. Ông Võ Quan Huy tiếp tục kháng cáo. Tuy nhiên, Tòa án Nhân dân tỉnh Tây Ninh xét xử phúc thẩm (ngày 22/3/2023) không chấp nhận kháng cáo của ông Võ Quan Huy, giữ nguyên bản án sơ thẩm của Tòa án Nhân dân thị xã Trảng Bàng đã tuyên.
Bị đơn tiếp tục có đơn đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm. Tại Quyết định số 313 ngày 14/11/2023, Viện Kiểm sát Nhân dân tối cao nhận định: “Diện tích đất thuê hiện do ông Huy sử dụng, hợp đồng thuê đất chưa được giải quyết đúng pháp luật và các tài sản trên đất của ông Huy tại thời điểm tranh chấp có giá trị lớn nhưng UBND các cấp ra nhiều quyết định thu hồi là không đúng pháp luật… Bản án của tòa Trảng Bàng và Tây Ninh quyết định bị đơn và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có nghĩa vụ đập bỏ, tháo dỡ, di dời cây trồng và các loại tài sản khác gây thiệt hại cho đương sự.
Chính vì vậy Viện Kiểm sát Nhân dân tối cao quyết định Kháng nghị đối với bản án phúc thẩm số 109 ngày 22/3/2023 của Tòa án Nhân dân tỉnh Tây Ninh theo thủ tục giám đốc thẩm; đề nghị Ủy ban Thẩm phán Tòa án Nhân dân cấp cao tại TP.Hồ Chí Minh xét xử giám đốc thẩm; hủy toàn bộ Bản án phúc thẩm số 109 và Bản án số 120; tạm đình chỉ thi hành Bản án số 109 của Tòa án Nhân dân tỉnh Tây Ninh cho tới khi có quyết định giám đốc thẩm.

Trang trại chuối triệu đô của ông Võ Quan Huy. Ảnh: Hoàng Anh.
Ông Võ Quan Huy cho biết: Sau khi có quyết định kháng nghị bản án, tôi đã làm đơn trình bày nguyện vọng kết thúc vụ kiện Bời Lời gửi Thường trực Tỉnh ủy Tây Ninh nhưng không được xem xét.
Trong lúc ông Huy mong muốn thỏa thuận với tỉnh Tây Ninh để “kết thúc vụ Bời Lời” thì tháng 2 và tháng 3 năm 2025, Viện Kiểm sát Nhân dân cấp cao tại TP. Hồ Chí Minh bất ngờ ra 2 quyết định rút toàn bộ quyết định kháng nghị giám đốc thẩm.
Lý do rút kháng nghị được nêu trong quyết định gửi đến đương sự: Để phục vụ tình hình chính trị tại địa phương, bảo đảm dự án Khu liên hợp Công nghiệp đô thị dịch vụ Phước Đông – Bời Lời thực hiện đúng tiến độ nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế trên địa bàn tỉnh Tây Ninh.
Điều đó có nghĩa Bản án thẩm 109/2023 DS-PT ngày 22/3/2023 của Tòa án Nhân dân tỉnh Tây Ninh mặc dù “gây thiệt hại cho đương sự” như nhận định của Viện Kiểm sát Nhân dân cấp cao tại TP. Hồ Chí Minh, nhưng vẫn tiếp tục có hiệu lực.
Cùng bất đắc dĩ, “vua chuối” Võ Quan Huy phải viết tâm thư cầu cứu Thủ tướng Chính phủ và nhiều cơ quan trung ương.
Trong thư, ông Võ Quan Huy viết: Tôi là Nông dân Việt Nam xuất sắc các năm 2013 và 2015 do Trung ương Hội Nông dân Việt Nam bình chọn và được các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước trực tiếp trao tặng tại Lễ tôn vinh.
Báo, đài thường hay gọi tôi là người mê đất, còn gọi Út Huy, Huy “mía”, Huy “tôm”, Huy “bò”, “vua chuối” vì tôi đã trải qua nhiều cây trồng, vật nuôi để nâng đỡ lẫn nhau khi có biến động về mùa vụ và thị trường. Tôi luôn có khát vọng làm giàu từ nông nghiệp và suốt cuộc đời tôi, thường đến các vùng hoang hóa “những nơi đất cần người” để khai hoang sản xuất, từ huyện Bắc Tân Uyên (tỉnh Sông Bé) năm 1980, rồi Bời Lời (Trảng Bàng, Tây Ninh) năm 1992, 1993 đến Đức Huệ (Long An) năm 1994, Sóc Trăng năm 2000… để trồng trọt, chăn nuôi và nuôi trồng thủy sản.
Về vụ việc ở Bời Lời, tôi có làm đơn kiến nghị và kêu cứu gửi cơ quan có thẩm quyền nhiều nơi nhưng chưa nhận được phản hồi. Bằng bức “tâm thư thỉnh cầu” này, tôi tha thiết mong Thủ tướng chỉ đạo cơ quan, ban, ngành chuyên môn xem xét giải quyết nguyện vọng chính đáng của tôi. Tôi sẵn sàng giao đất cho địa phương để thực hiện dự án, nhưng đồng thời xin được xem xét bồi thường, hỗ trợ như bao người nông dân khác trong vùng dự án theo quy định của địa phương.
“Nếu không có phương án thỏa đáng, thì rất nhiều tài sản của tôi như chuối đang thu hoạch, cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất sẽ phải phá hủy và di dời, gây lãng phí và thiệt hại hàng chục tỷ đồng, đối với người nông dân là rất lớn”, ông Võ Quan Huy thỉnh cầu.
Hoàng Anh – Kiên Trung
***
Thứ Năm 15/05/2025 , 11:29 (GMT+7)
Chuyện đất công, đất tư và kinh tế tư nhân
Đọc loạt bài ‘Nỗi đau của đất’ trên Báo Nông nghiệp và Môi trường, GS Đặng Hùng Võ ngẫm ngợi: Suy cho cùng những nhọc nhằn từ đất là do pháp luật còn khoảng trống.

GS Đặng Hùng Võ. Ảnh: NVCC.
Là một chuyên gia luôn trăn trở với các vấn đề đất đai, đặc biệt là câu chuyện đất nông lâm trường, cho nên khi theo dõi loạt bài Nỗi đau của đất đăng tải trên Báo Nông nghiệp và Môi trường, GS Đặng Hùng Võ, nguyên Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường (nay là Bộ Nông nghiệp và Môi trường) ngẫm ngợi: Suy cho cùng những nhọc nhằn từ đất đai hiện nay đều do pháp luật còn nhiều khoảng trống, khoảng chồng chéo, khoảng xung đột…
GS Đặng Hùng Võ kiến giải, thực tiễn đó đã gây ra những khó khăn trong vấn đề tiếp cận đất đai và kể cả khi đã tiếp cận được rồi cũng khó sử dụng nguồn lực này để có thể mang lại giá trị lợi ích cao.
“Tôi nhớ ông Út Huy (Võ Quan Huy), một người nông dân luôn tìm cách sử dụng đất vượt hạn điền rất nhiều để trồng chuối xuất khẩu, từng nghe ông nói câu đại ý thế này: Hỡi những nhà xây dựng pháp luật đất đai, hãy về làm ruộng trước khi ngồi viết luật.
Cá nhân tôi đồng tình với cách tư duy đề cao thực tiễn như vậy. Thực tế khoảng hơn 20 năm trước, khi Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn An kêu gọi cần phải đẩy mạnh việc đưa pháp luật vào cuộc sống, tôi cũng phân tích trên nhiều cơ quan báo chí rằng muốn đưa được pháp luật vào cuộc sống thì trước tiên chúng ta phải làm thật tốt việc đưa cuộc sống vào pháp luật”, GS Đặng Hùng Võ chia sẻ.

Trang trại chuối ở Bời Lời của “vua chuối” Võ Quan Huy đang bị cưỡng chế thu hồi đất. Ảnh: Hoàng Anh.
Mù mờ đất công – đất tư
Trước hết bàn về câu chuyện pháp luật đất đai gắn liền với các chủ trương, định hướng phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước, GS Đặng Hùng Võ phân tích: Tôi lấy luôn ví dụ câu chuyện thời sự nhất hiện nay là Ban Chấp hành Trung ương Đảng vừa mới ban hành Nghị quyết số 68-NQ/TW của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân.
Rõ ràng, với vai trò, vị thế đang là một thành phần kinh tế chiếm phần lớn tỷ trọng GDP của đất nước, có thể nói kinh tế tư nhân sẽ là động lực quan trọng nhất để phát triển đúng như Nghị quyết số 68 của Đảng đã định hướng đến năm 2030.
Vậy thì quá trình thực hiện Nghị quyết mới này, chúng ta nên đặt vấn đề đất đai trong mối quan hệ với phát triển kinh tế tư nhân như thế nào?
Nhìn vào lịch sử phát triển kinh tế Việt Nam từ sau Đổi Mới, mỗi kỳ Đại hội Đảng chúng ta đều khẳng định vai trò quan trọng của kinh tế tư nhân. Thể hiện trong các Văn kiện Đại hội và tiếp theo là các Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương hoặc của Bộ Chính trị về vai trò cũng như các giải pháp nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế tư nhân phát triển.
Có thể kể tới Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 5/4/1988 về Đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp của Bộ Chính trị tại kỳ Đại hội lần thứ VI đã xác định hộ nông dân là đơn vị kinh tế tự chủ, từ đó đổi mới cơ bản cách thức quản lý hợp tác xã nông nghiệp; Nghị quyết Hội nghị Trung ương tại Đại hội IX về tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách, khuyến khích, tạo điều kiện phát triển kinh tế tư nhân; Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 3/6/2017 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa…
Đặc biệt, với Nghị quyết số 68-NQ/TW của ban Chấp hành Trung ương Đảng ban hành ngày 4/5/2025, có thể nói đã mang đến những thay đổi rất cơ bản về vai trò của kinh tế tư nhân đối với nhiệm vụ phát triển kinh tế. Mục tiêu để đến năm 2030 đất nước ta hoàn thành cơ bản quá trình công nghiệp hóa và đến năm 2045 trở thành quốc gia phát triển, người dân có mức thu nhập cao.
Điều tôi tâm đắc nhất là Nghị quyết 68 định hướng kinh tế tư nhân từ chỗ “có vai trò quan trọng” chuyển sang định hướng “kinh tế tư nhân có vai trò quan trọng nhất”. Dù chỉ khác nhau một chữ nhất thôi nhưng quả là sự khác biệt vô cùng to lớn. Theo suy nghĩ của tôi, sự khác nhau này chắc chắn sẽ đưa đất nước ta phát triển rất mạnh trong thời gian tới vì định hướng phù hợp với mô hình kinh tế thị trường.
Tất nhiên, khi nói đến kinh tế tư nhân chúng ta phải kể đến một số yếu tố có vai trò đặc biệt quan trọng trong định hướng phát triển. Một là lực lượng lao động thuộc về khu vực tư nhân, hai là vốn đầu tư thuộc về khu vực tư nhân, ba là tư liệu sản xuất cũng thuộc về khu vực tư nhân.
Tư liệu sản xuất ở đây hiểu theo nghĩa bao gồm cả đất đai và khi nói đến kinh tế tư nhân, kinh tế nông nghiệp, đất đai chính là tư liệu sản xuất quan trọng nhất. Kể cả khi đặt cạnh kinh tế phi nông nghiệp để so sánh, đất đai cũng là địa bàn để phát triển hạ tầng phục vụ sản xuất và cung cấp dịch vụ, cũng là một loại vốn để đầu tư phát triển kinh tế.
Nhưng cá nhân tôi thấy rằng: Từ trước đến nay mặc dù pháp luật của chúng ta chưa định nghĩa rõ ràng các khái niệm “đất sử dụng cho mục đích công” và “đất sử dụng cho mục đích tư”, cho dù trong khẩu ngữ hằng ngày vẫn thường nói đến từ “đất công” và “đất tư”, kể cả trên báo chí hay tại các cuộc hội nghị, hội thảo, các cuộc họp bàn quan trọng… Sự mù mờ về định nghĩa, khái niệm “đất công” và “đất tư” như vậy đã làm nảy sinh rất nhiều cách hiểu sai về bản chất của vấn đề đất đai sử dụng trong kinh tế tư nhân.

Ông Võ Quan Huy và những người bạn khai hoang có chung nỗi đau của đất ở Bời Lời, thị xã Trảng Bàng. Ảnh: Kiên Trung.
Rõ ràng khi nhìn nhận vấn đề đất đai trong kinh tế nông nghiệp, từ trước đến nay Luật Đất đai của chúng ta thời kỳ nào cũng có ý đặt ra nhiều quy định mang tính ràng buộc về đất nông nghiệp. Mục đích là để phòng tránh việc hình thành tầng lớp địa chủ mới. Ví dụ như quy định bó hẹp thời hạn sử dụng đất, quy định về hạn điền, quy định không cho phép doanh nghiệp phi nông nghiệp tham gia đầu tư vào trồng lúa… Nghịch lý ở chỗ, chúng ta chỉ e ngại việc hình thành tầng lớp địa chủ mới trong nông nghiệp mà không có quy định gì để đề phòng việc hình thành tầng lớp địa chủ phi nông nghiệp.
Vì vậy, tình trạng đầu cơ đất phi nông nghiệp đã tràn lan ở khắp mọi nơi. Để rồi khi nhìn vào thực tiễn chúng ta hoàn toàn có thể thấy lớp địa chủ phi nông nghiệp đã và đang được tự do hình thành.
Sự lẫn lộn và nghịch lý này đã làm cho vấn đề sử dụng đất nông nghiệp bị bó buộc rất nhiều và gây ra những khó khăn, rào cản đối với nền kinh tế đất nước. Đặc biệt trong bối cảnh xuất khẩu nông sản vẫn đóng vai trò chủ đạo, giữ vai trò quan trọng đối với nền kinh tế và nông nghiệp là trụ đỡ an ninh lương thực, an sinh xã hội của quốc gia.
Tôi nghiên cứu và nhận thấy ở nhiều quốc gia họ chấp nhận chế độ sở hữu tư nhân về đất đai và pháp luật của họ cũng quy định rất rõ khái niệm “đất công” và “đất tư”.
Có thể hiểu nôm na “đất công” là đất thuộc sở hữu công và “đất tư” là đất thuộc sở hữu tư. Người ta xác định rất rạch ròi, ít nhất là về khái niệm như vậy để làm nền tảng, cơ sở xây dựng pháp luật đất đai có quy định, chế tài quản lý “đất công” và “đất tư” có sự khác biệt rất lớn.

Nhọc nhằn đất công ở Tây Ninh. Ảnh: Hoàng Anh.
Ở nước ta, đất đai thuộc sở hữu toàn dân và nhà nước thay mặt toàn dân thực hiện các quyền năng đối với đất đai. Cách quan niệm này có thể hiểu là tương đương với chế độ “đất đai thuộc sở hữu của Nhà nước”. Điều đó dẫn đến tất cả các Luật Đất đai của nước ta được ban hành qua các thời kỳ đều không xác định khái niệm “đất sử dụng công” và “đất sử dụng tư”.
Hay nói cách khác, vấn đề sử dụng đất của chúng ta đều nhất loạt coi là đất công. Tôi cho rằng với tư duy và nhận thức quản lý mãi như thế sẽ không thể tạo ra sự ổn định, lâu dài cho phát triển kinh tế tư nhân được. Sự mù mờ trong khái niệm đất công và đất tư trong vấn đề sử dụng đất sẽ không trợ giúp gì, thậm chí còn là rào cản đối với phát triển kinh tế tư nhân.
Với vai trò là chuyên gia về đất đai của Ngân hàng Thế giới, mỗi lần chúng ta dự thảo Luật Đất đai sửa đổi, tôi đều soạn thảo các bản khuyến nghị về chính sách đất đai để Ngân hàng Thế giới gửi Chính phủ Việt Nam. Trong đó có kiến nghị rất rõ quy định về “đất công” và “đất do tư nhân sử dụng”.
Nhân đây, một lần nữa tôi lại kiến nghị: Để kinh tế tư nhân thực sự đóng vai trò quan trọng nhất, tạo động lực chủ yếu nhất cho phát triển kinh tế đất nước thì khái niệm “đất công” và “đất do tư nhân sử dụng” cần được quy định thật rành mạch trong Luật Đất đai, trong các Nghị định, quy định về quản lý đất đai.
Tôi nghĩ rằng, điều đó không chỉ góp phần khơi thông nguồn lực đất đai mà còn góp phần ngăn chặn khả năng lợi dụng sự “mù mờ” về khái niệm để làm trái tinh thần, quy định pháp luật về đất đai.

Khu vực đất trồng chuối của ông Võ Quan Huy và đất bỏ hoang bên cạnh. Ảnh: Kiên Trung.
Lợi ích nhằng nhịt, rắc rối và khó gỡ
Suy nghĩ về vấn đề đất đai và phát triển kinh tế, tôi nhớ rằng với tinh thần “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật”, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng năm 1986 đã xác định phải đổi mới tư duy. Trước hết là tư duy về kinh tế và đề ra phương hướng trọng tâm phát triển, thực hiện tốt 3 chương trình kinh tế lớn gồm: lương thực thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu.
Lịch sử phát triển kinh tế đất nước từ bấy đến nay cho thấy, chương trình đảm bảo lương thực thực phẩm đã mang lại kết quả cao nhất, góp phần đưa nước ta từ tình trạng “đứt bữa” trở thành nước xuất khẩu gạo thuộc tốp đầu thế giới. Chúng ta vừa đảm bảo được đầy đủ lương thực cho nhân dân, vừa tạo ra hàng hóa xuất khẩu, đóng góp rất lớn vào sự phát triển nền kinh tế.
Thành tựu đó, tôi cho rằng phần lớn là nhờ chính sách giao đất của hợp tác xã nông nghiệp cho các hộ gia đình nông dân, qua đó giải phóng được lực lượng sản xuất, giải phóng được nguồn lực đất đai. Nói cách khác, chúng ta đã chuyển mô hình kinh tế tập thể sang mô hình kinh tế tư nhân và mang lại hiệu quả rõ rệt.
Một lát cắt cho thấy thành công lớn của chính sách đất đai. Mặc dù vậy vẫn còn tồn tại là khá nhiều diện tích đất nông nghiệp, điển hình như đất công ích 5% ở nhiều nơi do các hợp tác xã quản lý chưa được giải phóng. Dù đã những chủ trương đổi mới mô hình hợp tác xã nông nghiệp nhưng thực tế chưa thay đổi được gì nhiều, đất đai vẫn dần tiêu biến dưới nhiều cách thức khác nhau… Giải pháp ở một số địa phương như Lâm Đồng, Sơn La là thành lập các hợp tác xã cung cấp dịch vụ để giúp kinh tế hộ gia đình có điều kiện phát triển và có nhiều mô hình đã thành công, tuy nhiên so với thực tiễn vẫn còn quá ít.
Đối với vấn đề đất lâm nghiệp, đất rừng do các lâm trường quốc doanh nắm giữ, quản lý lại đi theo xu hướng khác. Chủ trương của Đảng và Nhà nước lúc này là đổi mới và phát triển các nông, lâm trường quốc doanh, chứ không chuyển sang kinh tế tư nhân, chưa giải phóng nguồn lực đất đai như tôi đã nêu ở trên.
Thực tế đã có rất nhiều quyết sách lớn và quy định của pháp luật liên quan vấn đề này, tuy nhiên điểm nghẽn lớn nhất dường như vẫn chưa được khơi thông. Ví dụ Dự thảo Luật Đất đai 2003, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ban hành Nghị quyết số 26-NQ-TW ngày 12/3/2003 về việc tiếp tục đổi mới chính sách, pháp luật về đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, và Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày16/6/2003 về tiếp tục sắp xếp, đổi mới và phát triển nông, lâm trường quốc doanh.
Đến Dự thảo Luật Đất đai 2013, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ban hành Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 31/10/2012 về tiếp tục đổi mới chính sách, pháp luật về đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại; Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 30-NQ/TW ngày 12/3/2014 về tiếp tục sắp xếp, đổi mới và phát triển, nâng cao hiệu quả hoạt động của công ty nông, lâm nghiệp.
Dự thảo Luật Đất đai 2024, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ban hành Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 16/6/2022 về việc tiếp tục đổi mới, hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý và sử dụng đất, tạo động lực đưa nước ta trở thành nước phát triển có thu nhập cao, bao gồm cả nội dung về đổi mới và phát triển các lâm trường quốc doanh và công ty lâm nghiệp.
Liệt kê lại các chủ trương, quyết sách của Đảng và luật pháp liên quan câu chuyện đất nông lâm trường để thấy việc ban hành định hướng chính sách, quy định của pháp luật đối với vấn đề này cũng đầy khó khăn, phức tạp.
Thực trạng mà về nguyên tắc có thể dễ dàng nhận thấy thay đổi mô hình quan hệ sản xuất hợp tác xã theo kiểu cũ sang mô hình kiểu mới là đúng, nhưng vì lý do nào đó mà chúng ta vẫn phải bảo vệ mô hình quan hệ sản xuất của các công ty quốc doanh. Thực tiễn đã cho thấy có rất nhiều mối quan hệ lợi ích rất nhằng nhịt, rắc rối, tháo gỡ rất khó khăn. Những người có quyền vẫn đảm bảo được lợi ích cho mình trong các mối quan hệ lợi ích đan xen nhằng nhịt, còn người lao động trực tiếp sản xuất trong các nông lâm trường quốc doanh thì thua thiệt đủ đường.
Như câu chuyện Báo Nông nghiệp và Môi trường nêu ở tỉnh Tây Ninh là một lát cắt. Tôi nghĩ rằng thực trạng đó vẫn đang còn diễn ra ở nhiều địa phương hiện nay.

Nông dân tỉnh Tây Ninh đang làm việc cho trang trại chuối của ông Võ Quan Huy. Ảnh: Kiên Trung.
Đất còn nhọc nhằn, pháp luật còn khoảng trống
Trở lại vấn đề đất đai và phát triển kinh tế. Đảng và Nhà nước ta đã quyết định áp dụng cơ chế thị trường vào năm 1991, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng. Và cũng từ đó chúng ta bắt đầu thực hiện quá trình công nghiệp hóa đất nước.
Gần 25 năm, kinh tế nông nghiệp vẫn đóng vai trò chủ đạo và hết sức quan trọng trong cơ cấu nền kinh tế đất nước. Minh chứng là đến năm 2024 – 2025 này, xét yếu tố hàng hóa xuất khẩu của chúng ta do dân ta làm ra thì chủ yếu vẫn là hàng nông sản. Trong khi đó, nhìn sang các loại hàng hóa công nghiệp xuất khẩu thì đa phần đều từ đầu tư trực tiếp của nước ngoài.
Trước đây chúng ta còn xuất khẩu được một số mặt hàng thủ công nghiệp như giày da, may mặc… nhưng đến giai đoạn hiện nay những mặt hàng đó đang gặp phải nhiều khó khăn do giá thành sản phẩm đắt hơn hàng hóa làm ra ở nhiều nước khác. Và điều đáng buồn là một trong những nguyên nhân lớn nhất sản phẩm của chúng ta khó cạnh tranh cũng là do chi phí đất đai ở đầu vào tăng lên ngày càng cao.
So sánh như vậy để kiến nghị giải pháp tháo gỡ rào cản, điểm nghẽn của đất đai nhằm khơi thông và phát huy hết nguồn lực đất đai có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với phát triển kinh tế. Nhất là đối với vấn đề tiếp cận đất nông nghiệp.
Bởi vì như chúng ta thấy, mặc dù chính sách đất đai liên quan đến kinh tế nông nghiệp đã được tháo gỡ khá nhiều trong Luật Đất đai năm 2024, nhưng theo tôi vẫn cần phải có những quyết định chính sách mạnh mẽ hơn nữa. Nhất là rào cản về mặt tư duy như tôi đã phân tích ở trên. Chúng ta cần phải thay đổi tâm lý lo sợ sẽ hình thành lớp địa chủ mới trong nông nghiệp nên vẫn lo lắng giữ quy định về hạn điền đất nông nghiệp… khi thực tiễn đòi hỏi cần phải xây dựng nền nông nghiệp quy mô lớn, nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp hiện đại.

Đất còn nhọc nhằn, pháp luật còn khoảng trống. Ảnh: Minh Sáng.
Chúng ta đừng lo sợ những điều mơ hồ nữa mà hãy nhìn vào thực tiễn, lo lắng thực tế đã hiện hữu như lớp “địa chủ mới” phi nông nghiệp đã được hình thành tự do thông qua đầu cơ đất đai.
Tựu trung lại, tôi nghĩ rằng những nhọc nhằn từ đất đai như hiện nay đều do pháp luật của chúng ta còn nhiều khoảng trống, khoảng chồng chéo, khoảng xung đột, dẫn đến thực trạng khó tiếp cận và kể cả khi tiếp cận được rồi cũng khó sử dụng để có thể mang lại giá trị cao.
“Muốn đất đai bớt nhọc nhằn thì các quy định của pháp luật phải phù hợp hơn nữa với thực tiễn của cuộc sống”, GS Đặng Hùng Võ khẳng định.
—-
Hoàng Anh – Kiên Trung
(thực hiện)