Vì sao trẻ con không biết viết (viết văn, viết luận)

English: Why Kids can’t write

* Bài viết bàn về vấn đề viết văn và khả năng viết kém nói chung của học sinh, sinh viên tại Mỹ, nhưng cũng là vấn đề chung của học sinh Việt Nam.

Vào một buổi sáng tháng 7 rực rỡ trong căn phòng hội nghị kín mít tại hiệu sách Manhattan, vài chục giáo viên tiểu học đang học cách tạo ra các bảng tính có thể giúp trẻ em học cách viết.

Judith C. Hochman, nhà sáng lập của tổ chức có tên Cách Mạng Viết, đưa ra các ví dụ về bài viết của học sinh viên. Học sinh cấp 1 viết một vế câu tiếng Anh: Plants need water it need sun to “Cây cối cần nước nó cần ánh sáng mặt trời to” – thế đó “Cây cối cần nước và ánh sáng mặt trời nữa”. Nếu học sinh không học cách sửa những chỗ không tương đồng về đại từ và thiếu sự thiếu liên kết, thì ở trường trung học học sinh vẫn có thể sẽ viết như này: “Well Machines are good but they take people jobs like if they don’t know how to use it they get fired.” “Các Cỗ máy Well rất tốt nhưng chúng lấy việc làm của con người như thể nếu họ không biết cách sữ dụng nó họ sẽ bị đuổi việc”. Đó là một bài viết thực sự trong phần tiểu luận của bài thi ACT của học sinh trung học.

“Tất cả bắt đầu bằng một câu.” – tiến sĩ Hochman nói.

Tập trung vào các nguyên tắc cơ bản của ngữ pháp là một phương pháp tiếp cận để dạy viết. Tuy nhiên điều đó không phải là cách chiếm ưu thế hoàn toàn. Nhiều nhà giáo dục quan tâm ít hơn về các cơ chế ngữ pháp ở mức độ câu và thay vào đó giúp đỡ học sinh lấy cảm hứng từ cuộc sống của các em và từ văn học.

Cách đó Ba mươi dặm ở Trường cao đẳng cộng đồng Nassau, Meredith Wanzer, một giáo viên trung học và giảng viên với dự án Viết ở Long Island, đã tổ chức hội thảo kéo dài một tuần với sự tham gia bởi 6 cô gái tuổi teen. Mục đích là để chuẩn bị cho các em viết bài luận tuyển sinh đại học – thể loại viết tinh tế đó kêu gọi một sinh viên phải làm nổi bật các điểm mạnh của cô (không phải là khoe khoang) và kể một câu chuyện cá nhân sống động (mà không phải tự sáng tác ra).

Cô Wanzer đã hướng dẫn học sinh viết tự do, một chiến lược viết phổ biến trong các lớp Tiếng Anh mà không cần dừng lại hay phán xét. Đầu tiên, cô ấy đọc to tác phẩm “Bird by bird”, cuốn sách cổ điển của Anne Lamott viết năm 1995 về cách viết ra sao để có tiếng nói. “Bạn có được trực giác của mình khi bạn tạo không gian cho trực giác, khi bạn ngừng bàn tán về bộ óc lý trí”, trích hồi kí. “Lí trí vắt ra nhiều thứ ngon ngọt và hấp dẫn.”

Cô Wanzer sau đó yêu cầu các sinh viên dành vài phút viết những gì các em thích sau đoạn trích trong cuốn sách của Lamott. Lyse Armand, một học sinh đang lên tại trường trung học Westbury, đã dựa vào cuốn sổ tay của cô. Em đã dự định nộp đơn vào trường đại học New York, đại học Columbia và đại học Stony Brook và em đã có ý tưởng cho câu chuyện em sẽ kể trong bài luận. Bài viết có thể, em nghĩ, liên quan đến sự di cư của gia đình em từ Haiti do động đất năm 2010 tàn phá toàn bộ hòn đảo. Tuy nhiên, em đã vật lộn để tìm cách bắt đầu và chính xác với những gì em ấy muốn nói.

“Tiếng nói gì trong đầu tôi?” em viết trong bài trả lời của mình cho bài tiểu luận sau khi nghe đoạn trích của Lamott. “Tôi không có tiếng nói.”

Lyse cần một ý thức về “quyền sở hữu” về những gì em viết, cô Wanzer nói. Lyse có kĩ năng về câu chữ vô cùng vững vàng. Tuy nhiên, thậm chí khi cô Wanzer gặp phải học sinh ít và lớn tuổi hơn có bài luận với những câu không hoàn chỉnh – không phải chuyện hiếm gặp – cô giới hạn thời gian của mình dành cho những chủ đề buồn tẻ như sự hợp nhất của động từ – chủ ngữ. “Bạn hi vọng rằng bằng cách đưa các em đến với những bài viết vĩ đại, các em sẽ bắt đầu lắng nghe xem có chuyện gì xảy ra.”

Ba phần tư học sinh của cả khối 12 và khối 8 không có khả năng viết lách, theo như đánh giá tiến độ giáo dục quốc gia gần nhất tại Mỹ. Và gần 40% của những học làm bài thi ACT ở các trường trung học năm 2016 thiếu mất kĩ năng đọc và viết cần thiết để hoàn thành một lớp sáng tác bằng tiếng anh, theo dữ liệu của một công ty.

Khả năng Viết kém không phải là chuyện mới mẻ, cũng xưa như mối bận tâm về vấn đề này. Hơn nửa số sinh viên năm nhất ở Harvard trượt trong bài thi tuyển sinh viết đầu vào trong năm 1874. Tuy nhiên, Các tiêu chuẩn cốt lõi chung của liên bang / Common Core State Standards, đang được sử dụng tại hơn hai phần ba các bang, đã được cho là sẽ thay đổi vấn đề này. Bằng cách yêu cầu sinh viên học ba thể loại của viết luận – lập luận, tranh biện và tường thuật – Tiêu Chuẩn cốt lõi đã đưa ra một yêu cầu cho việc viết là trọng tâm chương trình giảng dạy của Mỹ. Tiêu chuẩn đại diện cho một sự thay đổi khổng lồ sau kỉ nguyên Không có đứa trẻ nào bị bỏ lại phía sau / No Child Left Behind, luật liên bang năm 2002 chủ yếu bỏ qua việc viết để ủng hộ việc đọc hiểu được đánh giá bằng cách kiểm tra trắc nghiệm tiêu chuẩn.

Tuy nhiên, cho đến nay, sáu năm sau khi khởi động, Tiêu chuẩn cốt lõi chưa dẫn đến nhiều cải tiến có thể đo lường được trên giấy. Sinh viên tiếp tục bước vào trường đại học với nhu cầu cần khắc phục các kỹ năng viết cơ bản.

Căn nguyên của vấn đề, các nhà giáo dục đồng ý, là các giáo viên ít được đào tạo về cách dạy viết và thường là những nhà văn yếu đuối hoặc không tự tin về khả năng viết của chính bản thân . Theo như Kate Walsh, chủ tịch hội đồng quốc gia về chất lượng giáo viên, việc rà soát các giáo trình khóa học từ 2400 chương trình chuẩn bị cho giáo viên đã đưa ra ít bằng chứng cho thấy việc dạy viết được bao quát phổ biến hoặc có hệ thống.

Một nghiên cứu độc lập năm 2016 cho khoảng 500 giáo viên khối lớp ba đến lớp tám tại Mỹ, được thực hiện bởi Gary Troia thuộc đại học bang Michagan và Steve Graham của đại học bang Arizona, đã tìm thấy chưa đến một nửa giáo viên đã tham gia lớp học ở đại học có chủ yếu thời gian dành cho việc dạy viết cho học sinh, trong khi ít hơn một phần ba giáo viên đã thay gia một lớp học chỉ dành cho dạy trẻ em học viết văn. Không có gì đáng ngạc nhiên, vì thiếu sự chuẩn bị, chỉ có 55% số giáo viên được hỏi cho biết họ thích bộ môn viết.

“Hầu hết các giáo viên đều là những người đọc tuyệt vời”, tiến sĩ Troia nói. “Họ đã thành công ở trường đại học, thậm chí có thể tốt nghiệp đại học, Tuy nhiên khi bạn hỏi hầu hết các giáo viên về sự thoải mái của họ với công việc viết hay kinh nghiệm viết của họ, họ không làm gì nhiều hoặc không cảm thấy thoải mái với việc viết.”

Có những tranh luận sôi nổi về cách tiếp cận nào là tốt nhất. Cái gọi là quá trình viết, như bài học Lyse đã trải qua ở Long Island, nhấn mạnh rằng các hoạt động như lên ý tưởng, viết tự do, viết nhật kí về trải nghiệm cá nhân và sửa bài cho nhau. Các học viên lo lắng rằng việc tập trung quá nhiều vào ngữ pháp hoặc các nguồn trích dẫn sẽ bóp ngạt tiếng nói của người viết và ngăn trẻ em yêu thích việc viết lách như một hoạt động.

Hệ tư tưởng đó có từ những năm 1930, khi mà các nhà giáo dục tiến bộ bắt đầu chuyển chương trình dạy viết ra khỏi nghệ thuật viết và đánh vần hướng tới nhận kí và thư cá nhân như một hoạt động giải phóng tâm lý. Sau đó, vào những năm 1960 và 1970, phong trào này đã sử dụng ngôn ngữ của quyền dân sự, cùng với các giáo viên cố gắng trao sức mạnh cho trẻ em da màu và trẻ em nghèo bằng cách khuyến khích các em kể lại kinh nghiệm sống của chính mình.

Chiến lược của tiến sĩ Hochman khác cơ bản: trở lại các vấn đề cơ bản trong cấu trúc câu, từ kết hợp các đoạn riêng lẻ đến sửa lỗi chấm câu cho đến học cách triển khai các trạng từ kết hợp mạnh thường thấy trong văn bản học thuật nhưng không phổ biến trong văn nói, những từ ngữ như “Tuy nhiên”. Sau tất cả, thế hê Snapchat đã sản xuất ra nhiều chữ viết hơn bất kì nhóm thanh thiếu niên nào, viết tin nhắn bằng văn bản và bài đăng trên xã hội truyền thông, tuy nhiên khi nói đến viết lách chính thống mong đợi ở trường học và nơi làm việc, thế hệ Snapchat phải vật lộn với những câu đơn giản.

Tiêu chuẩn cốt lõi – Common Core đã đưa ra một cuộc gọi đánh thức rất cần thiết về tầm quan trọng của việc viết lách có sức sống, Lucy M. Calkins, giám đốc sáng lập Dự án Đọc và Viết tại Đại học Sư phạm, Đại học Columbia, một trung tâm hàng đầu về đào tạo giáo viên trong hướng về quá trình chiến lược trong đọc và viết. Tuy nhiên, các nhà hoạch định chính sách “đã thổi bay nó trong quá trình thực hiện”, cô nói. “Chúng tôi cần giáo dục giáo viên ở diện rộng.”

Một trong những nỗ lực lớn nhất là Dự án Viết quốc gia, với gần 200 chi nhánh đào tạo hơn 100.000 giáo viên mỗi mùa hè. Tổ chức được thành lập vào năm 1974, ở đỉnh cao của kỷ nguyên hướng về quá trình viết.

Là một phần của chương trình tại Đại học Cộng đồng Nassau, trong một lớp học không xa nơi các thanh thiếu niên đang làm bài luận đại học của họ, một nhóm giáo viên – lớp năm và trung học, của môn tiếng Anh, nghiên cứu xã hội và khoa học – đã mài giũa kỹ năng viết riêng của họ. Họ thay phiên nhau đọc to bài viết tự do mà họ vừa thực hiện sau khi đọc “The Lanyard”, một bài thơ của Billy Collins. Bài thơ vui và buồn, nói đến sự vô nghĩa của việc cố gắng trả ơn một người mẹ vì tình yêu của bà:

Đây là một cơ thể thở và một trái tim đang đập, chân, xương và răng, và đôi mắt rõ ràng để đọc thế giới, cô thì thầm, và ở đây, tôi nói, là dây buộc tôi làm ở trại.

Hầu hết các giáo viên đều trả lời nhanh chóng từ việc ca ngợi bài thơ đến ký ức về chính mẹ của họ, làm một số công việc để kiếm sống, hoặc tự chăm sóc con cái. Đó không phải là phê bình văn học tinh vi, nhưng đó không phải là vấn đề. Mục tiêu chính của hội thảo này – thành phần đào tạo giáo viên của Dự án Viết Long Island – là để giáo viên viết và chỉnh sửa lại công việc của chính họ trong mùa hè để vào mùa thu, họ sẽ nhiệt tình và thoải mái hơn khi dạy môn học viết văn cho trẻ em.

“Tôi đã đến trường Công giáo và chúng tôi đã làm bài tập ngữ pháp và khoanh tròn chủ ngữ và vị ngữ, Kathleen Sokolowski, đồng đạo diễn chương trình Long Island và một giáo viên lớp bac ho biết. Cô thấy điều đó thật khó hiểu và tin rằng cô đã phát triển kỹ năng viết của mình bất chấp những bài học như vậy, chưa không phải là vì những bài học như vậy.

Đôi khi, cô nói, cô sẽ củng cố ngữ pháp bằng cách yêu cầu học sinh sao chép một câu từ một cuốn sách yêu thích và sau đó thảo luận về cách tác giả sử dụng một công cụ như dấu phẩy. Nhưng nói chung, khi nói về việc đánh giá công việc của sinh viên, cô ấy nói, tôi phải tự dạy mình cách nhìn xa hơn ‘Chỗ nào không có viết hoa, chỗ đó không có dấu chấm,‘ Chúa ơi, bạn đã viết một câu tuyệt đẹp.”

Bà Sokolowski đã đúng rằng hướng dẫn ngữ pháp chính thống, như là xác định các phần của bài diễn văn, không có tác dụng tốt. Trong thực tế, nghiên cứu phát hiện ra rằng các sinh viên tiếp xúc với một loạt các hướng dẫn như vậy có kết quả tồi hơn trong các bài đánh giá viết.

Một ý tưởng âm nhạc về viết văn – hy vọng rằng tai có thể được đào tạo để “nghe” các lỗi nghe và bắt chước những bài viết chất lượng – đã được phát triển như một sự thay thế phổ biến trong các giáo viên tiếng Anh. Nhưng đối với học sinh gia đình thường là thu nhập thấp, chỉ với một vài cuốn sách ở nhà, thì thường phải vất vả để chuyển từ việc đọc một câu tuyệt đẹp sang biết cách viết một câu? Liệu có thể có cách nào tốt hơn, ít phải trăn trở để thực hiện những điều cơ bản?

Trong các buổi đào tạo giáo viên, Tiến sĩ Hochman tác giả của cuốn Writing Revolution Cách mạng Viết đưa ra hình ảnh một em bé gái dễ thương, nằm ngửa bụng mãn nguyện khi em bò trên trên một tờ giấy sáng tác. Đó là loại hình ảnh có lẽ đã xuất hiện trong hàng trăm bài thuyết trình, có nghĩa là gợi lên một môi trường học tập ấm áp và thoải mái, có lẽ là một trong những bài viết ấm cúng được ưa thích bởi các bậc thầy viết theo hướng quá trình.

“Đây không phải là tư thế viết tốt!”, Tiến sĩ Hochman kêu lên. Trẻ nhỏ nên viết tại bàn, cô tin như vậy. Và trong khi cô không tranh luận về việc quay trở lại các bài học ngữ pháp của năm qua – cô biết sơ đồ câu khiến hầu hết học sinh bối rối và không quan tâm – cô tin rằng trẻ em nên dành thời gian điền vào bảng với các bài tập như dưới đây, thể hiện cách đơn giản những liên kết giống như từ “nhưng”, “vì thế”, “vì vậy”, thêm vào cho tính phức tạp của suy nghĩ. Học sinh được đưa ra mệnh đề gốc và phải hoàn thành câu với mệnh đề mới theo sau mỗi từ kết hợp:

Phân số giống như là số thập phân vì tất cả chúng đều là một phần của tổng thể / Fractions are like decimals because they are all parts of wholes..

Phân số giống như số thập phân, nhưng chúng được viết khác nhau.- Fractions are like decimals, but they are written differently.

Phân số giống như số thập phân, vì vậy chúng có thể được sử dụng thay thế cho nhau. – Fractions are like decimals, so they can be used interchangeably.

Trong quá trình, học sinh đang học để nhớ lại nội dung có ý nghĩa từ toán học, nghiên cứu xã hội, khoa học và văn học. Ở trường trung học, giáo viên nên tạo ra các câu hỏi tiểu luận gợi ý viết phức tạp; không phải là câu hout như “những sự kiện dẫn đến Nội chiến?” – mà có thể dẫn đến một danh sách – nhưng là những câu gợi ý theo kiểu “lần theo các sự kiện dẫn đến Nội chiến”, sẽ yêu cầu một câu chuyện lịch sử về nhân quả.

“Viết tự do, hy vọng rằng trẻ em sẽ học hoặc yêu thích viết lách, không hiệu quả” Giáo sư Hochman nói với các giáo viên, rất nhiều trong số các giáo viên làm việc trong các khu dân cư thu nhập thấp. Cô ấy không tin rằng trẻ em học viết tốt thông qua những kinh nghiệm của bản thân trong một tạp chí và cô hoan nghênh thực tế rằng Tiêu chuẩn cốt lõi Common Core yêu cầu học sinh viết nhiều hơn về những gì học sinh đã đọc và ít nói về cuộc sống của chính các em.

“Tôi gọi đó là một bước đi xa khỏi việc viết bằng lấy trẻ em làm trung tâm”, cô ấy nói một cách tán thành và đi xa những gì cô gọi là những bài tập dễ hiểu, như viết một bài thơ “về một điều gì đó mà các em có thể quan sát được 10 phút trước đó ngoài cửa sổ.”

“Tôi không có ý là chối bỏ viết tự do”, cô tiếp tục, “nhưng mỗi phút trong chỉ dẫn đều có mục đích.”

Buổi đào tạo của cô thiếu đi sự thú vị và tính tương tác của Dự án Viết Long Island, bởi vì đào tạo ít nhắc nhở giáo viên viết và trò chuyện với đồng nghiệp và nói nhiều hơn về công việc đôi khi khô khan của việc chuẩn bị bài tập và viết bài tập củng cố các khái niệm cơ bản. Tuy nhiên, nhiều giáo viên học các chiến lược của Tiến sĩ Hochman trở thành người thực hành rất nghiêm túc.

Molly Cudahy, giáo viên giáo dục đặc biệt lớp năm tại Cơ sở giáo dục Truesdell, một trường công lập ở Washington, D.C., cho biết cô đánh giá cao phương pháp tiếp cận rõ ràng và kỹ thuật của Tiến sĩ Hochman. Cô nghĩ rằng điều này sẽ giải phóng tiếng nói của học sinh của cô mà không hạn chế các em. Tại trường của cô, 100 phần trăm học sinh đến từ các gia đình thu nhập thấp.” Khi chúng tôi cố gắng tạo nên viết sáng tạo và viết nhật ký”, cô ấy nói, “học sinh không có công cụ để đưa ý tưởng của mình lên giấy.”

Có một sự thiếu hụt đáng kể về nghiên cứu chất lượng cao về việc dạy viết, nhưng các nghiên cứu tồn tại hướng đến một vài chiến lược cụ thể giúp sinh viên thực hiện tốt hơn các bài kiểm tra viết.
Đầu tiên, trẻ cần học cách phiên âm cả bằng tay và thông qua việc gõ trên máy tính. Giáo viên báo cáo rằng nhiều học sinh có thể tạo ra các dòng văn bản trên điện thoại di động không thể làm việc hiệu quả ở máy tính xách tay, máy tính để bàn hoặc thậm chí trong một cuốn sổ tay bằng giấy vì các em đã bị dính vào màn hình di động nhỏ. Giao tiếp nhanh trên điện thoại thông minh hầu như đòi hỏi người viết phải tránh các quy tắc ngữ pháp và dấu câu, hoàn toàn ngược lại với những gì mong muốn trên trang giấy.

Trước khi viết các đoạn văn – thường là một phần của chương trình giáo dục mẫu giáo – trẻ em cần phải thực hành viết những câu tuyệt vời. Ở mọi cấp độ, học sinh được hưởng lợi từ phản hồi rõ ràng về bài viết của các em, và từ việc thấy và cố gắng bắt chước cách viết thành công thì trông như thế nào, cái gọi là mô hình văn bản. Một số bài viết mẫu có chạm đến cảm xúc cũng quan trọng. Học sinh có sự tự tin cao hơn trong khả năng viết của các em sẽ làm bài viết tốt hơn.

Tất cả những điểm này hướng tới một tổng hợp của hai cách tiếp cận. Trong các lớp học, nơi các thực hành như viết tự do được sử dụng mà không tập trung vào sao chép hoặc chấm câu, “những học sinh gặp khó khăn đã không có được bất kỳ tiến bộ nào”, Tiến sĩ Troia, giáo sư bang Michigan, cho biết. Nhưng khi hướng dẫn ngữ pháp bị tách ra khỏi quá trình viết và từ những ý tưởng phong phú trong văn học hoặc khoa học, nó trở thành “hời hợt”, ông đã cảnh báo.

Xem xét việc thiếu giáo viên được đào tạo đầy đủ, Lyse có thể là một trong số ít các học sinh tiếp xúc với hướng dẫn rõ ràng về viết lách.

Trong hội thảo của cô Wanzer, Lyse và các bạn cùng lớp đã tiếp tục phân tích các bài luận thực tế vào đại học để xác định điểm mạnh và điểm yếu. Học sinh cũng đọc bài “Tôi đến từ đâu / Where I’m From”, một bài thơ của George Ella Lyon và sử dụng nó như một mô hình văn bản cho tác phẩm của mình. Lyse đã phác thảo phiên bản riêng của cô “Tôi đến từ đâu”, từ đó, giúp cô nhớ lại chi tiết từ thời thơ ấu ở Haiti.

Lyse đã viết: “Tôi đến từ ngôi nhà mái thiếc nhỏ rỉ sét, từ nơi giặt đồ bằng tay và treo để phơi khô”. Đó là một câu viết tuyệt đẹp, và cô ấy đang trên đường đi đến một bài luận để ứng tuyển vào đại học.

Dana Goldstein là một phóng viên giáo dục của The Times.

Advertisement

Trả lời

Điền thông tin vào ô dưới đây hoặc nhấn vào một biểu tượng để đăng nhập:

WordPress.com Logo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản WordPress.com Đăng xuất /  Thay đổi )

Twitter picture

Bạn đang bình luận bằng tài khoản Twitter Đăng xuất /  Thay đổi )

Facebook photo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản Facebook Đăng xuất /  Thay đổi )

Connecting to %s