Việt Nam trên đường đến thịnh vượng, đào đâu ra lao động trình độ cao?

Hiệu Minh –

Chủ Nhật, 11/09/2022

(KTSG) – Năm 2016 tôi đi 10 ngày thăm Trường Sa trên con tàu hiện đại KN490. Rỗi việc tôi hay lê la nói chuyện với mấy anh kỹ thuật trên tàu. Biết tôi thạo tiếng Anh và IT, các anh hỏi có thể giúp đọc menu của máy lạnh to đùng trên tàu, chứa rau và thịt cho 200 người ăn cả chục ngày, hay không. Chả hiểu sao ai động vào phím điều khiển nào đó làm cho máy lạnh tạo đá và tuyết đọng trong khi rau ở giữa khoang không có khí lạnh… Từ đó, tôi nghĩ mãi về lao động trình độ cao của xứ mình.

Hàng triệu người bôn ba khắp nơi, dù chịu khó làm ăn nhưng ngoại ngữ yếu, giao tiếp và khả năng suy luận còn hạn chế do khi học trong trường ít được tranh luận… nên thường chỉ làm công việc làng nhàng. Đó là chưa kể những khu công nghiệp với những nhà máy hiện đại mọc lên ngày càng nhiều, nhưng công nhân chẳng học được bao nhiêu, chỉ biết lắp ráp như robot.

Tiếp tục đọc “Việt Nam trên đường đến thịnh vượng, đào đâu ra lao động trình độ cao?”

Học và làm nghề với người Nhật

TRUNG TRẦN 01/10/2020 18:10 GMT+7

TTCTNói vui, đi làm cho công ty Nhật, không cần bằng cấp, không cần cả ngoại ngữ, chỉ cần yếu tố duy nhất là sự chăm chỉ và cầu tiến.

Kaizen (âm Hán Việt: cải thiện) là cốt lõi trong sự thành công của Nhật Bản. Ảnh: pinterest

Khoảng năm 1998, ở Đồng Nai có chiến dịch kiểm tra lý lịch của nhân viên ở Khu công nghiệp Biên Hòa 2. Nhiều công nhân, nhân viên văn phòng các công ty Nhật Bản bị phát hiện làm giả chứng minh nhân dân, khai man tên tuổi và bằng cấp. Nguy cơ bị đuổi việc là hiển hiện theo quy định của pháp luật và nội quy công ty. 

Nhiều người phải xin nghỉ phép để về quê hoàn thành các giấy tờ nhân thân và chứng minh bằng cấp. Người viết nằm trong trường hợp đấy. Khi lên xin phép cấp trưởng phòng người Nhật thì nhận được câu trả lời: quy định của pháp luật thì nên làm đúng, còn bằng cấp thì sau chừng đấy thời gian làm việc, ông không quan tâm nhân viên thực sự có tốt nghiệp đại học hay chưa, và nếu chưa có thì ông có thể nói giúp phòng nhân sự là bỏ qua việc phải đáp ứng yêu cầu đấy.

Tiếp tục đọc “Học và làm nghề với người Nhật”

Chuyện thầy và thợ

LÊ QUANG 30/09/2020 18:09 GMT+7

TTCT Hệ thống trường nghề đào tạo kép của Đức đã qua mấy trăm năm thử thách, được cho là đảm bảo tính sát thực tế, các doanh nghiệp tham gia đào tạo không “lỗ” khi trả lương cho học sinh, và cả xã hội cũng có lợi.

Hai thợ học việc của Hãng Bosch. Ảnh: hafactory.it

Ngày còn sống ở nước ngoài, tôi có đứa cháu đỡ đầu xinh như thiên thần, mắt xanh, tóc vàng, và sáng dạ lạ thường, luôn miệng hát líu lo, chỉ có cái tật là vào lớp 1 vẫn còn mút tay khi ngủ. Lúc mời mẹ tôi sang thăm thì bà yêu nó lắm. 

Chơi với nó có mấy bữa mà về nhà cả chục năm vẫn hay hỏi thằng bé giờ học hành ra sao, lớn chừng nào, còn mút tay không, con một là hay được chiều chuộng quá đáng lắm…

Bẵng đi ít lâu, tôi kể cho mẹ nghe, bố mẹ thằng Stefan mới báo tin nó tốt nghiệp phổ thông rồi, đi học và ở ký túc xá xa nhà mà tự lập lắm. Mẹ tôi hỏi ngay, nó học ngành gì, rồi bà rơm rớm nước mắt…

Tiếp tục đọc “Chuyện thầy và thợ”

Vietnamese labor productivity among lowest in Asia despite growth: report

VNE – By Dat Nguyen   May 10, 2018 | 02:00 pm GMT+7

Vietnamese labor productivity among lowest in Asia despite growth: report

Laborers work at a garment factory in Bac Giang province, near Hanoi, Vietnam. Photo by ReutersProductivity is rising, but not as fast as wages, creating the risk of an economic imbalance.

Vietnam’s labor productivity last year was among the lowest in Asia despite showing growth, according to a report published on Tuesday.

Average productivity in Vietnam increased by 36 percent from VND38.64 million per worker in 2006 to VND60.73 million ($1,660 to $2,600) in 2017, according to the Vietnam Annual Economic Report 2018.

However, the level is still below Japan, South Korea, China, Singapore, Thailand, Malaysia, the Philippines, Indonesia and Cambodia, according to researchers from the Vietnam Institute for Economic and Policy.

Tiếp tục đọc “Vietnamese labor productivity among lowest in Asia despite growth: report”

Tin tưởng vào bằng chứng: Đầu tư vào lực lượng hộ sinh

unfpa – 5 Tháng 5 2021

Tuyên bố của Giám đốc điều hành UNFPA, Tiến sĩ Natalia Kanem

Ngày Quốc tế Hộ sinh

Ngày 05 tháng 05 năm 2021

Mỗi ngày, ở khắp mọi nơi trên thế giới, các nhân viên hộ sinh đang cứu sống phụ nữ và trẻ em, cũng như nâng cao sức khoẻ và phúc lợi của toàn thể cộng đồng.

Họ xứng đáng được tôn trọng và biết ơn, nhưng như vậy vẫn chưa đủ.

Các nhân viên hộ sinh xứng đáng được đầu tư nhiều hơn vào năng lực, cũng như nơi làm việc để giúp họ được trao quyền và công nhận toàn diện những kỹ năng và đóng góp của họ. 

Tiếp tục đọc “Tin tưởng vào bằng chứng: Đầu tư vào lực lượng hộ sinh”

Việt Nam cần làm gì để trở thành cường quốc kỹ thuật số

worldbankJACQUES MORISSET |AUGUST 24, 2021

This page in: Vietnamese English

Smart city in Vietnam.
Để trở thành cường quốc kỹ thuật số, Việt Nam sẽ cần tạo điều kiện để các đơn vị trong nước áp dụng và thích ứng với những công nghệ kỹ thuật số toàn cầu mới. Ảnh: THINK A/ Shutterstock

Cách mạng kỹ thuật số chưa bao giờ chỉ là tạo ra những công nghệ đột phá. Các quốc gia hàng đầu về đổi mới, sáng tạo trong lĩnh vực này như Mỹ và Trung Quốc sở hữu gần 2/3 số bằng sáng chế CNTT mới và các công nghệ liên quan đến máy tính đăng ký hàng năm.[1] Tuy nhiên, đối với hầu hết các quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam, tương lai sẽ không được quyết định bởi động lực đổi mới, sáng tạo mà là năng lực của quốc gia trong việc tận dụng tối đa các công nghệ kỹ thuật số do các nước khác phát triển.

Tiếp tục đọc “Việt Nam cần làm gì để trở thành cường quốc kỹ thuật số”

Dòng vốn FDI – những câu hỏi chưa lời đáp

Sau ba thập kỷ nhận dòng vốn nước ngoài, còn nhiều mặt trái mà Việt Nam chưa thể xử lý.

Xã Tân Vĩnh Hiệp, thị xã Tân Uyên, Bình Dương nhìn từ trên cao xuống có một bố cục điển hình của kinh tế Việt Nam trong thế kỷ 21.

Khung cảnh chụp từ vệ tinh được tạo thành từ 3 mảng chất liệu chính: mái tôn lớn, mái tôn nhỏ và đất nông nghiệp. “Mái tôn lớn” là những mảng tôn che các khối nhà xưởng rộng hàng nghìn mét vuông. Chúng là thành tố kinh tế cốt lõi của cả Tân Uyên và Bình Dương trong hơn một thập kỷ qua. Một phần lớn thuộc về các doanh nghiệp FDI. Tiếp tục đọc “Dòng vốn FDI – những câu hỏi chưa lời đáp”

Điểm nghẽn: Lao động lành nghề Việt Nam thiếu hụt nặng từ chiến tranh thương mại Trung-Mỹ

English: Choke point: Vietnam’s skilled labour shortage

Năm 2016, chính phủ Việt Nam đã công bố chiến lược phát triển lực lượng lao động lành nghề để đáp ứng nhu cầu trong nước và quốc tế và đưa đất nước ngang tầm với phần còn lại của khu vực ASEAN, mặc dù có rất ít chi tiết được công bố kể từ đó.

(Reuters) – Một mặt trận mới mở ra trong cuộc chiến thương mại Mỹ-Trung khi các công ty chuyển sản xuất sang Việt Nam tham gia vào một cuộc chiến khốc liệt thu hút lao động lành nghề, làm trầm trọng thêm tình trạng thiếu hụt lao động lành nghề và thúc đẩy cải cách giáo dục để giải quyết vấn đề này.

Sinh viên thực tập tại phòng thí nghiệm của một trường cao đẳng dạy nghề công nghiệp tại Hà Nội, Việt Nam ngày 9 tháng 10 năm 2019. Ảnh chụp ngày 9 tháng 10 năm 2019 bởi REUTERS / Kham

Việt Nam trở thành một trong những nước hưởng lợi lớn nhất từ ​​cuộc chiến thương mại giữa Washington và Bắc Kinh.

Xuất khẩu sang Hoa Kỳ đã tăng 21,5% trong 8 tháng đầu năm 2019 và một số công ty bao gồm cả công ty mẹ của Google là Alphabet Inc ( GOOGL.O ) và Nintendo ( 7974.T ) đã công bố kế hoạch mới để mở các cơ sở tại nước này. Tiếp tục đọc “Điểm nghẽn: Lao động lành nghề Việt Nam thiếu hụt nặng từ chiến tranh thương mại Trung-Mỹ”

Tương lai việc làm Việt Nam: Khai thác xu hướng lớn cho sự phát triển thịnh vượng hơn

Tóm tắt tổng quan

Lực lượng lao động gồm 50 triệu người của Việt Nam
đang là nền tảng làm nên thành công kinh tế cho đất
nước. Quá trình chuyển đổi sang lĩnh vực dịch vụ, chế
tạo/chế biến, cùng với năng suất lao động ấn tượng và
mức lương tăng dẫn tới tỉ lệ nghèo giảm mạnh và tốc
độ tăng trưởng kinh tế ấn tượng trong vòng mấy thập
kỷ qua. Tỉ lệ có việc làm cao, trong khi tỉ lệ thất nghiệp
thấp theo tiêu chuẩn thế giới.

Thách thức về việc làm là làm sao tạo được những
việc làm có chất lượng hơn và bao phủ hơn. Những
nhà máy khang trang của nước ngoài trả lương công
nhân cao hơn mức lương tối thiểu, kèm theo các chế
độ phúc lợi xã hội, nhiều nhất cũng chỉ tạo được 2,1
triệu việc làm. Doanh nghiệp trong nước có đăng ký
kinh doanh cung cấp không quá 6 triệu việc làm nữa.
Trong khi đó, 38 triệu việc làm ở Việt Nam nằm ở
các hộ nông nghiệp, hộ kinh doanh cá thể hay việc
làm thuê không hợp đồng. Những loại hình việc làm
truyền thống này thường có đặc trưng năng suất thấp,
lợi nhuận thấp, thu nhập ít ỏi và không có nhiều chế
độ bảo vệ người lao động. Dù đây là con đường để
thoát nghèo nhưng sẽ không phải là phương cách để
đạt đến vị thế tầng lớp trung lưu mà người dân Việt
Nam mong muốn. Người dân tộc thiểu số, phụ nữ và
lao động phổ thông phân bổ rải rác trong nhóm những
việc làm này.
Tiếp tục đọc “Tương lai việc làm Việt Nam: Khai thác xu hướng lớn cho sự phát triển thịnh vượng hơn”

Nghịch lý FDI

TS. Vũ Thành Tự Anh (*)Chủ Nhật,  15/7/2018, 06:57 

(TBKTSG) – Năm nay Việt Nam kỷ niệm 30 năm Luật Đầu tư nước ngoài có hiệu lực. Đến thời điểm này, đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đang tạo ra khoảng 70% giá trị xuất khẩu, 50% giá trị sản xuất công nghiệp và 20% GDP của cả nước. Đóng góp của FDI ở Việt Nam là hết sức ấn tượng, tuy nhiên tấm huy chương nào cũng có hai mặt: sự thành công vượt bậc của FDI đồng thời cũng tạo ra nhiều thách thức to lớn cho nền kinh tế, trong đó quan trọng nhất là làm thế nào để tận dụng sự hiện diện của FDI để nâng cấp công nghiệp, đồng thời giảm dần sự phụ thuộc vào FDI trong dài hạn.

Chiến lược phát triển công nghiệp của Việt Nam phải tìm cách vừa tận dụng được cơ hội do FDI đem lại để nâng cấp công nghiệp và hội nhập vào mạng lưới sản xuất toàn cầu. Ảnh: KỲ ANH

Tiếp tục đọc “Nghịch lý FDI”

Để không ai bị bỏ lại phía sau

  • NGUYỄN QUANG ĐỒNG 
(CHUYÊN GIA CHÍNH SÁCH CÔNG VIỆN CHÍNH SÁCH VÀ PHÁT TRIỂN TRUYỀN THÔNG IPS)
  • 18.03.2018, 05:55

TTCT – Toàn văn CPTPP cuối cùng cũng đã được công bố. Và như mọi cuộc chơi kinh tế khác, khó có chuyện lợi ích mà hiệp định mang lại sẽ được phân bổ đồng đều cho mọi nhóm dân cư, mọi doanh nghiệp. Sẽ có người hưởng lợi nhiều và sẽ có những người thua thiệt.

Để không ai bị bỏ lại phía sau
Nông nghiệp sẽ chịu sức ép lớn từ CPTPP trong khi chẳng mấy nông dân hiểu biết chuyện gì sẽ xảy ra sắp tới trong lĩnh vực của mình. Ảnh: MAI VINH

Câu hỏi lớn đặt ra là những nhóm thua thiệt là ai, bị tác động đến mức độ nào? Và theo đó, bài toán tiếp theo mà từng chính phủ, trong đó có Việt Nam, sẽ cần phải giải là chính sách nội địa trong từng nước sẽ phải điều chỉnh thế nào – để ít những nhóm thiệt thòi, những nhóm yếu thế – qua can thiệp chính sách từ chính phủ, được san sẻ lợi ích từ Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), hoặc chí ít ra cũng không bị “bỏ lại phía sau”. Tiếp tục đọc “Để không ai bị bỏ lại phía sau”

Đồng bằng Sông Cửu Long: Những thách thức hiện nay và ngày mai

TS04/04/2016 11:14 Nguyễn Ngọc Trân

Hiện nay và trong thời gian tới, ĐBSCL phải đương đầu với ít nhất hai thách thức toàn cầu, một thách thức khu vực và một thách thức từ chính sự khai thác đồng bằng. Toàn cầu, đó là biến đổi khí hậu, nước biển dâng, và toàn cầu hóa kinh tế, hội nhập quốc tế. Các thách thức đó không tác động riêng lẻ mà cùng nhau và liên hoàn tác động, nhân lên hậu quả của các tác hại là thách thức tổng hợp đối với sự phát triển bền vững của đồng bằng.

Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) nằm ở ngoài cùng của châu thổ sông Mekong giáp với biển, được hình thành từ khoảng 6000 năm nay, từ trầm tích mà sông Mekong tải ra biển cộng với quá trình biển lùi. Nước và trầm tích là hai yếu tố thuộc về bản chất của đồng bằng.
Tiếp tục đọc “Đồng bằng Sông Cửu Long: Những thách thức hiện nay và ngày mai”

How much does it cost to create a job?

A $10 million investment can actually create just a couple hundred direct jobs. /Photo: Nugroho Nurdikiawan Sunjoyo / World Bank (Yogyakarta, Indonesia)

Creating more and better jobs is central to our work at the World Bank and a shared goal for virtually all countries —developed and developing alike. But oftentimes the policy debate turns to the cost and effectiveness of programs and projects in creating jobs. Tiếp tục đọc “How much does it cost to create a job?”

Education and Skills for Inclusive Growth, Green Jobs and the Greening of Economies in Asia: Case Study Summaries of India, Indonesia, Sri Lanka and Viet Nam

© Asian Development Bank 2018. This book is an open access publication.

Download here https://www.adb.org/sites/default/files/publication/385041/education-skills-green-jobs.pdf

The green economy is a new economic paradigm which seeks to achieve economic development, while at the same time protecting the environment and achieving sustainable economic and social development. This requires transitioning to green jobs and green skills, and to creating new jobs in relation to the greening of workforces. Green jobs are relevant across all key sectors: agriculture, manufacturing, building, transport, tourism, and renewable energy. Skills acquisition and enhancement have great positive implications for all aspects of education and training, and for businesses.

Keywords Green jobs Green skills Green economy Green growth Sustainability Skills development priorities Waste management and recycling Renewable energy Skills acquisition and enhancement Skills toward sustainability Energy transition Smart cities Environmental goods and services Education and training

Skills and occupational needs in renewable energy and Green Buildings – Kỹ năng và nghề nghiệp cần thiết trong ngành năng lượng tái tạo và công trình xanh

The renewable energy sector is growing fast: about half of the new electricity-generating capacity added globally in 2008 and 2009 came from renewable energy additions. Fast deployment has led to skill shortages in technical occupations such as solar installers and electrical engineers, but also in more general occupations, such as sales and finance specialists, inspectors, auditors and lawyers.
This report brings together the findings from 33 countries and arises from a joint EC/ILO project on Knowledge sharing in early identification of skill needs.

Green Building

Download: Skills and occupational needs in green building‎pdf – 1.8 MB‎ 

Demand for workers in retrofitting and new green construction is expected to grow over the coming years but the lack of appropriate skills in the workforce can hamper the development of the sector and its potential benefits. New skill needs related to energy efficiency, water management and renewable energies in buildings are emerging. Skills-led strategies can drive the green building sector forward.
This report brings together the findings from 34 countries and arises from a joint EC/ILO project on Knowledge sharing in early identification of skill needs.

</div