
Bộ Tổng Tham mưu chế độ Sài Gòn năm 1972.
Giải mã cái chết của Lê Quang Tung và Hồ Tấn Quyền trong vụ đảo chính Ngô Đình Diệm
ANTG – Thứ Sáu, 17/03/2017, 16:45
Chính quyền ngụy tạo Việt Nam Cộng Hòa là những trang lịch sử hoen ố của đất nước. Vụ đảo chính Ngô Đình Diệm xảy ra tại Sài Gòn vào ngày 01-11-1963 càng làm vấy bẩn thêm cái chính quyền ô hợp, lai tạo bởi 2 chế độ ngoại xâm Mỹ – Pháp. Cuộc đảo chính này đã góp phần khẳng định chính quyền Việt Nam Cộng Hòa chỉ là một con cờ trong tay Mỹ.
Kỳ 1: Vì sao Lê Quang Tung đứng đầu danh sách phải chết?
Ngay khi soạn thảo kịch bản đảo chính, CIA đã chốt danh sách những người cần phải giết. Trong đó có 2 nhân vật quyền lực: Lê Quang Tung – Tư lệnh Lực lượng đặc biệt và Hồ Tấn Quyền – Tư lệnh Hải quân.
Lucien Conein – Ông trùm lật đổ chính trị của Mỹ
Cuộc đảo chính lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm bất ngờ được ấn định vào ngày 01-11-1963 nhưng Nhà Trắng đã chuẩn bị cho ván cờ này từ tháng 6-1963.
Trước khi cuộc đảo chính nổ ra hơn 2 tháng, vào ngày 27-8-1963, từ Trung tâm điều khiển CIA tại Sài Gòn đã gởi một công điện về Trung tâm CIA ở Langley báo cáo một bản tường trình của Lucien Conein về cuộc họp của Hội đồng Tướng lãnh (Committee of Generals) như sau: “Ủy ban (tức Hội đồng Tướng lãnh – TG) quyết định rằng đại tá Lê Quang Tung được coi là mục tiêu đầu tiên của ủy ban đảo chánh và sẽ bị tiêu diệt cùng với toàn trại của ông ta như là một trong những hành động đầu tiên của cuộc đảo chánh. Cùng với việc tiêu diệt đại tá Tung và Lực lượng Đặc biệt của ông ta, Tướng Khiêm còn yêu cầu cho ông ta nhận được bản kê khai toàn bộ các vũ khí đạn dược hiện đang lưu trữ tại trại Long Thành”.
Thời điểm đó, ai cũng nghĩ Lucien Conein chỉ là cố vấn của lực lượng đảo chính. Nhưng sau này, qua các tài liệu giải mật của CIA cho thấy người quyết định cuộc đảo chính đó chính là Lucien Conein chứ không ai khác. Lucien Conein là người gợi ý để tòa bạch ốc ra phán quyết án tử cho Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu trong cuộc đảo chính. Cũng chính ông ta là người đã truyền đạt phán quyết của tòa bạch ốc khi cuộc đảo chính đang diễn ra. Nguyên văn tiếng Pháp: “On ne fait pas d’omelette sans casser les oeufs”. Câu này có nghĩa là, “người ta không thể làm món trứng rán mà không đập bể những quả trứng” hoặc “nhổ cỏ phải nhổ tận gốc”.
Và quyết định dành án tử cho ông trùm Lực lượng Việt Nam Cộng hòa Lê Quang Tung cũng chính là Lucien Conein. Vì sao Lucien Conein và CIA muốn Tung phải chết? Thời điểm đó nhiều người cho rằng CIA e ngại Lê Quang Tung sẽ chỉ huy Lực lượng đặc biệt bảo vệ Ngô Đình Diệm đến cùng gây bất lợi cho cuộc đảo chính. Thực tế không chỉ vậy. CIA “sợ” Lê Quang Tung vì nhiều lý do khác.
Trước đó, Lucien Conein có quan hệ rất mật thiết với Lê Quang Tung và lực lượng đặc biệt của VNCH.
Ông tổ của lực lượng biệt kích Việt Nam Cộng hòa
Lucien Conein, sinh ngày 29 tháng 11 năm 1919 tại Paris. Mồ côi cha lúc 5 tuổi, ông ta được mẹ gửi sang Mỹ sống tạm cư với người dì có chồng là quân nhân Mỹ tại Kansas.
Năm 20 tuổi, với tư cách công dân Pháp, Lucien Conein trở về cố quốc gia nhập quân đội. Lúc này toàn thế giới sùng sục lửa chiến tranh thế giới lần 2. Sau khi Pháp bị Đức chiếm đóng, ông ta đào thoát sang Mỹ rồi đăng ký tham gia vào quân đội Mỹ. Vì có quốc tịch Pháp nên sau một thời gian, ngày 26 tháng 7 năm 1943, Trung úy Lucien Coein được tuyển vào công tác tại bộ phận Châu Âu thuộc Cục Tình báo chiến lược (Office of Strategic Services – Viết tắt là OSS), tiền thân của cơ quan CIA. Đến tháng 8 năm 1944, Lucien Coein được điều qua Pháp hỗ trợ lực lượng kháng chiến chuẩn bị cho cuộc đổ bộ Normandy.
Tháng 8 năm 1945, Đại úy Lucien Coein được đưa sang Việt Nam chuẩn bị cho việc Mỹ đặt tiền trạm chiến tranh. Năm 1947, cơ quan OSS giải thể và Cục Tình báo Trung ương (Central Intelligence Agency – CIA) được thành lập. Conein trở thành sỹ quan CIA và hoạt động tình báo ở nhiều quốc gia khác nhau ở châu Âu, chủ yếu là ở Đức trong thời gian từ tháng 2 năm 1947 đến tháng 8 năm 1953.
Cuối năm 1953, Thiếu tá Lucien Conein trở lại Việt Nam hoạt động tình báo quân sự dưới quyền của Đại tá Lansdale. Lúc này, Mỹ muốn dọn đường khai hoang các lực lượng chính trị ở miền Nam cho Diệm lên chiếc ghế Tổng thống VNCH. Nhiệm vụ của Lucien Conein là giúp Ngô Đình Diệm giải tán các lực lượng đối lập bằng 2 cách: Thuần hóa hoặc tiêu diệt. Chính Lucien Conein đã ôm cặp táp đô la đi mua chuộc từng nhóm vũ trang như Bảy Viễn, Trình Minh Thế, Nguyễn Thành Phương, Ba Cụt… về dưới trướng Diệm. Khi người dân Việt Nam chưa biết Ngô Đình Diệm là ai, chính Lucien Conein là người dùng tiền quảng bá “thương hiệu chí sĩ Ngô Đình Diệm”. Nói cách khác, Lucien Conein là “phù thủy” giúp Ngô Đình Diệm vô danh thành “chí sỹ yêu nước Ngô Đình Diệm”.
Khi Ngô Đình Diệm trở thành tổng thống cái gọi là VNCH, Lucien Conein hoàn thành nhiệm vụ và trở về nước vào năm 1957.

Biệt kích tại trung tâm huấn luyện Long Thành.
Trở về Mỹ, Lucien Conein được trưng dụng vào Lực lượng Đặc biệt (Special Force). Trong thời gian này Lucien Conein được William Colby – Phó Giám đốc, kiêm trưởng bộ phận CIA tại Việt Nam giao nhiệm vụ xây dựng các nhóm biệt kích phá hoại chống chính quyền Lào và miền Bắc Việt Nam. Và Lê Quang Tung là 1 cộng sự đắc lực của ông ta trong các chiến dịch phá hoại miền Bắc. Vì sự cộng tác này mà Lucien Conein quyết định Lê Quang Tung phải chết ngay trước thềm cuộc đảo chính Ngô Đình Diệm.
Đến năm 1962, Lucien Conein mang hàm trung tá CIA với bí danh là Lulu hay Black Luigi, được chỉ định làm cố vấn tình báo cho Ngô Đình Diệm. Thực ra, Lucien Conein được CIA giao nhiệm vụ bí mật móc nối với các tướng Việt Nam chuẩn bị tổ chức đảo chính lật đổ Ngô Đình Diệm.
Chính Lucien Conein tạo nên chính quyền Ngô Đình Diệm và cũng chính Lucien Conein lật đổ chính quyền Ngô Đình Diệm.
Giới tình báo quốc tế đánh giá Lucien Conein là ông trùm của đảo chính. Trên thế giới, nơi nào có mặt ông ta, nơi đó có lật đổ chính trị.
Chân dung ông trùm Lê Quang Tung
Lê Quang Tung sinh ngày 13-06-1919 tại làng An Vân Thượng, xã Hương An, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên, là con trai thứ 5 trong số 9 anh chị em. Cha mẹ Tung là giáo dân Thiên chúa giáo nên ông ta có tên thánh là Andre. Lê Quang Triệu là em trai út của ông ta.

Lê Quang Tung.
Lê Quang Tung có dáng thấp, chắc, luôn mang kính đen để che giấu ánh mắt và suy nghĩ nên nhiều người luôn có cảm giác bất an khi đối diện vì không ai biết phía sau cặp tròng kính đen thui, con người ấy nghĩ gì và sắp hành động gì. Đã có không ít người đang cười nói thân mật với ông ta, ít phút sau đã bị thuộc hạ của ông ta tóm cổ đưa vào phòng kín tra tấn đến tật nguyền hoặc bị thủ tiêu.
Cha mẹ Lê Quang Tung vốn là gia nhân trung thành trong gia đình quan đại thần triều Nguyễn – Ngô Đình Khả (bố của Ngô Đình Diệm). Vì vậy các anh chị em của Lê Quang Tung đều lần lượt kế thừa nghiệp nô bộc cho gia đình quan lại này. Vì đội kiếp nô bộc nên Lê Quang Tung thờ anh em Ngô Đình Diệm như thờ vua.
Ngày 1-06-1946, khi tái chiếm miền Nam, Pháp muốn có một chính phủ “người Việt thờ Pháp” nên thành lập một chính phủ gọi là “Nam Kỳ quốc”, giao cho Nguyễn Văn Thinh làm thủ tướng. Thời gian này, Lê Quang Tung được Sở An ninh Trung kỳ tuyển dụng làm mật thám viên. Nhờ có nhiều công trạng chỉ điểm, bắt bớ những người có tư tưởng Cộng sản, Lê Quang Tung nhanh chóng được Pháp cất nhắc lên chức Trưởng ty An ninh Quảng Trị.
Khi Bảo Đại được Pháp lôi từ các sòng bài Hongkong về nước làm Quốc trưởng, Lê Quang Tung từ Quảng Trị được rút lên Nha Công an Trung phần đặt tại Huế, phụ trách đội mật vụ. Lúc này Trần Trọng Sanh làm giám đốc Nha.
Trong thời gian này, Tung gia nhập Đảng Cần Lao và tham gia phong trào Thanh niên Công giáo của Ngô Đình Nhu. Nhờ ở cương vị chỉ huy đám mật vụ của chính quyền lệ thuộc thực dân, Lê Quang Tung đã tích cực tống tiền, bóp hầu bao các thương gia miền Trung để lấy tiền nuôi phong trào Cần Lao khi đảng này mới manh nha hoạt động. Chi tiết này đã khiến Lê Quang Tung trở thành công bộc số 1 của anh em họ Ngô Đình.
Năm 1952, Lê Quang Tung được tuyển đi học Khóa 2 sinh viên sĩ quan Nam Định nhưng sau đó trường này đóng cửa nên ông ta được chuyển vào Trường Sĩ quan trù bị Thủ Đức. Vì trường Thủ Đức chưa xây cất xong, nên năm 1953 ông ta được cho vào Khoá 3 phụ và thụ huấn tại Trường võ bị liên quân Đà Lạt. Con đường học vấn lòng vòng như thế nên đến năm 1954 ông ta mới mang được cấp hàm Thiếu úy.
Sau đó, Thiếu úy Lê Quang Tung được phiên về phục vụ công tác an ninh quân đội tại tiểu đoàn 53 bộ binh tại Duy Xuyên, Quảng Nam. Nếu như Ngô Đình Diệm không được Mỹ đặt đít lên ghế Thủ tướng của chính quyền Bảo Đại thì chắc chắn rằng còn đường hoạn lộ của Lê Quang Tung vẫn còn nhiêu khê, trắc trở. Cũng có thể ông ta cũng chỉ giữ nhiệm vụ sỹ quan an ninh ở các đơn vị bộ binh.
Cuộc đời Lê Quang Tung sang trang mới kể từ khi Diệm làm Thủ tướng chính quyền Bảo Đại. Vừa được làm Thủ tướng, Diệm lôi Lê Quang Tung từ tiểu đoàn bộ binh vô danh lên làm Trưởng ty An ninh Quân đội Huế, được thăng lên đại úy rồi làm Chánh Sở 2 (An ninh Quân đội) Huế.
Lực lượng đặc biệt
Trước khi rút quân về cố quốc, Pháp đã để lại cho chính quyển Bảo Đại 1 “di sản” tình báo, mang cái tên trá hình là Tổng Nha Nghiên Huấn. Gọi là “huấn” nhưng công việc của các nhân viên ở Tổng nha này chủ yếu là rình mò tìm các phần tử chống đối chính quyền.

Bộ Tổng Tham mưu chế độ Sài Gòn năm 1972.
Cuối năm 1956, “Thủ tướng” Ngô Đình Diệm thấy Tổng Nha Nghiên Huấn mang nặng dáng dấp của tình báo quân đội Pháp khiến Mỹ không hài lòng nên giải tán để thành lập một cơ quan khác có cùng chức năng. Đó là sở liên lạc trực thuộc Phủ Tổng thống. Sở liên lạc này do Mỹ tài trợ ngân quỹ và chịu sự điều khiển (dưới danh nghĩa cố vấn) của đại tá tình báo quân đội Mỹ tên là Rogers.
Lê Quang Tung được Diệm cất nhắc lên làm Giám đốc cái sở này với hàm trung tá. Con đường hoạn lộ của nô bộc Lê Quang Tung bắt đầu rộng mở thênh thang.
Sở liên lạc là một cơ quan chỉ huy hệ thống gián điệp chính trị của chính quyền Diệm. Cái tên “liên lạc” không có vẻ gì nguy hiểm. Thế nhưng nó chính là con dao bí mật của “Thủ tướng” Diệm dành cho mọi đối tượng chống đối. Bắt cóc, ám sát thủ tiêu và khủng bố ngầm là nghiệp vụ chính của nhân viên Sở Liên lạc. Vì vậy, cái ghế giám đốc của sở này phải dành cho nô bộc trung thành nhất là Lê Quang Tung. Tuy Tung là giám đốc nhưng mục tiêu hoạt động đều do “ông cố vấn” Ngô Đình Nhu điều phối.
Thấy Tung vẫn còn ảnh hưởng công vụ kiểu Pháp, Diệm đưa Tung qua Honolulu để Mỹ huấn luyện nghiệp vụ chỉ huy hoạt động điệp viên xâm nhập và ám sát. Trung úy Lê Quang Triệu, em ruột của Lê Quang Tung, cũng được đưa qua Saipan – một hòn đảo lớn ở phía Bắc đảo Guam – huấn luyện về nghiệp vụ chỉ huy tình báo. Khi trở về, “Trung úy” Triệu được giao nhiệm vụ tuyển dụng lực lượng điệp viên cho Sở Liên lạc. Cho đến bây giờ, chưa ai tiếp cận được hồ sơ tuyển dụng nhân sự của Triệu. Không ai biết rõ Triệu tuyển dụng bằng cách nào, tiêu chuẩn ra sao.
Nông Huyền Sơn
***
Giải mã cái chết của Lê Quang Tung và Hồ Tấn Quyền trong vụ đảo chính Ngô Đình Diệm (kỳ 2)
ANTG – Thứ Hai, 20/03/2017, 12:43
Năm 1958, được Mỹ điều khiển, Lê Quang Tung bắt đầu tổ chức đưa nhiều toán gián điệp xâm nhập phá hoại miền Bắc. Trước khi tung toán gián điệp đầu tiên ra miền Bắc, Sở Liên lạc được đổi tên thành Sở Khai thác Địa hình. Cái tên rất có vẻ dân sự.
Đến ngày 15-3-1963, Diệm lại ra quyết định đổi tên cơ quan hoạt động gián điệp vũ trang này thành Lực lượng Đặc biệt, thăng Lê Quang Tung lên hàm đại tá.
Thời điểm này, Lực lượng Đặc biệt có tổng quân số hơn 2000 người. Ngoài ra, Lê Quang Tung còn được Diệm giao nhiệm vụ chỉ huy Lữ đoàn Liên binh phòng vệ Phủ Tổng thống. Còn Lê Quang Triệu được thăng hàm Thiếu tá, Phó tư lệnh Lực lượng Đặc biệt. CIA xếp Lê Quang Tung vào danh sách người có quyền lực thứ ba, đứng sau Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu. Ông ta có toàn quyền quyết định, toàn quyền hành động mà không cần báo cáo trước với Ngô Đình Diệm cũng như Ngô Đình Nhu.
Kỳ 2: Hạ sát để triệt khẩu
Quá trình hình thành lực lượng ám sát, phá hoại và… ăn hại
Giai đoạn 1957, Sở Liên lạc của Lê Quang Tung chỉ làm nhiệm vụ thu thập tin tình báo quần chúng.
Ngày 24-06-1957, Mỹ bắt đầu đưa Liên đoàn 1 Lực lượng Đặc biệt vừa thành lập xong tại Okinawa sang Việt Nam để huấn luyện và cố vấn nghiệp vụ xâm nhập phá hoại cho 58 nhân viên “hạt giống” của Sở Liên lạc do Lê Quang Tung chỉ huy.
Đến tháng 9-1962, từ sự cố vấn của Lucien Conein, Ngô Đình Diệm cho tiến hành thành lập một đội Lực lượng Đặc biệt gồm những nhân viên Sở Liên lạc đã kinh qua khóa đào tạo biệt động cũng do Lê Quang Tung chỉ huy. Đến năm 1963, nhận thấy hoạt động của các nhân viên sở Liên lạc trùng lắp với đội Lực lượng Đặc biệt, Lê Quang Tung đề nghị với Diệm sát nhập hai đơn vị này lại để thành lập Lực lượng Đặc biệt. Lực lượng Đặc biệt của Lê Quang Tung trở thành một đơn vị con của Lực lượng Đặc biệt Mỹ, chịu sự điều khiển của cố vấn Mỹ và sử dụng ngân khoản của Bộ chỉ huy viện trợ quân sự Mỹ (Cơ quan viện trợ quân sự của Mỹ có tên tắt là MAAG).

Ngô Đình Diệm và lực lượng đặc biệt.
Cùng hoạt động với Lực lượng Đặc biệt của Việt Nam Cộng hòa, lực lượng đặc biệt của Mỹ cũng đặt bản doanh tại Nha Trang gồm 24 toán được phân loại thành nhiều nhiệm vụ theo mã chữ cái.
Theo hồ sơ giải mật của CIA, kể từ khi thành lập lực lượng đặc biệt Việt Nam Cộng hòa, Lê Quang Tung đã đẩy hơn 20 toán điệp vụ xâm nhập phá hoại miền Bắc.
Thời điểm này, Lucien Conein và Lê Quang Tung thường xuyên cùng nhau lập kế hoạch xâm nhập miền Bắc.
Trước khi thực hiện chuyến xâm nhập đầu tiên, Lê Quang Tung đã cử 1 điệp viên làm “chuột bạch” thí nghiệm.
Theo kế hoạch, tên gián điệp này lận vào người các loại giấy tờ giả rồi ôm bánh xe tải bơi qua sông Bến Hải vượt vỹ tuyến lên bờ phía Bắc rồi hòa nhập vào cộng đồng dân cư vài tuần rồi trở về chứ không cần hành động gì cả. Tuy nhiên, Lê Quang Tung hoàn toàn không ngờ, do sợ chết, tên này vừa lên bờ mạn Bắc đã chui vào bụi rậm nằm chết dí suốt 2 tuần chẳng dám đi đâu rồi trở về.
Thấy tên gián điệp này trở về nguyên vẹn, Lê Quang Tung, Lucien Conein lẫn Collby – Trùm CIA tại Sài Gòn phấn khởi. Cả ba tin rằng những chuyến xâm nhập khác sẽ thành công.
Đến năm 1961, Lê Quang Tung mới cho toán gián điệp đầu tiên đi thuyền bí mật xâm nhập vào Vĩnh Linh vài giờ rồi bí mật quay về để thử tài phản gián của ta. Chúng đâu biết rằng, mọi hành vi đó đều được các bộ phận phản gián của ta ghi chép đầy đủ.
Toán gián điệp thứ hai tức là toán đầu tiên chính thức xâm nhập miền Bắc được huấn luyện kỹ lưỡng suốt 1 năm trời tại Nha Trang. Toán này được máy bay thả xuống tại khu phi quân sự DMZ giáp giới 2 miền Nam – Bắc rồi đi bộ, vượt sông tiến sâu vào miền Bắc.
Lê Quang Tung không ngờ, những chuyến xâm nhập thử nghiệm của ông ta đã được lực lượng Công an của ta theo dõi sát sao. Ta biết, đó là chuyến xâm nhập thử nghiệm nên không bắt mà để gián điệp “chuột bạch” ung dung trở về nơi xuất phát.
Đến chuyến thứ ba Lê Quang Tung mới thật sự tung gián điệp vào miền Bắc hoạt động. Chuyến này ông ta cho máy bay thả dù toán gián điệp. Ngay từ khi đặt chân xuống miền Bắc, toán gián điệp này đã bị bắt gọn. 19 phi vụ sau đó cũng bị dân quân miền Bắc tóm gọn.
Lê Quang Tung đã được xem như là một trong số sĩ quan quân đội hết lòng tôn thờ và trung thành với anh em Ngô Đình Diệm. Chính vì vậy, Lê Quang Tung bị đứa con nuôi của anh em Ngô Đình là Tôn Thất Đính ghét cay đắng vì ganh tỵ.
Ăn lương Mỹ để ám sát… đại sứ Mỹ
Trong biến cố Phật đản miền Trung xảy ra vào giữa năm 1963, Ngô Đình Nhu đã tung lực lượng đặc biệt của Lê Quang Tung trấn áp thô bạo dã man tín đồ biểu tình, tấn công các cơ sở Phật giáo, tấn công chùa Xá Lợi vào ngày 21-8-1963 gây phẫn nộ dư luận quốc tế. Song song đó, một kế hoạch khác do Ngô Đình Nhu soạn thảo giao cho Lê Quang Tung thực hiện là sử dụng lực lượng đặc biệt cải trang tiếp cận tòa đại sứ Mỹ phóng hỏa, gây rối loạn an ninh rồi ám sát Đại sứ Henry Cabot Lodge cùng một vài nhân vật quan trọng của tòa đại sứ Mỹ. Kế hoạch này được ấn định thực hiện trong tháng 9-1963.

Lực lượng đặc biệt vừa xâm nhập miền Bắc đã rơi vào rọ của ta giăng sẵn.
Không may cho Nhu, một sỹ quan của lực lượng đặc biệt có người yêu làm nhân viên ở tòa đại sứ đã tiết lộ kế hoạch này. Bị bại lộ, Ngô Đình Nhu rút lệnh thực hiện.
Các quan chức Mỹ rất phẫn nộ vì toàn bộ hoạt động của lực lượng đặc biệt được Mỹ tài trợ lại trở đầu cắn vào họ. Họ cho rằng Mỹ đã “nuôi ong tay áo” khi viện trợ ngân khoản vô hạn mức cho Lực lượng Đặc biệt. Vì vậy, ngày 19-10-1963, Tướng Paul D. Harkins – Chỉ huy trưởng Bộ chỉ huy Viện trợ Quân sự Mỹ tại Việt Nam chính thức thông báo cho Diệm biết ngân khoản Hoa Kỳ dành cho Lực lượng Đặc biệt VNCH bị cắt. Mỹ mượn cớ vụ Nhu có kế hoạch ám sát Đại sứ Mỹ để cắt viện trợ lực lượng đặc biệt.
Và khi Lucien Conein bắt đầu soạn thảo kế hoạch đảo chính Ngô Đình Diệm, dòng đầu tiên được viết bằng mực đỏ: Phải giết Lê Quang Tung.
Họ e ngại, nếu còn sống, Lê Quang Tung sẽ tung hê những thông tin tối mật về lực lượng đặc biệt. Vì vậy, hơn cả đám quân nhân đảo chính, CIA muốn Lê Quang Tung phải chết ngay khi chế độ Ngô Đình Diệm không tồn tại.
Để giết gọn nhân vật đáng gờm này đồng thời vô hiệu hóa lực lượng đặc biệt, Lucien Conein đề nghị các tướng lĩnh đảo chính đã phải thực hiện mật kế “điệu hổ ly sơn”.
Từ mật kế này, vào ngày 28-10-1963, Trần Thiện Khiêm gửi một bản báo cáo đến Ngô Đình Diệm cho biết lực lượng tình báo phát hiện có một nhóm lực lượng Giải phóng quân chính qui xuất hiện ở khu vực Hố Bò, Củ Chi. Với bản báo cáo dỏm đó, Trần Thiện Khiêm có lý do điều hết lực lượng cơ hữu của lực lượng đặc biệt thực hiện cuộc hành quân truy lùng.
Với lý do bảo vệ “thủ đô” Sài Gòn, Trần Thiện Khiêm đã điều động một lực lượng quân sự có mật danh là “Chiến đoàn Vạn Kiếp”, đóng quân bao quanh khu vực bắc ngoại thành. Lực lượng này được báo cáo với Diệm là một đơn vị của Sư đoàn 5 Bộ binh.
Lúc 7 giờ sáng ngày 1-11-1963, Đại úy Phạm Bá Hoa – Chánh văn phòng của tướng Trần Thiện Khiêm nhận được 2 danh sách liệt kê các nhân vật quan trọng “phải mời cho bằng được” đến Bộ tổng Tham mưu họp. Những nhân vật trong danh sách này đều thuộc cánh trung thành với Ngô Đình Diệm, sẽ bị câu lưu tại phòng số 1, hạn định thời gian chậm nhất là 1 giờ trưa. Một danh sách khác gồm những người thuộc phe ủng hộ đảo chánh được mời đến dùng cơm trưa tại câu lạc bộ Bộ tổng Tham mưu lúc 12 giờ.
Từ sáng sớm ngày định mệnh, Tôn Thất Đính đã gọi điện cho Lê Quang Tung trò chuyện để thăm dò xem ông ta có mặt ở Bộ chỉ huy lực lượng đặc biệt hay không.
Khoảng 11 giờ, xác định Lê Quang Tung đang thư giãn ở nhà, Trần Thiện Khiêm đích thân gọi điện mời đến Bộ Tổng Tham mưu họp khẩn về vấn đề an ninh quốc gia. Lê Quang Tung hoàn toàn không nghi ngờ, đã cùng tài xế lái chiếc xe du lịch Tration đến Bộ Tổng Tham mưu.
Đến 1 giờ trưa, hầu hết các tướng tá đảo chính cùng với những người trung thành nhất của Ngô Đình Diệm đã có mặt đông đủ tại phòng họp số 1 Bộ tổng Tham mưu. Tướng Dương Văn Minh và tướng Trần Văn Đôn cùng bước vào phòng họp, quát lớn: “Hội đồng tướng lĩnh quyết định lật đổ chính quyền Ngô Đình Diệm. Ai không đồng ý hợp tác đứng lên!”.
Có 5 người đứng bật lên gồm: Đại tá Lê Quang Tung – Tư lệnh lực lượng đặc biệt; Trung tá Nguyễn Ngọc Khôi – Tư lệnh Liên binh Phòng vệ Phủ tổng thống; Thiếu tá Nguyễn Đức Xích, Tỉnh trưởng Gia Định; Trần Văn Tư – Giám đốc Nha Cảnh sát Đô thành; Đại tá Cao Văn Viên – Tư lệnh Lữ đoàn Dù.
Ông Ch – Một nhân chứng sống, đã từng là sỹ quan quân cảnh có mặt trong buổi họp đầy mùi tử khí đó, hiện đang định cư tại California kể: “Lúc đầu ông Viên đứng lên để phản đối đảo chính. Nhưng khi nhìn quanh chỉ thấy có 4 người đã nhanh trí nói, tôi không chống đối việc đảo chính nhưng là một quân nhân tôi không tham gia chính trị, xin được đứng ngoài. Dứt lời, ông ta ngồi xuống. Thế là chỉ còn 4 người đứng”.
Thấy Viên ngồi xuống, Lê Quang Tung vẫn trợn mắt quát: “Tụi bây đeo lon, mặc áo, thụ hưởng phú quí, lạy lục để được Tổng thống Diệm ban ơn mà nay lại giở trò bất nhân bất nghĩa…”. Tung chưa dứt câu đã bị Đại úy Nguyễn Văn Nhung kè vai, khóa tay lôi xểnh ra khỏi phòng họp. Một nhóm quân cảnh khác cưỡng bức 3 người còn lại đi theo Đại úy Nhung.
Những người chứng kiến xanh xám mặt mày. Không khí trong phòng họp trở nên im ắng như đáy mồ.
Thiếu tá Lê Quang Triệu – Phó Tham mưu Hành quân và Tiếp vận lực lượng đặc biệt, là em ruột của Tung, đang ở căn cứ Long Thành nghe tin anh mình bị bắt, đã cùng với Trung úy Lê Văn Hành – Chánh văn phòng của Lê Quang Tung tức tốc đi thẳng vào Bộ tổng Tham mưu để hỏi thăm tin tức, cũng bị giữ lại.
Trung tá Phạm Bá Kỳ – Trưởng Phòng 3 của Liên đoàn 77 Lực lượng Đặc biệt nghe tin đã dẫn một tiểu đội xông vào Bộ Tổng Tham mưu cũng bị tước vũ khí đẩy vào phòng giam. Trong khi đó, cuộc đảo chính bùng nổ.
Đến 10 giờ tối, một nhóm quân cảnh còng tay những người bị giam đưa lên xe vận tải bộ binh chạy thẳng đến khám Chí Hòa giam giữ. Trong khi đó, hai anh em Lê Quang Tung và Lê Quang Triệu bị đẩy vào một chiếc xe cứu thương của quân đội. Chiếc xe chạy về hướng cổng sau của Bộ Tổng tham mưu. Đại úy Nguyễn Văn Nhung được lệnh đi theo chiếc xe này.
Khi chiếc xe cứu thương chạy ra khỏi cổng sau của Bộ tổng Tham mưu, đến đoạn đường vắng của nghĩa địa Bắc Việt Tương Tế, Nhung ra lệnh cho xe dừng lại rồi dùng báng súng thúc mạnh vào be sườn Lê Quang Tung bảo xuống xe. Lê Quang Tung thét: “Các anh định làm gì tôi?”. Nhung chẳng nói chẳng rằng rút lưỡi lê đâm tới tấp khiến Tung gục chết tại chỗ. Sau đó, Nhung cùng 1 một quân cảnh khác lôi cổ Triệu xuống xe đâm tới tấp cho đến chết.
Khi cả hai anh em Tung, Triệu đã chết hẳn, Nhung ra lệnh vùi xác cả hai vào một đống cỏ, rác.
Sau khi kết thúc đảo chính, thân nhân của Tung và Triệu men theo lời kể của các nhân chứng, vào nghĩa trang tìm thi thể để an táng. Tuy nhiên, đống cỏ, rác bừa bãi. Có lẽ những con chó hoang đã tha mất thi thể của 2 người.
Lê Quang Tung chết, toàn bộ kế hoạch xâm nhập miền Bắc của Tung chết theo. Những toán gián điệp của Tung được quân đảo chính sàng lọc kỹ. Một số bị điều chuyển về các đơn vị thuần chiến đấu, một số bị đuổi ra khỏi quân đội, một số bị Mỹ tiếp tục tung ra miền Bắc để… chết.
Nông Huyền Sơn
***
Giải mã cái chết của Lê Quang Tung và Hồ Tấn Quyền trong vụ đảo chính Ngô Đình Diệm (kỳ cuối)
ANTG – Thứ Năm, 23/03/2017, 18:05
Với CIA, người thứ hai nằm trong danh sách phải chết của kế hoạch đảo chính Ngô Đình Diệm là Hồ Tấn Quyền – Tư lệnh Hải Quân, một binh chủng hoạt động dưới nước, không liên quan đến vụ đảo chính xảy ra trên bộ. Tuy nhiên, ông ta trực tiếp chỉ huy một lực lượng đặc biệt mà CIA không có cách nào quản lý. Vì vậy, ông ta phải chết.
- Giải mã cái chết của Lê Quang Tung và Hồ Tấn Quyền trong vụ đảo chính Ngô Đình Diệm (kỳ 2)
- Giải mã cái chết của Lê Quang Tung và Hồ Tấn Quyền trong vụ đảo chính Ngô Đình Diệm
Kỳ cuối: Cái chết của Hồ Tấn Quyền
Con đường hoạn lộ của viên tư lệnh
Hồ Tấn Quyền sinh ngày 1-01-1927 tại Đà Nẵng, là 1 trong những người Việt Nam được quân đội Pháp đào tạo sỹ quan hải quân bài bản đầu tiên tại miền Nam Việt Nam. Theo hồ sơ lưu trữ thì ông ta học khóa I sỹ quan chỉ huy hải quân tại Nha Trang. Khóa này chỉ đào tạo 9 sinh viên sĩ quan gồm: 6 sỹ quan ngành chỉ huy và 3 sỹ quan ngành cơ khí. Sau khi kết thúc đợt thực tập trên các chiến hạm và hải đoàn Pháp, ngày 01-10-1952, ông ta tốt nghiệp với cấp bậc thiếu úy hải quân. 7 năm sau, ngày 06-08-1959 ông ta đã leo lên vị trí tư lệnh hải quân. Xem ra con đường thăng tiến của ông ta nhanh như vũ bão.
Trước khi cuốn cờ rút quân về nước, theo sự thỏa thuận với Mỹ, ngày 20-08-1955, quân Pháp đã để lại lực lượng hải quân cho chính quyền bù nhìn Bảo Đại. Hồ Tấn Quyền – Sỹ quan hải quân Pháp trở thành Hồ Tấn Quyền – Sỹ quan “Quốc Gia Việt Nam”. Khi Diệm hất Bảo Đại văng khỏi chính trường miền Nam Việt Nam, Hồ Tấn Quyền trở thành Phó Tư lệnh Hải quân Việt Nam Cộng hòa (VNCH).
2 năm sau, Hồ Tấn Quyền được Diệm giao chức Tư lệnh Hải quân. Mặc dù thể chế chính trị được thay đổi từ “Quốc Gia Việt Nam” sang “Việt Nam Cộng Hòa” nhưng “quân sử VNCH” vẫn công nhận tiền thân Hải Quân VNCH là Hải Quân “Quốc Gia Việt Nam”. Vì vậy Đại tá Lê Quang Mỹ được xem là tư lệnh Hải quân đầu tiên của hải quân VNCH và Hồ Tấn Quyền là viên tư lệnh thứ ba của lực lượng này vào năm 1959.
Kể từ khi được Ngô Đình Diệm trao quyền chỉ huy lực lượng hải quân, ông ta đã cải tổ và thành lập nhiều đơn vị mới cho VNCH. Ông ta được Diệm ca ngợi như một hiện tượng sáng chói của chế độ. Thật ra, để có con đường thăng tiến nhanh, không ít lần ông ta đã phải mọp đầu, gập cổ trước bạo chúa miền Trung Ngô Đình Cẩn để gia nhập đảng “Cần lao”.
Nhờ biết “nâng bi” cậu Út Cẩn nên Hồ Tấn Quyền được xem là đảng viên trung kiên của “Cần lao” và là tôi tớ trung thành của gia đình họ Ngô Đình. Sau khi bội ước, tráo trở hất Bảo Đại để leo lên ghế tổng thống, Diệm đã liên tục thăng cấp để trao quyền chỉ huy hải quân cho Hồ Tấn Quyền.

Hồ Tấn Quyền.
Đặc biệt, Hồ Tấn Quyền còn được Diệm trao quyền chỉ huy trực tiếp 1 lực lượng hải quân hoạt động bí mật. Đó là biệt đội người nhái.
Vào tháng 7-1960, Hồ Tấn Quyền đích thân tuyển chọn 8 thuộc hạ đưa sang Đài Loan để thụ huấn nghiệp vụ “thợ lặn” do lực lượng Hải quân Đài Loan huấn luyện. 5 tháng sau, 8 “thợ lặn” này trở thành huấn luyện viên đặc biệt tại Bộ Tham mưu Hải quân Việt Nam Cộng hòa. Nhiệm vụ đầu tiên của toán người này là đi khắp các đơn vị Hải quân tuyển chọn nhân sự để thành lập 1 biệt đội có cái tên rất dân dã: “người nhái”.
Biệt đội người nhái này được đưa ra vùng biển Vũng Tàu huấn luyện những kỹ năng đột nhập, ám sát và phá hoại. Kẻ duy nhất nắm rõ mọi hoạt động của biệt đội người nhái là Ngô Đình Nhu và Hồ Tấn Quyền. CIA rất bực bội vì không nắm được hoạt động của toán người nhái này.
Trong thời điểm các lực lượng biệt kích do Lê Quang Tung và Mỹ đưa ra miền Bắc phá hoại, một toán biệt đội người nhái cũng được Ngô Đình Nhu bí mật đưa ra phía Bắc để thử nghiệm. Toán này do Lê Văn Kinh chỉ huy. Nhiệm vụ của nhóm này là đặt mìn phá hủy một số tàu thuyền đánh cá của ngư dân. Xui cho chúng, khi ra đến nơi, chưa kịp hành động gì thì đã bị dân quân của ta bắt gọn.
Nằm ngoài sự kiểm soát của Mỹ nên biệt đội người nhái này sẽ trở thành mối hiểm họa nếu chế độ Ngô Đình Diệm không tồn tại nữa. Đó là lý do cố vấn CIA, đã liệt Hồ Tấn Quyền vào danh sách ưu tiên… chết trong cuộc đảo chính đẫm máu.
Sau khi Diệm bị giết, Mỹ mới cho phép Việt Nam Cộng hòa thành lập chính thức và huấn luyện lực lượng người nhái (biệt đội Hải Kích SEAL – Sea, Air and Land) đầu tiên với 41 người tại Nha Trang vào cuối năm 1963.
Phi vụ ám sát một tư lệnh
Từ trước đến nay, nhiều người truyền tai nhau câu chuyện cái chết của Hồ Tấn Quyền trong cuộc đảo chính 01-11-1963 rất oanh liệt. Theo đó thì, khi cuộc đảo chính nổ ra, đại úy Nguyễn Kim Hương Giang cùng với vài sỹ quan đi xe đến tận tư dinh của đại tá Quyền để bắt sống.
Đại úy Giang vừa đến nơi thì thấy Quyền lái xe Traction ra khỏi cổng. Đại úy Giang đã cho xe jeep rượt đuổi theo. Mặc dù bị truy sát gắt gao nhưng ông Quyền vẫn điềm tĩnh lái xe về hướng một đơn vị quân sự ở Biên Hòa để tập họp lực lượng chống đảo chính. Khi đến Thủ Đức, ông bị Giang đuổi kịp, bắn chết.
Sự thật không đúng như vậy. Khi bị giết, Hồ Tấn Quyền hoàn toàn không hay biết gì về cuộc đảo chính sắp xảy ra. Thậm chí không biết lý do mình bị giết.

Biệt đội người nhái.
Theo tài liệu giải mật của CIA, nhóm sỹ quan đảo chính đã soạn thảo riêng 1 kế hoạch dành cho số phận Hồ Tấn Quyền từ những ngày giữa tháng 10-1963, tức trước khi khởi sự đảo chính 1 tháng. Họ giao cho trung tá Chung Tấn Cang – Chỉ huy trưởng lực lượng Giang thuyền đảm nhận nhiệm vụ tiêu diệt Hồ Tấn Quyền.
Khi được giao nhiệm vụ, Chung Tấn Cang móc nối với thiếu tá Trương Ngọc Lực – Chỉ huy lực lượng Hải quân Vùng III Sông Ngòi và đại úy Nguyễn Kim Hương Giang – Chỉ huy trưởng Giang đoàn 24. Cả hai đều được Hồ Tấn Quyền xem là thuộc hạ thân tín.
Lực và Giang là kẻ nợ ân nghĩa với Hồ Tấn Quyền rất nhiều. Trương Ngọc Lực vừa được Hồ Tấn Quyền thăng từ hàm đại úy lên thiếu tá trước đó 5 ngày. Còn Nguyễn Kim Hương Giang trước kia là sỹ quan thuộc lực lượng Thủy quân Lục chiến – Vốn là 1 đơn vị “máu lửa” dễ chết – thuộc quyền của Hồ Tấn Quyền.
Vốn sợ chết, Hương Giang luôn tìm cách xin về đơn vị “an toàn”. Thời may, vợ của Giang tình cờ quen vợ của Hồ Tấn Quyền trong 1 chuyến làm công tác từ thiện. Vợ của Giang tận dụng cơ hội đút lót một mớ tiền và năn nỉ vợ Hồ Tấn Quyền xin Giang về Hải quân. Nghe lời vợ, Hồ Tấn Quyền “rút” Giang từ Thủy quân Lục chiến về Hải quân.
Nhóm đảo chính tận dụng sự thân tình của Lực và Giang để thực hiện kế “điệu hổ ly sơn”, mời Hồ Tấn Quyền ra khỏi Bộ Tư lệnh Hải quân rồi hạ sát.
Sáng sớm ngày 1-11-1963, khi lực lượng đảo chính chưa khai hỏa, thiếu tá Trương Ngọc Lực và đại úy Nguyễn Kim Hương Giang mặc thường phục đến tận sân tenis mời Hồ Tấn Quyền đi Biên Hòa với lý do họ đã tổ chức tiệc mừng sinh nhật lần thứ 36 cho Hồ Tấn Quyền tại đó để trả ơn.
Lúc đầu, Hồ Tấn Quyền từ chối nhưng do có chủ đích nên Lực và Giang cứ cày cục năn nỉ. Thấy đệ tử quá sốt sắng, Hồ Tấn Quyền không đành lòng từ chối. Ông ta lấy chiếc xe du lịch Citroen (không phải Traction như đồn đoán), đích thân cầm lái chở hai kẻ đồ tể đi mà không hề biết đang đi vào tử lộ. Trương Ngọc Lực ngồi cạnh Hồ Tấn Quyền ở ghế trước và Nguyễn Kim Hương Giang ngồi ghế sau.
Xe vừa đến khu vực vắng ở Thủ Đức, Trương Ngọc Lực bất ngờ rút dao đâm thẳng vào ngực đại tá Quyền. Do nhát gan, run tay, con dao đâm sượt cánh tay của Hồ Tấn Quyền. Vốn là con nhà võ, Hồ Tấn Quyền nhanh như cắt đánh mạnh tay lái đồng thời khóa tay thiếu tá Lực đoạt được con dao. Cả hai giằng co nhau ở ghế trước. Ngồi phía sau, đại úy Giang ung dung rút súng ngắn dí sát đầu ông Quyền siết cò. Viên đại tá đầy quyền lực đổ gục xuống, chết ngay tại chỗ. Để chắc ăn, Giang còn bồi thêm 1 phát vào sau lưng nơi vùng tim nạn nhân. Đúng lúc đó, một chiếc xe jeep xuất hiện. Hai sát thủ vất bừa xác đại tá Quyền vào cốp xe Citroen rồi nhanh chóng lên chiếc xe jeep trở về Sài Gòn.
Sau đó, một nhóm quân nhân được lệnh đến hiện trường đưa thi thể Hồ Tấn Quyền về nhà chứa xác Tổng Y viện Cộng hòa (Nay là bệnh viện 175) ở Gò Vấp. Khi Quyền bị giết, người vợ đang đi học giải phẫu thẩm mỹ ở nước ngoài. Người ta chỉ thông báo cho bà biết Quyền “bị thương nặng”.
Cuộc “đảo chính” bên trong Bộ tư lệnh Hải quân
Về đến Sài Gòn, Lực và Giang ném bỏ bộ thường phục vấy máu, thay quân phục Hải quân vào rồi đi đón đoàn xe vận tải GMC chở 2 đại đội tân binh do đại tá Đỗ Kiến Nhiễu chỉ huy đang từ trung tâm huấn luyện Quang Trung tiến chiếm Bộ Tư Lệnh Hải quân. Nhờ 2 bộ quân phục sỹ quan Hải quân của Lực và Giang mà đoàn tân binh dễ dàng xâm nhập Bộ Tư lệnh Hải Quân.

Nguyễn Kim Hương Giang (người thứ ba tính từ bên phải).
Ngay khi xâm nhập thành công, Giang chỉ huy đám tân binh bất ngờ và êm thấm chiếm lĩnh các vị trí trọng yếu trong khu vực, chong súng ra lệnh binh sĩ Hải quân hạ súng đầu hàng. Trong khi đó, Lực đến Phòng Tham mưu Tư lệnh Hải quân khống chế trung tá Đặng Cao Thăng – Tham mưu trưởng Hải quân để lục tìm hồ sơ biệt đội người nhái. Tuy nhiên, hồ sơ biệt đội này luôn nằm trong cặp của Ngô Đình Nhu. Và Nhu đã tiêu hủy hồ sơ trước khi rời khỏi phủ tổng thống vào khuya ngày 2-11-1963.
Cuộc đảo chính tại Bộ tư lệnh Hải quân thành công. Lúc 13 giờ 30 phút, Trung tá Chung Tấn Cang đến tiếp nhận vai trò chỉ huy lực lượng Hải quân.
Kết thúc đảo chính, trung tá Cang được thăng đại tá, thiếu tá Lực được thăng trung tá và đại úy Giang được thăng thiếu tá.
Biệt đội người nhái của Hồ Tấn Quyền trở thành bóng ma không hồ sơ.
Ngày đám ma Hồ Tấn Quyền, đám người nhái đến trước quan tài đốt nhang khấn sẽ trả thù cho Hồ Tấn Quyền. Nghe tin, Lực và Giang nháo nhào đến gặp Dương Văn Minh xin được “xử lý” nhóm người nhái này. Tuy nhiên, khi Lực kéo quân đến nơi, nhóm người nhái đã kịp biến mất.
Lo sợ bị tàn quân người nhái trả thù, Lực xin Dương Văn Minh đi làm tùy viên quân sự Đại sứ quán ở Thái Lan. Sau khi cướp quyền lực từ tay Dương Văn Minh, “quốc trưởng” Nguyễn Khánh triệu hồi Lực về Sài Gòn. Sợ bị trả thù, Lực cởi bỏ quân phục, trốn ra ngoài làm Việt kiều lậu. Vẫn lo sợ bị ám hại, Lực trốn qua Campuchia cư trú một thời gian rồi sang Pháp định cư. Nỗi sợ hãi bị ám sát đeo đẳng mãi khiến ông ta bị điên. Ông ta chết đau đớn trong một viện tâm thần ở Pháp.
Còn Hương Giang thì xin ra Duyên Khu Hải quân ở đảo Phú Quốc làm cố vấn. Sau năm 1975 ông ta định cư một cách âm thầm ở Califonia.
Cuộc đảo chính “quân Quốc gia chiến thắng quân Việt Nam Cộng hòa” đã khiến 20 người chết và 145 người bị thương (kể cả số thường dân bị vạ lây).
Việc đưa Lê Quang Tung và Hồ Tấn Quyền vào kịch bản đảo chính đã chứng minh rằng, CIA đã quyết tâm xóa sạch tất cả những gì thuộc về Ngô Đình Diệm – Một chính quyền do chính CIA dựng lên.
Nông Huyền Sơn