Sau 9 năm thu hồi đất để làm thủy điện Đắk Đrinh là tình trạng dân làng đánh nhau vì tranh giành đất, là khu tái định cư bỏ hoang, mục nát vì dân không ở.
Những ngôi nhà tái định cư bỏ hoang, không có người ở
Thủy điện Đắk Đrinh nằm trên địa bàn 2 tỉnh Kon Tum và Quảng Ngãi với công suất 125 MW. Năm 2013, để thực hiện dự án này, hàng trăm hộ dân của xã Đắk Nên, huyện Kon Plong, tỉnh Kon Tum đã phải nhường toàn bộ nhà cửa, đất đai của mình. Đến nay, sau 8 năm kể từ khi thủy điện hoàn thành, chi phí bồi thường vẫn chưa được giải quyết dứt điểm. Theo ông Trần Thanh Minh, Chủ tịch UBND xã Đắk Nên, huyện Kon Plông, chỉ riêng ở xã này thì chủ đầu tư vẫn còn nợ hơn 33 tỉ đồng tiền bồi thường, hỗ trợ các hộ bị ảnh hưởng.
TTO – Người Mỹ Á có thể không có thuyền to máy nghìn mã lực như những làng chài khác, nhưng họ có niềm tự hào khi bao đời nay nói không với giã cào. Họ vẫn ‘chung thủy’ với lưới vây, lưới cảng, lưới rút để bảo vệ biển, giữ gìn cho đàn cá sinh sôi…
Bao đời ngư dân Mỹ Á vẫn giữ lời thề không bắt cá con – Ảnh: TRẦN MAI
Ông Nguyễn Xết, vạn trưởng làng Hải Tân (phường Phổ Quang, thị xã Đức Phổ, Quảng Ngãi), bảo rằng làng không giàu sụ nhưng cuộc sống vẫn no đủ từ biển.
“Cái nghề ngư dân Mỹ Á đang làm không tận diệt thủy sản. Chúng tôi chỉ đánh bắt những đàn cá lớn. Cá nhỏ chúng tôi không bắt” – ông Xết tự hào.
TN – Bé thơ ê a đánh vần con chữ giữa rừng tựa tiếng chim hót chốn non cao. Bàn tay nhỏ cầm bút nắn nót viết vào trang vở kê trên khúc cây khô khiến bao người thương cảm…
Thỉnh thoảng có chú công an vào rừng dạy chữ cho các cháu – ẢNH: TRANG THY
Mùa nắng hạ, nhiều cặp vợ chồng dân tộc HRê ở huyện miền núi Ba Tơ (Quảng Ngãi) đưa con vào rừng “sống đời Digan”. Ngày, cha mẹ nhọc nhằn cưa hạ, lột vỏ keo thuê. Đêm, cả gia đình quây quần trong lán trại trên đỉnh cao lộng gió. Tiếng trẻ thơ ê a đánh vần con chữ giữa rừng khiến họ xót thương phận mình, rồi nhủ lòng phải gắng sức đưa con đến trường cho đời vơi khổ.
Đời cha thiếu chữ…
Đêm trên đỉnh Màng Ten (giáp ranh Ba Tơ và Đức Phổ), tôi đã nghe những câu chuyện của nhóm người ở thôn Hố Sâu, xã Ba Khâm, H.Ba Tơ đi khai thác keo thuê mà xót lòng. Do ít học và thiếu đất sản xuất nên nhiều người HRê phải chịu cảnh nghèo khổ, sống đời làm thuê, rong ruổi khắp núi rừng.
Phận nghèo lan sang con cháu như định mệnh, khổ cực bám lấy những con người hiền lành, chất phác. Hơn 40 tuổi, vợ chồng anh Phạm Văn Héo và chị Phạm Thị Biết trải qua bao nỗi cơ cực nơi núi rừng. Ngày ngày, anh cùng người làng rong ruổi khắp rừng tìm lâm sản mang về bán cho thương lái miền xuôi. Chị cặm cụi chăm bón sào ruộng lúa bậc thang bạc màu nên thu nhập chẳng đáng là bao. Rồi rừng keo trải dài, bao phủ núi gần lẫn non xa. Khoản tiền thu từ keo làm giàu cho chủ rừng, nhưng gây ảnh hưởng đến sinh kế của bao cư dân miền sơn cước. Lâm sản khan hiếm nên những chuyến đi rừng dài ngày trở về với tiếng thở dài nghe não lòng. Mạch nước ngầm cạn kiệt, ruộng lúa chỉ sản xuất một vụ trong năm. Sống giữa rừng nhưng chẳng thể dựa vào rừng, họ đành dắt nhau rời làng mưu sinh nơi xa.
Chớm đông, vợ chồng anh Héo gửi con nhỏ rồi bắt xe lên Tây nguyên hái cà phê, làm thuê cho chủ vườn. Chừng đôi tháng, anh chị về nhà khi hết việc làm trên miền cao nguyên đất đỏ. Niềm vui khi được ôm con vào lòng xen lẫn âu lo vì “những ngày sắp tới làm gì ra tiền” lởn vởn trong tâm trí. Dịp may đến với anh chị khi người làng rủ vào rừng cưa hạ cây keo và lột vỏ thuê. Niềm vui vì có việc làm xua đi khổ cực lẫn nỗi lo hiểm nguy cận kề. “Vợ chồng tôi đều không biết chữ nên có việc làm là tốt lắm rồi. Bao đời ông bà rồi đến mình đều khổ. Vậy nên hai vợ chồng ráng làm kiếm tiền cho con ăn học”, chị Biết tâm sự.
Anh Phạm Văn Thủy rì rầm kể chuyện đời mình giữa rừng đêm. Học đến lớp 6, vì “đường sá gập ghềnh, trường xa, nhà khó” nên anh nghỉ học như bao thiếu niên cùng làng. Rồi theo bạn bè đi làm. Lần đầu tiên trong đời, anh mừng rơi nước mắt khi cầm trên tay 900.000 đồng tiền công cả tháng hái cà phê thuê cho chủ vườn ở Tây nguyên. Và kiếp làm thuê cơ cực vận vào đời anh từ đấy. Mùa khô, anh cùng vợ và người làng cưa hạ, lột vỏ keo thuê trên những miền rừng xa thẳm. Khi những cơn mưa tắm mát núi đồi, cây lá tốt tươi, anh cùng nhiều người lom khom phát chồi thuê dưới tán keo xanh mướt. Lao động cực nhọc và cận kề hiểm nguy, nhưng đó là điều may mắn vì có việc làm.
Trẻ thơ đánh vần con chữ trong đêm – ẢNH: TRANG THY
Thấm nỗi cơ cực vì thiếu học nên anh luôn cố gắng làm mọi việc để kiếm tiền lo cho con đến trường. Những ngày hè, vợ chồng anh mang hai con vào rừng để được quây quần trong lán trại sau những giờ lao động vất vả. Bước vào năm học, anh gửi con cho người chị gái đón đưa đến trường mỗi ngày. Chiều muộn, vợ chồng anh cưỡi xe máy vượt hàng chục cây số về nhà để được trông thấy con, dù nhiều bữa các bé ngủ vùi mang cả đợi chờ vào trong giấc mơ.
Ê a con chữ giữa rừng
Bé Phạm Thị Trần (8 tuổi, con gái của vợ chồng anh Héo) cặm cụi làm phép tính cộng trừ dưới ngọn đèn điện tỏ mặt người. Bàn học là khúc gỗ keo khô kiệt vì nắng nóng, ghế là đôi dép nhựa lót trên nền đất nâu giữa rừng. Những ngón tay nhỏ gầy cầm bút nắn nót viết từng con số vào trang vở mỏng như lá rừng. Nghe lời khen khi làm phép tính đúng, bé mỉm cười, vẻ mặt bẽn lẽn ngước lên nhìn khách lạ rồi cặm cụi bên trang giấy.
Vợ chồng anh Héo nở nụ cười tươi làm phai mờ những vết nhăn trên gương mặt sạm đen sau bao ngày dãi dầu mưa nắng. Mùa thu tới, bé vào lớp 3 với quãng đường đến trường chừng 9 km trập trùng đèo dốc. Vì không biết lái xe nên chị Biết phải vào rừng làm thuê, anh Héo ở nhà đưa đón con đến lớp mỗi ngày. “Dù mình tôi đi làm ít tiền hơn nhưng cũng để chồng ở nhà đưa đón con. Phải cho con học để biết thêm cái chữ. Đến hè cả hai vợ chồng cùng đi làm và dẫn con vào rừng…”, chị bộc bạch.
Khi cha mẹ bận rộn công việc ngoài rừng, bé Trần trông chừng em nhỏ, con của những người chung nhóm cưa hạ và lột vỏ keo thuê. Bé vào vai cô giáo chỉ bảo các em ê a đánh vần con chữ bên lán trại. Những đôi mắt ngây thơ nhìn vào trang vở, miệng líu lo như chim hót đón chào nắng ban mai. Tóc rám nắng lòa xòa, phất phơ trước gió. Các cháu hồn nhiên đọc chữ, đùa vui giữa núi rừng. Trẻ thơ chơi chán rồi học, học rồi lại chơi. “Con bày chữ mấy em đọc chứ viết chưa được. Mấy em ưng chơi học chữ lắm”, bé Trần rụt rè cho biết.
Sau giờ bóc vỏ keo, Phạm Văn Tuấn (14 tuổi) dạy các em phép tính
Các cháu bé trú ngụ cùng cha mẹ trên đỉnh Màng Ten hào hứng đón nhận chiếc bảng nhựa mỏng cùng hộp phấn trắng bạn tôi mang vào rừng. Các cháu xúm quanh chiếc bảng treo lên chạc cây, hí hoáy viết chữ, xóa sạch rồi lại viết, gương mặt lộ vẻ thích thú. Sau giờ lột vỏ keo, em Phạm Văn Tuấn (14 tuổi) cầm phấn đứng trước bảng dạy các em thơ. Các cháu chăm chú lắng nghe, miệng há tròn như nuốt từng lời. Những đôi mắt mở to nhìn lên bảng, vẻ mặt đầy háo hức.
Sau tiếng đọc của Tuấn, giọng các cháu hòa theo rập ràng trong gió ngàn xào xạc. “Nhiều em chưa biết chữ và con số, nhưng ưng học lắm. Đọc xong bữa sau quên mất nhưng vẫn ưng học. Cháu theo mấy cô, chú lột vỏ keo đến khai giảng năm học mới thì nghỉ làm để đến trường. Lúc đó, cháu có tiền mua sách vở và phụ giúp gia đình rồi. Hè sang năm tiếp tục vào rừng làm nữa…”, Tuấn cho biết.
Nhìn con dõi theo dòng chữ trên bảng, anh Thủy thỏa lòng ước nguyện, gương mặt rạng ngời niềm vui. Anh nhắc vợ mua quần áo mới cùng dụng cụ học tập cho 2 con: đứa lớn sắp vào lớp 5, nhỏ vào lớp 2. Căn nhà tạm bợ, khoản tiền thu nhập từ việc làm thuê thất thường, nhưng anh dự định tìm cô giáo dạy thêm cho con lớn để sức học theo kịp chúng bạn. “Dù nghèo khổ tôi vẫn gắng cho con ăn học cái chữ. Có ăn học kiếm cái nghề thì đời mới bớt cơ cực. Nếu không thì chỉ quẩn quanh, làm thuê trong rừng, biết bao giờ mới hết khổ!”, anh khẳng định.
Tôi cùng bạn rời đỉnh Màng Ten với những cánh tay bé nhỏ vẫy chào tạm biệt. Ngoảnh nhìn, dáng đứng trẻ thơ tựa cây non vươn lên trong nắng sớm. Tiếng ê a đánh vần con chữ theo mỗi bước chân qua đèo dốc điệp trùng.
Ông Lữ Đình Tích, Phó chủ tịch UBND H.Ba Tơ (Quảng Ngãi), cho biết: Theo số liệu thống kê, có hơn 1.000 người dân trong huyện làm nghề khai thác cây keo thuê. Những lúc nông nhàn, họ đi làm thuê để kiếm thêm nguồn thu nhập. Cuộc sống của bà con được cải thiện hơn so với trước, nhưng nhiều người vẫn còn khó khăn. Nhà nước cũng hỗ trợ kinh phí cho con em hộ nghèo và những học sinh ở xa trường nhằm khuyến khích, động viên các em đến lớp.
Gò Cỏ in dấu tích thuở người Chăm xếp đá lập làng. Sóng biển rì rầm hòa cùng rặng thùy dương vi vu với gió từ khơi xa thổi vào bờ như lời thầm thì của người Sa Huỳnh từ hàng ngàn năm trước
Nhà báo Lê Văn Chương lập nhóm thiện nguyện “Nối vòng tay Việt” quyên góp nhu yếu phẩm hỗ trợ lực lượng phòng chống dịch và người dân khó khăn vì dịch Covid-19. Anh cảm động khi nhận 350 kg gạo, 1 thùng trứng và 23 thùng mì gói từ người dân Gò Cỏ gửi tặng để chuyển vào TP HCM.
LĐ – NGƯỜI DÂN QUANH KHU VỰC NHÀ MÁY THÉP HOÀ PHÁT – DUNG QUẤT, QUẢNG NGÃI ĐÃ KHÔNG CÒN DỰNG LỀU, CHẶN XE RA VÀO NHÀ MÁY SAU BUỔI GẶP GỠ VÀ LỜI XIN LỖI CỦA ÔNG CHỦ TỊCH TỈNH. NHƯNG VẪN CÒN TỚI 3 THÁNG ĐỂ ĐẾN CỘT MỐC 1.10 – THỜI ĐIỂM XÂY DỰNG KHU TÁI ĐỊNH CƯ CHO NGƯỜI DÂN.
NN – Tôi tìm lại con của nhân chứng “My Lai massacre” giữa ánh đèn đêm le lói, ngồi nghe Chi kể chuyện, nghe cảm giác lạnh dọc xương sống…
My Lai Massacre, đó là cụm từ phía Mỹ lưu trong hồ sơ vụ thảm sát Mỹ Lai tại xã Tịnh Khê, TP Quảng Ngãi vào ngày 16/3/1968. Một nhân chứng sống sót được báo chí quốc tế và trong nước không ngừng nhắc tên là Đỗ Ba.
Nhân chứng Đỗ Ba thoát chết trong thảm sát Mỹ Lai năm 1968. Ảnh: TL.
Nhưng còn một Đỗ Ba khác thì sống đời ẩn dật, vào định cư ở Trại phong Quy Hòa, tỉnh Bình Định, sau đó qua đời. Đầu tháng 9/2020, người con trai Đỗ Ba đột ngột gọi ra Đà Nẵng và nói giọng buồn bã: “Xin chú tìm giúp một nơi nương náu cho người em trai, xin chú giúp đỡ…!”. Tiếp tục đọc “Con Đỗ Ba, bây giờ ra sao?”→
Ngư dân Tiêu Viết Là, SN 1950, quê ở xã Bình Châu huyện Bình Sơn tỉnh Quảng Ngãi từng nhiều lần bị Trung Quốc bắt lên đảo Phú Lâm, quần đảo Hoàng Sa.
Trong đó 1 lần bị giam, 2 lần thu tàu, 1 lần bắn bị thương tích cùng với 6 ngư dân. Hiện nay 2 người con trai của ông là Tiêu Viết Linh và Tiêu Viết Vấn theo lời cha, tiếp tục ra bám giữ đảo.
Kình ngư Tiêu Viết Là cùng 2 người con trai Tiêu Viết Linh (bên trái) và Tiêu Viết Vấn (bên phải). Ảnh: Văn Chương.
Trung Quốc đưa đội tàu thăm dò vào khu vực bãi Tư Chính và ngang nhiên thăm dò, quấy nhiễu. Ở phía khu vực quần đảo Hoàng Sa, hàng loạt tàu cá của ngư dân tỉnh Quảng Ngãi đã bị Trung Quốc tịch thu tài sản, đập phá đồ đạc. Ngư dân Tiêu Viết Vấn, con trai kình ngư nổi tiếng Tiêu Viết Là vừa trở về đất liền vào chiều 8/10. Con tàu bị tháo gỡ định vị, chặt phá dây hơi. Nhưng ngư dân này vẫn thể hiện là phiên bản của người cha mình, đó là sửa soạn để tiếp tục lên đường. Tiếp tục đọc “Phiên bản sói biển Hoàng Sa – 2 bài”→
Héo mòn bên khu liên hợp gang thép Hòa Phát – Dung Quất: Bài 1 – “Hòa Phát về đây chỉ gây họa cho dân…”
(PLVN) – “Các anh đừng nói đã bỏ vào đây nhiều tiền để xây dựng, tạo công ăn việc làm cho người dân địa phương… Vấn đề trước tiên là cần phải bảo vệ được quyền lợi, môi trường sống của người dân”. Phát biểu thẳng thắn của bà Hà Thị Anh Thư, Bí thư Huyện ủy Bình Sơn (Quảng Ngãi) với đại diện Khu liên hợp sản xuất gang thép Hòa Phát – Dung Quất hồi cuối tháng 10/2019 đã khiến dư luận đặc biệt quan tâm.
Thực tế đang diễn ra không giống như bản phối cảnh Hòa Phát quảng cáo
Mỗi lần con tàu QNg 90617 TS tiến ra Hoàng Sa đánh cá, bạn chài xem 2 anh em ngư dân Trần Hồng Thọ và Trần Hồng Thiên như thuyền trưởng và thuyền phó.
Anh em thuyền trưởng Trần Hồng Thọ – Trần Hồng Thiên. Ảnh: Văn Chương.
Bởi lẽ, họ cùng lúc chia sẻ công việc cầm lái, cho tàu chuyển hướng để tránh né tàu Trung Quốc. Con tàu này bị tàu Trung Quốc đâm chìm vào rạng sáng ngày 2/4 vừa qua.
Xúc tung mái vẫn trở lại
Vào một ngày khoảng giữa tháng 5 năm 2019, tại khu vực gần bãi Bình Sơn, quần đảo Hoàng Sa, chiếc tàu đánh cá mang biển số QNg 90617 TS cố lách mũi tàu Trung Quốc mang số 4301 màu trắng đang bám riết phía sau. Tàu chạy xé sóng. Tiếng máy gầm gào. Tiếp tục đọc “Anh em ‘thuyền trưởng Hoàng Sa’”→
Chiến tranh đã lùi xa 45 năm, nhưng ở thời mảnh đất từng xảy ra cuộc thảm sát Sơn Mỹ, đến nay vết thương chiến tranh cũng dần nguôi. Trên chặng đường cùng đất nước phát triển, người dân “núi Ấn sông Trà” đã gác lại chuyện quá khứ, hướng đến tương lai. Nhưng có những người Mỹ đã trở lại Việt Nam và Quảng Ngãi để hàn gắn vết thương chiến tranh, để chuộc lỗi.
Vợ chồng bác sĩ Esther Bucher tình nguyện chăm sóc, giúp đỡ trẻ em da cam ở Đức Phổ
Xã Tịnh Hà, huyện Sơn Tịnh với lợi thế vùng đất nằm ven sông Trà phù hợp phát triển trồng loại giống chuối mới chất lượng cao, đồng thời từng bước đưa giống chuối mới thay thế giống chuối đang bị thoái hóa hiện nay đang trồng ở địa phương, trong giai đoạn 2018-2019, Trung tâm dịch vụ nông nghiệp huyện Sơn Tịnh đã triển khai thực hiện mô hình trồng chuối nuôi cấy mô ở xã Tịnh Hà.
(Báo Quảng Ngãi)- Chỉ cần nghe thông tin ở đâu có khả năng “xin được” là cô lại chủ động liên lạc, để xin hỗ trợ. Một lần chưa được thì xin nhiều lần. Chính sự chân thành của cô đã thuyết phục được nhiều nhà hảo tâm từ khắp mọi nơi. Nhờ vậy mà học sinh ở các điểm trường mầm non vùng cao Tây Trà đã có được nơi học tập, vui chơi tốt hơn.
Niềm vui của các cháu khi có trường mới với nhiều đồ chơi.
Đó là tấm lòng của cô giáo Trần Thị Minh Hiền (1981), người đã dành cả tuổi thanh xuân để chăm lo cho những mầm non ở một trong những nơi còn nghèo nhất nước. Tiếp tục đọc “Chăm lo cho mầm non vùng cao”→
landmines.org.vn – Ba Tơ, Quảng Ngãi (24 September 2019) — Project RENEW Coordination Office and representative of Quang Tri Mine Action Center (QTMAC) were present in Ba To District today for attending the final review of Mine Risk Education (MRE) program hosted by Quang Ngai Provincial Red Cross Association, with local representatives from Ba To District People’s Committee, relevant bureaus, Youth Unions and principals of schools. Tiếp tục đọc “Quang Ngai Red Cross Association Reviews Pilot Replication of RENEW’s MRE Best Practices in Ba To District”→
(Báo Quảng Ngãi)- Để tìm việc làm, đồng bào dân tộc thiểu số Hrê ở các huyện Ba Tơ, Sơn Hà… hằng ngày phải cuốc bộ hàng chục cây số để đến Km số 7, Quốc lộ 24, thuộc thôn Vạn Lý, xã Phổ Phong (Đức Phổ) để chờ người thuê đi làm. Người dân ở đây quen gọi là “chợ số 7”, vì nó hình thành gần 20 năm qua…
Những phụ nữ Hrê đi tìm việc làm ở “chợ số 7”.
Hơn 9 giờ sáng, chiếc xe ôtô 16 chỗ từ hướng huyện Ba Tơ chở theo hàng chục lao động dừng lại trước các hàng quán tại Km7, Quốc lộ 24. Họ đều là người Hrê đến để chờ người thuê đi làm việc. Trong cơn mưa nặng hạt, vừa xuống xe, họ kéo nhau vào khu chợ ở bên cạnh mua gạo, muối, cá khô, nước mắm… Một người đàn ông cười giòn tan bảo: “Đây là phần lương thực dùng để ăn trong nửa tháng làm việc xa nhà sắp đến của tụi tôi”. Tiếp tục đọc “Tìm việc ở “chợ số 7””→
(Baoquangngai.vn)- Không chọn mở một cửa hàng thời trang dễ hái ra tiền như những cô gái 9X khác, chị Phạm Thị Sung, 27 tuổi, ở thôn Làng Teng, xã Ba Thành, huyện Ba Tơ đã chọn một hướng đi rất riêng. Đó là mở một “bảo tàng” riêng để giao lưu văn hóa, khởi nghiệp từ chính nghề truyền thống của phụ nữ Làng Teng từ bao đời nay.
Chị Sung sửa soạn các vật dụng trong cửa hàng. Mỗi một sản phẩm chị xem như một đứa con tinh thần.