Giải phóng học sinh và giáo viên thoát khỏi bài tập về nhà

English: Freeing Students—and Teachers—From Homework

Một giáo viên lớp hai giải thích cách cô đã bỏ việc cho học sinh bài tập bắt buộc về nhà và kết quả đáng ngạc nhiên cô nhậnthấy từ việc đó.

Tôi đã ngừng giao bài tập về nhà cho học sinh lớp hai từ năm ngoái và có một điều đáng ngạc nhiên: các em bắt đầu làm việc nhiều hơn ở nhà. Nhóm các em học sinh 8 tuổi đầy cảm hứng đã sử dụng thời gian rảnh rỗi mới có được để khám phá những môn học và chủ đề chúng quan tâm. Thậm chí, các em còn hào hứng báo cáo những phát hiện của mình cho các bạn cùng lớp – cứ thế các bạn cùng lớp được truyền cảm hứng khám phá những lĩnh vực mình thích. Tôi ước tôi có thể nói rằng đây là một phần trong kế hoạch vĩ đại của tôi và rằng tôi làm việc đó rất tốt, nhưng học sinh của tôi là tác giả của tất cả công trạng này.

Dưới đây chỉ là một vài ví dụ về quá trình học tập chuyên sâu đã thực hiện tại nhà khi học sinh của tôi được trao tặng món quà thời gian:

Học sinh 1: Sau khi học về các mẫu thời tiết trong một bài giảng về khoa học của chúng tôi, em đã quyết định tìm hiểu thêm về ảnh hưởng của Bão Sandy  tới cộng đồng địa phương. Em đã tạo ra một mô hình về hậu quả của bão xảy ra ở Belmar, New Jersey (bão Sandy là cơn bão có sức tàn phá khủng khiếp nhất ở Đại Tây Dương năm 2012).
Tiếp tục đọc “Giải phóng học sinh và giáo viên thoát khỏi bài tập về nhà”

Những học trò yếu kém muốn thầy cô và cha mẹ biết điều gì?

English:  What Failing Students Want Us to Remember

Nhìn học sinh hơn chỉ là điểm số
Em không phải điểm số của em
Em vẫn có thể có đóng góp đầy ý nghĩa
Em không phải là một sự thất vọng
Hãy để em là chính em
Đừng bỏ cuộc. Hãy tìm cách giúp em.

Bằng cách nhìn học sinh hơn chỉ là điểm số ở trường, chúng ta có thể giúp những đứa trẻ đạt được tiềm năng của các em.

Các trường học của chúng tôi ở Hoa Kỳ hoạt động chủ yếu như những trung tâm phân cấp thành tích: điểm số đạt được, học sinh được theo dõi bằng cách chia chúng vào các nhóm thành tích, theo đó phần thưởng được trao cho những học sinh thực thoả mãn được tiêu chuẩn. Nếu trẻ không đạt mức mong đợi (vì bất kỳ lý do nào), chúng thường bị gắn mác tiêu cực như ” không có khả năng đọc,” “yếu” hoặc ” kém ” Tiếp tục đọc “Những học trò yếu kém muốn thầy cô và cha mẹ biết điều gì?”

UNESCO: Happy Schools a framework for learner well-being in the Asia Pacific

Download full report here

All human beings aspire to be happy, and as the philosopher Aristotle is often cited to have said: ‘Happiness is the meaning and purpose of life, the whole aim and end of human existence’ (Crisp, 2000). Indeed, all human endeavours, starting from birth and throughout life, are pursued to this end, and require for happiness to be embedded within them. The schooling experience is perhaps the most influential of these endeavours in terms of shaping the course of our lives. Schools that can promote happiness, referred to in this report as ‘happy schools’, are key to ensuring better well-being, health, and achievement as well as success in future life and work. Education systems must also value the unique strengths and talents of learners by recognizing that there are ‘multiple intelligences’ that each deserve equal importance (Gardner, 1993). As such, promoting learner happiness and well-being in schools does not imply that learning be made easier or require less effort, but rather, that such approaches could help fuel a genuine love of learning in and of itself. Tiếp tục đọc “UNESCO: Happy Schools a framework for learner well-being in the Asia Pacific”

Hiệu quả của một hệ thống giáo dục

English: UNESCO Education system education

Một hệ thống giáo dục chất lượng được khái niệm hoá trong khung khổ phân tích/dự đoán Chất lượng Giáo dục phổ cập (UNESCO General Education Quality Analysis/Diagnosis Framework (GEQAF) ) là một hệ thống mà chất lượng giáo dục được cung cấp công bằng và hiệu quả. Do đó, cách thức phân bổ, quản lý và sử dụng nguồn lực ở các cấp độ khác nhau của hệ thống giáo dục là yếu tố quan trọng, mang tính quyết định cho một hệ thống giáo dục chất lượng. Việc cải thiện hiệu quả nguồn lực giáo dục có thể giúp giải phóng nguồn lực đáng kể để giải quyết các vấn đề về chất lượng giáo dục. Có nhiều bằng chứng cho thấy trong nhiều trường hợp, nhiều nguồn lực hơn không có nghĩa là kết quả tốt hơn về chất lượng giáo dục và kết quả học tập (xem: Resources and student achievement). Ngành giáo dục cần tiết kiệm nguồn lực nội bộ bằng cách giảm các biện pháp thiếu hiệu quả trước khi đưa ra giải pháp tăng nguồn lực cho ngành. Tiếp tục đọc “Hiệu quả của một hệ thống giáo dục”

Thêm nhiều lý do để giải tán phòng giáo dục và đào tạo các quận, huyện

THUẬN PHƯƠNG 

giaoduc.net.vn  THẢO LUẬN (27)

(GDVN) – Chúng tôi chưa thấy phòng giáo dục và đào tạo địa phương nào đề xuất được các giải pháp thiết thực trong cải cách quản trị và nâng cao chất lượng giáo dục.

LTS: Xung quanh đề xuất của thầy giáo Bùi Nam về việc giải tán các phòng giáo dục và đào tạo cấp quận, huyện trên cả nước để tinh giản biên chế, cô giáo Thuận Phương có bài viết chia sẻ góc nhìn của mình, lý giải các nguyên nhân.
Tiếp tục đọc “Thêm nhiều lý do để giải tán phòng giáo dục và đào tạo các quận, huyện”

School reforms to offer autonomy

Last update 07:20 | 11/11/2017

VietNamNet Bridge – Professor Nguyen Minh Thuyet, chief editor of the new curriculum for comprehensive education reform, talks to Giao duc Viet Nam (Vietnam Education) e-newspaper on the Ministry of Education and Training’s preparations to implement the reforms nationwide.

School reforms, new education programme, training teachers, Vietnam economy, Vietnamnet bridge, English news about Vietnam, Vietnam news, news about Vietnam, English news, Vietnamnet news, latest news on Vietnam, Vietnam
Illustrative image — File photo

How much training have teachers received on to apply the new curriculum for comprehensive education reform? Tiếp tục đọc “School reforms to offer autonomy”

Ngân hàng thế giới cảnh báo về “khủng hoảng giáo dục” toàn cầu

English: World Bank warns of ‘learning crisis’ in global education

Báo cáo Phát triển Thế giới năm 2018 kêu gọi những giải pháp hữu hiệu, hành động rõ ràng.

Hàng triệu học sinh, sinh viên ở những nước có thu nhập thấp và trung bình phải đối mặt với nguy cơ bị tước đoạt các cơ hội hoặc chỉ nhận được mức lương thấp bởi ngay từ bậc tiểu học và trung học, trường lớp đã không dạy chúng thành công trong cuộc sống. Trong cảnh báo về khủng hoảng giáo dục toàn cầu, báo cáo cho rằng trường học mà không đi đôi với học tập và giáo dục thì không chỉ làm lãng phí cơ hội phát triển con người, mà còn là thiệt thòi lớn cho trẻ em và người trẻ nói chung toàn cầu.

Theo Báo cáo Phát triển Thế giới năm 2018: “Hiện thực hóa lời hứa Giáo dục” nhận định, nếu không có học tập và giáo dục, giáo dục sẽ không thể thực hiện mục tiêu xóa nghèo, tạo ra cơ hội và sự phồn vinh cho tất cả mọi người. Ngay cả khi đã được đào tạo ở trường nhiều năm, hàng triệu đứa trẻ vẫn không thể đọc, viết hay làm những con toán đơn giản. Khủng hoảng giáo dục đang nới rộng khoảng cách xã hội thay vì thu hẹp lại.  Những trẻ em vốn chịu thiệt thòi vì nghèo đói, xung đột vũ trang, phân biệt giới tính hay khuyết tật cơ thể nay trở thành những người trưởng thành trẻ tuổi không có cả những kỹ năng sống cơ bản nhất.

“Cuộc khủng hoảng giáo dục này đồng thời cũng là cuộc khủng hoảng đạo đức và kinh tế” Chủ tịch Ngân hàng Thế giới Jim Yong Kim nhấn mạnh. “Nếu đi đúng hướng, giáo dục tốt sẽ cho người trẻ một công việc tốt, thu nhập tốt hơn, sức khỏe tốt và một cuộc sống không còn nghèo khó.”
Với cộng đồng, giáo dục thúc đẩy sự đổi mới, củng cố tổ chức, và tăng liên kết xã hội. Nhưng tất cả lợi ích này có được nhờ việc học tập và giáo dục, và và trường học mà không có giáo dục chỉ làm ta bỏ lỡ những cơ hội. Hơn thế, đây là điều bất công tại các xã hội có khủng hoảng, trẻ em càng cần được hưởng nền giáo dục tốt để thành công trong cuộc sống sau này.
Tiếp tục đọc “Ngân hàng thế giới cảnh báo về “khủng hoảng giáo dục” toàn cầu”

Should schools use the VNEN educational methodology?

 vietnamnet

Last update 08:05 | 04/10/2017
VietNamNet Bridge  – The Ministry of Education and Training (MOET) has said that the ministry ‘won’t let it go’, but will “join hands with education establishments to fix existing problems and overcome difficulties to deploy the new educational method VNEN (the Vietnam Escuela Nueva) in a more effective way and prepare well for the implementation of the new general education program”.vietnam economy, business news, vn news, vietnamnet bridge, english news, Vietnam news, news Vietnam, vietnamnet news, vn news, Vietnam net news, Vietnam latest news, Vietnam breaking news, VNEN, MOET, HCMC
This was confirmed by deputy director of MOET’s Primary Education Department Nguyen Duc Huu.

He said the nature of VNEN is student-centered teaching methodology. Most of the schools using VNEN have prepared the material and teaching facilities, especially the teaching staff, and have ‘deployed VNEN in a flexible and creative way’. Tiếp tục đọc “Should schools use the VNEN educational methodology?”

Châu Á “nhập khẩu” mô hình giáo dục Phần Lan: Vì sao không thành công?

TT – Phần Lan, với dân số 5 triệu người, trở thành quốc gia có nền giáo dục tiên tiến trên thế giới những năm gần đây. Nhiều quốc gia đã cử các học giả, nhà nghiên cứu sang tìm hiểu mô hình giáo dục của đất nước này, nhưng lại không thể áp dụng hiệu quả. Vì sao?

Châu Á "nhập khẩu" mô hình giáo dục Phần Lan: Vì sao không thành công? Phóng to

Giáo viên hướng dẫn học sinh trong lớp ở Phần Lan – Ảnh: FT

tuoitre.vn_Bí mật thành công của nền giáo dục Phần Lan chính là chất lượng dạy học, lấy học sinh làm trung tâm và đội ngũ giáo viên được quan tâm và ưu tiên hàng đầu, chứ không chạy đua theo thành tích.

Tất cả giáo viên đều được đào tạo nghiêm ngặt, phải có bằng thạc sĩ mới được đứng lớp và họ được xem là những chuyên gia giáo dục. Phần Lan lựa chọn và tuyển dụng giáo viên rất kỹ lưỡng. Chẳng hạn trong năm 2010, có 1.258 sinh viên đăng ký chương trình đào tạo giáo viên tiểu học nhưng chỉ 123 người (9,8%) được chấp nhận để tham gia chương trình đào tạo giáo viên tiểu học trong thời gian năm năm. Mức lương hằng năm của một giáo viên tiểu học từ 40.000-60.000 USD và giáo viên làm việc 190 ngày/năm.

“Chương trình đào tạo giáo viên tiểu học năm năm rất tốn kém, nhưng đội ngũ giáo viên được đào tạo ra đều có năng lực cao và được xã hội tôn trọng” – Jari Lavonen, trưởng khoa sư phạm tại đại học Helsinki, cho biết.

Chương trình dạy học linh động

Hàn Quốc băn khoăn chuyện học bằng tiếng Anh

Tiếp tục đọc “Châu Á “nhập khẩu” mô hình giáo dục Phần Lan: Vì sao không thành công?”

Việt Nam nghiên cứu nhập khẩu chương trình giáo dục Phần Lan

Việt Nam nghiên cứu nhập khẩu chương trình GD Phần Lan
(PLO)- Việt Nam và Phần Lan trao đổi về khả năng mua bản quyền xuất bản các sách về toán, khoa học, tiếng Anh, chương trình STEM; nhập khẩu chương trình đào tạo bậc tiểu học, phổ thông, ĐH của Phần Lan…

Bộ trưởng Bộ GD&ĐT Phùng Xuân Nhạ cùng đoàn công tác của Bộ GD&ĐT vừa có chuyến thăm và làm việc với nhiều cơ quan giáo dục của Phần Lan.

Theo đó, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Văn hóa Phần Lan Sanni Grahn-Laasonen, Bộ trưởng Phùng Xuân Nhạ đã chứng kiến ký kết 18 biên bản ghi nhớ giữa các trường ĐH và trung học của Việt Nam với các đối tác Phần Lan, mở ra nhiều cơ hội học tập tốt hơn cho học sinh, sinh viên Việt Nam.

Các biên bản ghi nhớ tập trung chủ yếu vào bốn lĩnh vực: Chuyển giao tài liệu về chương trình và sách giáo khoa, chuyển giao công nghệ đào tạo trực tuyến, khuyến khích mở thêm trường phổ thông Phần Lan ở Hà Nội (bên cạnh dự án trường phổ thông Phần Lan ở TP.HCM đang trong quá trình hoàn tất); hợp tác ĐH để cùng liên kết đào tạo một số lĩnh vực; phối hợp đào tạo và bồi dưỡng giáo viên.

Cũng trong dịp này, Bộ trưởng Phùng Xuân Nhạ đã hội đàm với bộ trưởng Thương mại và Phát triển Phần Lan. Hai bên đã trao đổi về khả năng mua bản quyền xuất bản các sách về toán, khoa học, tiếng Anh, chương trình STEM; nhập khẩu chương trình đào tạo bậc tiểu học, phổ thông, ĐH của Phần Lan; thúc đẩy các hoạt động hợp tác, dự án về khởi nghiệp…

TN

Chìa khóa đi vào hiện đại hóa

  • HỒNG LÊ THỌ (TOKYO),  NGUYỄN XUÂN XANH (ĐỨC)
  • 06.03.2008, 09:00

TTCT – Việt Nam cần khẩn trương học những tấm gương lịch sử sáng chói của Nhật Bản hay Đức, nếu thật sự muốn canh tân đất nước. Không có con đường nào khác hơn. Cần lập ngay những tổ nghiên cứu để học hỏi cụ thể và nghiêm túc từ hai quốc gia này, và thực hiện cho bằng được một công cuộc dạy nghề qui mô lịch sử cho đất nước. Đó sẽ là thế mạnh của quốc gia và niềm vinh hạnh cho đất nước này.

Chìa khóa đi vào hiện đại hóaPhóng toMinh Trị về Tokyo

Nhật Bản

Đến nay Nhật Bản đã trải qua hai lần cải cách giáo dục một cách qui mô, chịu ảnh hưởng rất lớn của Mỹ. Thời Minh Trị Duy Tân, với hai cố vấn nổi tiếng là các ông David Murray và Marion McCarrell Scott, và sau Thế chiến thứ hai với đoàn tham vấn về giáo dục của Chính phủ Hoa Kỳ.

Tiếp tục đọc “Chìa khóa đi vào hiện đại hóa”

Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam: Không chủ trương bỏ biên chế giáo viên

vietnamnet

Khẳng định không có chủ trương bỏ biên chế giáo viên của lãnh đạo Chính phủ trước cử tri, ĐBQH đã giải toả tâm tư, nỗi lo lắng của hơn 1 triệu giáo viên, cũng như cả xã hội trong hơn 1 tháng qua.

Cách đây hơn 1 tháng, ngày 12/5, phát biểu của Bộ trưởng GD&ĐT Phùng Xuân Nhạ về thí điểm bỏ biên chế giáo viên tại cuộc tiếp xúc cử tri tỉnh Bình Định, đã nhận được nhiều ý kiến phân tích, trao đổi, tranh luận từ các chuyên gia giáo dục, pháp luật, ĐBQH và các nhà giáo.

bỏ biên chế giáo viên, biên chế giáo viên, biên chế, Phó Thủ tướng, Vũ Đức Đam, giáo viên, Lê Thị Nguyệt
Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam trao đổi với ĐB Lê Thị Nguyệt (ngoài cùng bên trái)

Trả lời chất vấn của ĐBQH Lê Thị Nguyệt (Vĩnh Phúc) về vấn đề này, Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam cho rằng, đây mới là ý kiến phát biểu của Bộ trưởng Phùng Xuân Nhạ, Bộ GD&ĐT chưa hề có văn bản đề xuất và trong nhiều lần làm việc với Bộ, Phó Thủ tướng cũng chưa bao giờ nghe thấy đề xuất này. Tiếp tục đọc “Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam: Không chủ trương bỏ biên chế giáo viên”

World Bank funds US$155 Million to Support Autonomous Higher Education in Việt Nam

vietnamnews

Update: May, 16/2017 – 18:00

A World Bank project will support the financing of new facilities and equipment for teaching and research.—VNA/VNS Photo
Viet Nam News WASHINGTON — The World Bank’s Board of Executive Directors approved today US$155 million in financing to strengthen the research, teaching, and institutional capacity of three universities and improve the management of Việt Nam’s higher education system.

More than 150,000 students and 3,900 members of faculty will benefit from the investments for Việt Nam’s National University of Agriculture, the University of Science and Technology in Hà Nội, and the Industry University of Hồ Chí Minh City. Some 600,000 students and 27,000 lecturers from other higher education institutions will also gain access to a digital library at the National Economics University.

“Việt Nam’s gains in higher education are evident in the numbers: 17 times more students enrolled since 1991,” says Ousmane Dione, the World Bank Country Director for Việt Nam.

“But Việt Nam needs stronger growth in labour productivity and further significant shifts of the workforce to more productive sectors. Addressing this challenge requires different skills sets and competencies and further strengthening the access to, and quality of higher education. This is at the core of what this project aims to achieve,” he added.

The project will support the financing of new facilities and equipment for teaching and research, as well as the strengthening management systems.

Additional objectives of the project include support for the strengthening of the key components of higher education – such as the national accreditation system – as well as efforts to share the lessons learned by the beneficiary universities.

The International Development Association, the World Bank’s fund for low income countries, will provide US$155 million to the US$174 million project, with the Vietnamese Government providing the remaining funds.—VNS

Giáo dục không triết lý

VNExpress_Ngày trước, tôi thường phụ đạo miễn phí cho các lưu học sinh Campuchia theo học tại Đại học Bách khoa Hà Nội.

Mặc định kiến thức nền tảng của các bạn ấy chưa tốt nên tôi chữa bài rất chậm và tỉ mỉ. Đến bài khó tôi dừng lại hỏi, có ai thắc mắc gì không? Một lần có sinh viên hỏi: “Vận tốc là gì hả thầy?”. Tôi thấy rất bối rối. Vì đang nói câu chuyện về con tàu siêu thanh, thì có bạn lại hỏi đi bộ là gì. Tôi hỏi cả lớp, có ai có câu hỏi tương tự không? Nhiều cánh tay giơ lên. Chúng tôi phải bắt đầu lại từ đầu, giống như khi học bảng cửu chương vậy.

Vài năm gần đây, các lưu học sinh không cần nhờ tôi phụ đạo nữa, và số lưu học sinh Campuchia cũng ít đi. Tôi trò chuyện với họ thì biết giáo dục Campuchia đã có rất nhiều thay đổi.

Vào năm 2013, Thứ trưởng Bộ Tài chính Campuchia, Hang Chuon Naron, được bổ nhiệm làm Bộ trưởng Giáo dục. Không giống như dự đoán, việc đầu tiên ông làm là thực thi chính sách “không gian lận” trong giáo dục và thi cử, chứ không phải bắt đầu bằng các kế hoạch cải cách nhiều triệu USD.

Tiếp tục đọc “Giáo dục không triết lý”