Bài 1: Những người giữ hồn văn hóa dân tộc giữa lòng Thủ đô
Bài 2: Tiếng lòng từ chủ thể văn hóa
Bài 3: Để chủ thể văn hóa tiếp tục phát huy tâm huyết với vốn di sản quý báu
Bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa dân tộc nói chung và di sản văn hóa truyền thống của đồng bào dân tộc thiểu số nói riêng luôn là chủ trương nhất quán của Đảng, Nhà nước ta, được đặt trong tổng thể sự phát triển quốc gia, dân tộc. Thời gian qua, nhờ các chính sách tích cực, hiệu quả, các di sản văn hóa vật thể và phi vật thể của đồng bào các dân tộc thiểu số được quan tâm bảo tồn, tôn vinh và phát huy giá trị, góp phần quan trọng nâng cao đời sống tinh thần đồng bào các dân tộc, đóng góp vào sự phát triển chung của đất nước. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, vẫn còn những hạn chế, bất cập cần quan tâm khắc phục. Báo Quân đội nhân dân giới thiệu loạt bài “Bảo tồn bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số – Trăn trở của những người trong cuộc”.
Bài 1: Những người giữ hồn văn hóa dân tộc giữa lòng Thủ đô
Tại “Ngôi nhà chung” Làng Văn hóa – Du lịch các dân tộc Việt Nam (Sơn Tây, Hà Nội), chúng tôi đã gặp những Nghệ nhân Ưu tú, những người bằng tình yêu, trách nhiệm và cả những băn khoăn, trăn trở đang ngày ngày bền bỉ, lặng thầm giữ gìn hồn cốt văn hóa dân tộc. Họ không chỉ là những người trực tiếp bảo tồn di sản văn hóa mà còn thắp lên ngọn lửa đam mê, truyền cảm hứng để những giá trị quý báu không bị lãng quên, mai một.
Lớp cha trước, lớp con sau
Trong không gian rộn ràng sắc Xuân của Làng Văn hóa – Du lịch các dân tộc Việt Nam, tiếng nhạc ngũ âm bỗng vang lên, dẫn dắt du khách vào một thế giới kỳ diệu của nghệ thuật múa Rô băm.
Múa Rô băm không giống những loại hình nghệ thuật khác. Nó không chỉ đơn thuần là múa mà là sân khấu cung đình của người Khmer, nơi những hoàng tử, công chúa bước ra từ cổ tích để kể lại câu chuyện về thiện và ác, chính và tà. Tất cả được kể lại qua từng động tác của Đoàn Nghệ thuật Rô băm Reasmei Bưng Chông dưới sự dìu dắt của Nghệ nhân Ưu tú Lâm Thị Hương – người phụ nữ đã dành cả cuộc đời để gìn giữ một loại hình nghệ thuật “cha truyền con nối” hình thành cách đây hơn 200 năm, và là đoàn nghệ thuật Rô băm duy nhất còn được kế tục, lưu truyền hoạt động ở Sóc Trăng hiện nay.
![]() |
| Nghệ nhân Ưu tú Lâm Thị Hương giới thiệu các bằng khen, giấy khen – “gia tài” lớn nhất của bà. |
Trong căn nhà nhỏ chưa đầy 60m² của bà tại Sóc Trăng treo kín bằng khen, giấy khen và những bộ trang phục rực rỡ sắc màu của các vai diễn Rô băm. Với bà Lâm Thị Hương, đó chính là gia tài lớn nhất!
“Từ khi còn bé, tôi đã nghe tiếng đàn, tiếng trống Rô băm vang lên trong những đêm hội. Tôi thấy cha tôi cẩn thận tô vẽ từng chiếc mặt nạ, tỉ mẩn may từng bộ trang phục. Trong tâm thức của tôi, Rô băm không phải chỉ là một điệu múa, một vở diễn, mà đó là linh hồn, là hơi thở của cả dân tộc mình”, bà Hương chia sẻ với ánh mắt tự hào.
Nhà nghiên cứu văn hóa Khmer, nhà lý luận và phê bình sân khấu Nghệ sĩ Ưu tú Sang Sết, nhận định: Múa Rô băm là cầu nối giữa quá khứ và hiện tại, phản ánh đời sống sinh động của cộng đồng người Khmer. Đây không đơn thuần là một loại hình nghệ thuật, mà còn là một biểu tượng văn hóa, phản ánh sâu sắc tâm hồn và bản sắc của người Khmer. Trong suốt nửa đầu thế kỷ 20, Rô băm phát triển mạnh mẽ, trở thành phương tiện chuyển tải tư tưởng, thế giới quan và những giá trị đạo đức của cộng đồng, là kho tàng lưu giữ lịch sử, tín ngưỡng và triết lý sống của người Khmer.
Tình yêu ấy đã theo bà suốt những năm tháng tuổi thơ, rồi trở thành sứ mệnh dẫn dắt đoàn nghệ thuật của gia đình khi cha bà qua đời vào năm 2003. Không dừng lại ở việc duy trì nghệ thuật trong phạm vi địa phương, bà Hương cùng chồng là nghệ nhân Sơn Del đã đưa múa Rô băm ra khỏi ranh giới phum, sóc đến với đông đảo công chúng. Từ năm 2016, bà đưa một số diễn viên ra Hà Nội, tham gia các hoạt động tại Làng Văn hóa – Du lịch các dân tộc Việt Nam. Ở đây, ngày ngày bà cùng đoàn luyện tập, biểu diễn, giới thiệu về nguồn gốc và ý nghĩa của từng động tác múa, từng chiếc mặt nạ trên sân khấu Rô băm cho du khách trong nước và quốc tế.
Bà chưa bao giờ nghĩ đến ngày mình sẽ nghỉ ngơi. Dù ở Sóc Trăng hay Hà Nội, dù ở sân khấu lớn hay một góc làng nhỏ, bà vẫn sẽ múa, vẫn sẽ truyền dạy, vẫn sẽ kể những câu chuyện Khmer bằng nghệ thuật Rô băm.
Với những cống hiến không ngừng, tháng 3-2019, bà Lâm Thị Hương vinh dự được Chủ tịch nước phong tặng danh hiệu Nghệ nhân Ưu tú; năm 2021, bà được Bộ trưởng Bộ Văn hóa – Thể thao và Du lịch tặng bằng khen vì những đóng góp cho hoạt động bảo tồn văn hóa Khmer. Tháng 8-2024, bà tiếp tục được Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc trao tặng Kỷ niệm chương “Vì sự nghiệp phát triển các dân tộc”, ghi nhận vai trò của bà trong việc xây dựng và phát triển khối đại đoàn kết dân tộc.
Người đảng viên Xơ Đăng đam mê bảo tồn văn hóa dân tộc
Giữa muôn vàn âm thanh kỳ diệu của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, tiếng đàn K’lông Pút vang lên trầm tĩnh, thẳm sâu như hơi thở của đại ngàn Tây Nguyên. Theo thanh âm ấy, chúng tôi tìm đến Nghệ nhân Ưu tú, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam người Xơ Đăng Y Sinh.
Chậm rãi rót chén cà phê đậm đà hương vị núi rừng mời chúng tôi thưởng thức, Nghệ nhân Ưu tú Y Sinh chia sẻ: “Tôi sinh ra giữa tiếng chiêng trầm hùng, lớn lên trong nhịp xoang rộn rã và những câu chuyện sử thi về các vị anh hùng bảo vệ buôn làng. Ngày còn bé, tôi đã say mê tiếng đàn T’rưng, đàn K’lông Pút… Lớn lên, tôi đi dạy học ở Trường Nội trú huyện Đắk Tô”.
Trong ký ức của bà, cuộc gặp gỡ định mệnh với Nghệ sĩ nhân dân Trung Kiên vào dịp Tết năm 1979, chính là bước ngoặt để bà quyết định giữ gìn và bảo tồn tiếng đàn K’lông Pút của dân tộc Xơ Đăng. Nghệ sĩ nhân dân Trung Kiên khi thấy bà đánh đàn K’lông Pút cho các em học sinh nghe đã ân cần nói: “Nhớ nhé con nhé, con phải tiếp tục giữ gìn tiếng đàn này nhé”, và nhận bà làm con nuôi.
Khi đó, bà Y Sinh được bà con buôn làng gọi là “nghệ nhân” vì tài năng chơi đàn Klông Pút và đàn T’rưng, nhưng thời điểm đó bà chưa hiểu rõ danh xưng ấy có nghĩa là gì. Mỗi khi bà cất tiếng đàn, làng xóm lại xúm lại lắng nghe và cái tên “nghệ nhân” cứ thế theo bà suốt bao năm tháng.
Đến năm 2015, bà được Nhà nước phong tặng danh hiệu Nghệ nhân Ưu tú. Với mong muốn giữ gìn, lan tỏa di sản truyền thống của cha ông, Nghệ nhân Ưu tú Y Sinh quyết định rời Kon Tum, đến với Làng Văn hóa – Du lịch các dân tộc Việt Nam.
![]() |
| Nghệ nhân Ưu tú Y Sinh, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, người dân tộc thiểu số Xơ Đăng luôn đau đáu với bảo tồn giá trị văn hóa dân tộc. |
Nghệ nhân Y Sinh cho biết thêm: “Đến với Làng Văn hóa – Du lịch các dân tộc Việt Nam, tôi càng ý thức được rằng bảo tồn văn hóa dân tộc mình là trách nhiệm lớn lao với một hành trình dài hơi. Nhờ ơn Đảng, Nhà nước, tôi có cơ hội giữ gìn và phát huy những giá trị quý báu này. Hơn nữa, là một đảng viên, tôi càng phải có tinh thần dấn thân, làm thật tốt công việc này như lời Bác Hồ dạy về người chiến sĩ trên mặt trận văn hóa”.
Tại đây, mặc dù đã gần 70 tuổi, nhưng bà vẫn kiên trì, say mê từng điệu đàn, từng bài hát, bảo ban từng em nhỏ về cách chế tác đàn K’lông Pút, về cách chơi đàn T’rưng… Trong suốt 7 năm gắn bó với Làng, Nghệ nhân Y Sinh đã trực tiếp tham gia truyền dạy âm nhạc dân tộc cho các em nhỏ, đặc biệt là những học sinh đến từ Kon Tum, mỗi đợt từ 6 đến 8 em.
Giới thiệu về cây đàn K’lông Pút, Nghệ nhân Ưu tú Y Sinh say sưa kể: Đàn K’lông Pút chuẩn của người Xơ Đăng được ghép từ các ống nứa, loại 9 ống sẽ đánh được tất cả các bài hát của đồng bào Tây Nguyên, còn nguyên bản là loại đàn 6 ống – là đặc trưng của đồng bào Xơ Đăng. Đặc biệt, đàn K’lông Pút là nhạc cụ dành riêng cho phụ nữ, thường được chơi vào mùa lúa, khi người Xơ Đăng lên rẫy, hay vào những đêm lễ hội trong nhà rông…
Từ bỏ cuộc sống thành thị về quê tập đàn, hát Then
Một câu chuyện khác về nỗ lực bền bỉ nhằm lan tỏa giá trị nghệ thuật truyền thống dân tộc mà chúng tôi được chứng kiến là trường hợp nghệ nhân hát Then Nguyễn Thị Xuyến.
Sinh ra và lớn lên giữa không gian văn hóa đậm đà bản sắc của người Tày ở Thái Nguyên, Nguyễn Thị Xuyến từ nhỏ đã quen với tiếng hát Then bên bếp lửa, bên cánh đồng ngô, nương sắn để rồi trong những năm tháng mưu sinh, rời xa bản làng, bà Xuyến mới nhận ra nỗi trống trải trong tâm hồn mình.
“Ngày đó, tôi đi làm xa, sống giữa phố thị nhộn nhịp nhưng trong lòng lúc nào cũng vang lên tiếng đàn Tính, lời Then của mẹ. Có những đêm nằm nhớ quê, nhớ tiếng đàn Tính đến da diết, tôi chợt nhận ra, không có Then, cuộc đời tôi như mất đi một phần quan trọng nhất. Hát Then là một phần máu thịt của mình, một thứ không thể mất đi”, bà Xuyến bồi hồi nhớ lại.
![]() |
| Nghệ nhân Ưu tú Nguyễn Thị Xuyến cho rằng, việc bảo tồn Then không đơn giản chỉ là hát, mà còn phải hiểu, cảm nhận được cội nguồn sâu xa của nó. |
Năm 2007, trong một hội trà Xuân tại Thái Nguyên, khi nghe những vị khách phương xa nói về vẻ đẹp của những làn điệu dân gian, bà Xuyến cất lên một câu Then. Tiếng hát ấy ngay lập tức thu hút mọi người, lắng nghe, xao động. Chính khoảnh khắc ấy đã đánh thức trong bà một sứ mệnh lớn lao hơn: Trở thành người gìn giữ và lan tỏa di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.
Quyết định quay về với Then, bà Xuyến lao vào học hỏi, tìm tòi, sưu tầm những làn điệu cổ, các làn điệu Then vang vọng, từ Tàng bốc, Tàng nặm đến Giáp ba, Thoỏng hương, Khảm khắc…. Then không đơn thuần chỉ là một loại hình nghệ thuật mà nó còn là tâm linh, là hơi thở cuộc sống của người Tày. Mỗi câu hát Then không chỉ kể chuyện về cuộc sống, về thiên nhiên mà còn thể hiện những ước nguyện thiêng liêng của con người trước trời đất. Chính vì vậy, việc bảo tồn Then không đơn giản chỉ là hát, mà còn phải hiểu, phải cảm nhận được cội nguồn sâu xa của nó.
Năm 2015, sau khi xuất sắc giành Giải A toàn quốc Cuộc thi nghệ thuật hát Then, bà Xuyến quyết định về Làng Văn hóa – Du lịch các dân tộc Việt Nam để tiếp tục hành trình lan tỏa môn nghệ thuật này. Đối với bà Xuyến, việc biểu diễn Then trước du khách là một điều vô cùng tự hào, nhưng quan trọng nhất phải làm sao truyền dạy cho thế hệ sau. Năm 2023, bà đã mở lớp truyền dạy hát Then đầu tiên với hơn 60 học viên, trong đó có rất nhiều bạn trẻ người Tày, người Kinh, người Nùng…
Bà Xuyến chia sẻ: “Ngày trước, tôi hát Then chỉ vì đam mê, vì yêu văn hóa dân tộc. Nhưng khi nhận danh hiệu Nghệ nhân Ưu tú, tôi hiểu rằng mình có trách nhiệm lớn hơn là phải gìn giữ, trao truyền để không một mạch nguồn văn hóa nào bị đứt gãy”.
Di sản Thực hành Then của người Tày, Nùng, Thái ở Việt Nam chính thức được UNESCO ghi danh vào Danh sách Di sản Văn hóa Phi vật thể đại diện của nhân loại. Theo bà Xuyến, danh hiệu đó là niềm tự hào lớn lao, nhưng chỉ thực sự có ý nghĩa khi Then vẫn còn được cất lên trong đời sống.
“Di sản có thể được công nhận, nhưng nếu không có người thực hành, không có những người truyền dạy, thì nó cũng chỉ nằm trên giấy. Tôi muốn Then sống mãi, muốn thế hệ sau vẫn cất lên những câu Then như cha ông đã từng làm. Nếu mất đi Then, cũng có nghĩa là mất đi một phần tâm hồn của người Tày”, bà nhấn mạnh.
(còn nữa)
Bài 2: Tiếng lòng của chủ thể văn hóa
Để bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của đồng bào dân tộc thiểu số cần nhiều nguồn lực, trong đó quan trọng nhất chính là yếu tố con người – chủ thể sáng tạo, thực hành, trao truyền văn hóa. Tuy nhiên, hiện vẫn còn nhiều bất cập cần có những cơ chế, chính sách cụ thể để khắc phục, phát huy mạnh mẽ vai trò của nguồn lực đặc biệt này.
Chật vật kinh phí duy trì hoạt động
Giữa dòng chảy hối hả của thời đại, nghệ thuật sân khấu Rô băm – một di sản quý báu của đồng bào Khmer Nam Bộ – đang đứng trước nguy cơ mai một vì thiếu kinh phí duy trì. Dù là đoàn nghệ thuật Rô băm duy nhất của tỉnh Sóc Trăng, nhưng đoàn của Nghệ nhân Ưu tú Lâm Thị Hương vẫn chật vật tồn tại, bám trụ với đam mê trong điều kiện đầy khó khăn khi phải tự xoay sở mọi chi phí, từ mua sắm đạo cụ, trang phục cho đến đi lại khi được mời biểu diễn.
Nghệ nhân Ưu tú Lâm Thị Hương cho hay, ngày còn ở Sóc Trăng, do thiếu kinh phí đầu tư, đoàn chỉ có thể hoạt động cầm chừng, mỗi năm chỉ đi diễn khoảng 15-20 ngày vào các dịp lễ quan trọng như dâng bông, lễ cầu an… Phần lớn thời gian còn lại, các diễn viên phải mưu sinh bằng công việc đồng áng, làm thuê, may trang phục bán để có thêm nguồn thu nhập trang trải đời sống.
![]() |
| Mỗi động tác múa, mỗi cái liếc mắt, mỗi nhịp chân của những nghệ nhân múa Rô băm trên sân khấu đều như thổi hồn vào những câu chuyện cổ tích Khmer… |
Dù vậy, điều bà Hương trăn trở nhất không chỉ là vấn đề tiền bạc mà là lớp trẻ – thế hệ sẽ nối tiếp gìn giữ Rô băm. Những đứa trẻ 10-12 tuổi háo hức xin học múa, nhưng đào tạo một diễn viên Rô Băm không chỉ là dạy điệu múa mà còn là rèn nhịp phách, nhập vai, thấu hiểu tâm hồn nghệ thuật. Một diễn viên giỏi phải thành thạo nhiều vai, biết chơi nhiều nhạc cụ – điều mà không trường lớp nào dạy ngoài chính những nghệ nhân. Kinh phí cho những việc này đều phải tự túc.
Tuổi đã cao, chân tay thường xuyên đau mỏi, nhưng Nghệ nhân Lâm Thị Hương vẫn cố gắng hết sức để bảo tồn nghệ thuật của người Khmer. Bà mong nhận được hỗ trợ để xây dựng một sân khấu biểu diễn đúng nghĩa, nơi có thể bảo quản trang phục, đạo cụ và truyền dạy nghệ thuật Rô băm cho thế hệ sau.
Chia sẻ về quyết tâm duy trì đoàn Rô băm, em Lâm Thị Mỹ Hạnh, con gái của Nghệ nhân Ưu tú Lâm Thị Hương nói: “Em không muốn đoàn nghệ thuật phải giải thể. Với mẹ và các nghệ nhân trong đoàn, văn hóa dân tộc quan trọng hơn bất cứ thứ gì, hơn cả vật chất. Nếu một ngày mẹ không còn, em sẽ tiếp tục duy trì đoàn, không bao giờ bỏ cuộc. Em thấy mẹ ngày đêm làm trang phục rất cực khổ…”.
![]() |
| Bà Lâm Thị Hương (hàng trên thứ hai từ trái sang) cùng các nghệ nhân múa Rô băm ở Làng Văn hóa – Du lịch các dân tộc Việt Nam. |
Trước thực tế này, tỉnh Sóc Trăng đã và đang có những chính sách tích cực nhằm hỗ trợ nghệ thuật Rô băm phát triển. Nhiều lớp bồi dưỡng, truyền dạy nghệ thuật múa Rô băm đã được tổ chức để giúp cộng đồng, đặc biệt là đồng bào Khmer, có cơ hội tiếp cận và gìn giữ di sản. Đặc biệt, ngày 7-2-2024, UBND tỉnh Sóc Trăng đã ban hành Quyết định số 215/QĐ-UBND phê duyệt Đề án “Bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể quốc gia Nghệ thuật Rô băm của người Khmer và Lễ hội Nghinh Ông trên địa bàn huyện Trần Đề, tỉnh Sóc Trăng giai đoạn 2023-2028”. Đề án đặt mục tiêu bảo vệ và lưu truyền những giá trị đặc sắc của di sản văn hóa, đồng thời nâng cao nhận thức cộng đồng về việc gìn giữ di sản, biến di sản văn hóa thành nguồn lực phát triển bền vững.
Theo ông Trần Cẩm Tú, Trưởng Phòng Văn hóa và Thông tin huyện Trần Đề, bảo tồn di sản văn hóa không chỉ là trách nhiệm mà còn là niềm tự hào của mỗi người dân. Chúng tôi mong muốn nghệ thuật Rô băm không chỉ tồn tại, mà còn phát triển mạnh mẽ, trở thành một phần quan trọng trong đời sống văn hóa của cộng đồng.
Bảo tồn văn hóa không thể thực hiện đơn độc
Khi hỏi về thời điểm sẽ nghỉ ngơi, trở về với gia đình và buôn làng, Nghệ nhân Ưu tú Y Sinh vẫn rất kiên định: “Tình yêu của tôi đối với đàn K’lông pút là bất diệt”. Tuy nhiên, người nghệ nhân già này vẫn không khỏi băn khoăn trước sự lãng quên, xa cách của lớp trẻ, của cộng đồng đối với di sản văn hóa của chính mình.
“Bảo tồn văn hóa không thể thực hiện đơn độc. Để việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống một cách bền vững, cần sự chung tay của cả cộng đồng, sự hỗ trợ nhiều hơn nữa của chính quyền địa phương trong giám sát, tuyên truyền, nhất là tìm kiếm những người trẻ có tài năng, có niềm đam mê với văn hóa dân tộc để tiếp tục công việc của chúng tôi”, bà Y Sinh trăn trở.
![]() |
| Nghệ nhân người dân tộc thiểu số Y Sinh hăng say dạy đàn K’lông pút. Ảnh: NVCC |
Ngoài ra, còn một vấn đề nữa ảnh hưởng sâu sắc đến sự liên tục trong truyền dạy các nhạc cụ dân tộc Tây Nguyên, đó là vấn đề kinh phí. Bà Y Sinh cho biết, những ngày đầu, dù chỉ nhận được trợ cấp ít ỏi khoảng 1,5 triệu đồng/tháng nhưng tất cả vẫn cảm thấy may mắn vì có thể bảo tồn văn hóa của dân tộc mình. Cho đến bây giờ, khi mức trợ cấp đã tăng lên 4,8 triệu đồng/tháng, nhưng so với nhu cầu trang trải cuộc sống, đó vẫn là con số quá nhỏ bé.
Theo nghệ nhân Y Sinh, nhiều em có năng khiếu, nhưng chỉ học được một thời gian ngắn rồi lại trở về với cuộc sống mưu sinh, khiến những kiến thức, kỹ năng đã học dần phai mờ. “Mình không thể giữ người ta được, mình không thể trách móc người ta được, nhưng bản thân rất tiếc… Rất mong các em ở Làng với tôi vài năm, chắc chắn các em sẽ thành công… tôi sẽ không phải lo lắng gì về truyền nhân của đàn K’lông pút nữa”.
Dù không ngừng mời gọi các em quay lại tiếp tục việc học nhưng rất khó khăn, nhất là trong điều kiện thiếu thốn nhạc cụ, điều kiện học tập…
Nguy cơ bị “hòa tan” trong dòng chảy của xã hội hiện đại
Cùng chung nỗi lo lắng cho việc tiếp truyền “phần hồn” của dân tộc mình, nghệ nhân Nguyễn Thị Xuyến trăn trở: Nếu không có những lớp truyền dạy, liệu văn hóa dân tộc Tày có còn được giữ gìn? Liệu các thế hệ sau có còn được biết đến những điệu hát, những câu chuyện mà ông cha đã gìn giữ hàng nghìn năm?
Thực tế là hiện nay, những điệu múa, tiếng hát Then, hay âm thanh của đàn Tính dần thưa vắng ở chính những ngôi làng của người Tày. Những giá trị văn hóa ấy, từng gắn bó mật thiết với mỗi gia đình, mỗi làng bản, giờ đây chỉ còn được thực hành trong những dịp lễ hội.
Văn hóa truyền thống, theo bà Xuyến, luôn được nuôi dưỡng trong mỗi gia đình, mỗi dòng họ và cộng đồng làng bản. Sự thâm nhập của các yếu tố văn hóa ngoại lai, cộng thêm sự thay đổi trong lối sống của người dân, đặc biệt là giới trẻ, đã khiến cho văn hóa Tày đối diện nguy cơ bị “hòa tan” trong dòng chảy của xã hội hiện đại. Những ngôi nhà Tày cũng không còn, những bộ trang phục truyền thống bị bỏ lại và tiếng nói của dân tộc Tày cũng không còn vang lên như trước.
![]() |
| Nghệ nhân Nguyễn Thị Xuyến cho biết, cần nâng cao nhận thức của đồng bào Tày, giúp họ nhận ra giá trị của văn hóa dân tộc mình, để họ tự giác và thấy cần phải giữ gìn truyền thống… |
Điều này, theo Nghệ nhân Ưu tú Nguyễn Thị Xuyến có nguyên nhân từ sự thay đổi suy nghĩ trong lối sống hiện đại, đặc biệt là giới trẻ, nhất là thiếu nguồn lực. Nhiều nghệ nhân đã già yếu, và không có thế hệ kế tục đang là thực trạng ngày càng phổ biến. Không chỉ có vậy, một bộ phận người Tày ở những vùng sâu vùng xa, điều kiện kinh tế khó khăn. Việc duy trì các giá trị văn hóa dường như không phải là ưu tiên trong cuộc sống của họ.
“Chúng ta cần nâng cao nhận thức của đồng bào, giúp họ nhận ra giá trị của văn hóa dân tộc mình, để họ tự giác và thấy cần phải giữ gìn truyền thống, không để những nét đẹp văn hóa này bị lãng quên, mai một”, bà Xuyến nhấn mạnh.
(còn nữa)
Bài 3: Để chủ thể văn hóa tiếp tục phát huy tâm huyết với vốn di sản quý báu (tiếp theo và hết)
Để những nghệ nhân người dân tộc thiểu số có thể phát huy trọn vẹn tâm huyết và giá trị của kho tàng di sản văn hóa quý báu mà họ đang gìn giữ, việc các cấp, các ngành vào cuộc là điều tất yếu. Cần có những giải pháp mạnh mẽ hơn nữa nhằm tạo điều kiện thuận lợi để các nghệ nhân truyền dạy những tri thức và kinh nghiệm về văn hóa truyền thống, góp phần bảo vệ và phát triển những giá trị văn hóa bền vững.
Cần sự quan tâm, chung tay góp sức của địa phương và cộng đồng
Như đã đề cập ở bài trước, tại ngôi nhà chung Làng Văn hóa – Du lịch các dân tộc Việt Nam, những người nghệ nhân vẫn đang “cháy” hết mình trong sự nghiệp bảo tồn, trao truyền những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc mình. Tuy nhiên, những nghệ nhân này đang cảm thấy “đơn độc”, nhất là trong nhịp sống hiện đại ngày càng thiếu thế hệ tiếp nối công việc của họ.
Để khắc phục tình trạng này, theo Nghệ nhân Y Sinh, cần sự chung tay của cả cộng đồng, đặc biệt là sự hỗ trợ từ chính quyền địa phương. Chính quyền địa phương có thể hỗ trợ trong việc truyền thông, vận động, nhất là tìm kiếm những người trẻ có tài năng, những người có niềm đam mê để đào tạo, kế thừa, giữ cho dòng chảy văn hóa của đồng bào dân tộc thiểu số không bị ngắt quãng. Bởi việc bảo tồn và phát triển văn hóa dân tộc không chỉ là chuyện của những người làm nghệ thuật, mà còn là công việc của cả xã hội.
![]() |
| Theo Nghệ nhân Y Sinh, cần sự chung tay của cả cộng đồng, đặc biệt là sự hỗ trợ từ chính quyền địa phương để giữ cho dòng chảy văn hóa của đồng bào dân tộc thiểu số không bị ngắt quãng. |
Nghệ nhân Ưu tú Nguyễn Thị Xuyến mong muốn đưa hát Then vào chương trình học từ cấp 1, để không chỉ thế hệ trẻ mà tất cả mọi người đều có thể cảm nhận và thấm đẫm văn hóa của dân tộc mình.
“Hát Then, đàn Tính cần được lưu truyền, bảo vệ và phát huy, không chỉ trong những dịp lễ hội mà còn trong cuộc sống hàng ngày. Chúng ta phải đưa nó vào đời sống, vào trong trường lớp, để không ai bị lãng quên và đánh mất những giá trị quý báu của dân tộc mình”, bà Xuyến chia sẻ.
Điều đáng mừng là những năm gần đây, một số trường học đã bắt đầu đưa nghệ thuật hát Then đến gần hơn với các lớp học sinh. Tiêu biểu như Câu lạc bộ hát Then – đàn Tính ở trường Tiểu học Lâu Thượng hay các chương trình học về Hát Then tại Trường Dân tộc nội trú THCS Định Hóa (Thái Nguyên). Nhờ đó, thế hệ trẻ được tiếp cận với những điệu hát, âm nhạc, và nhạc cụ truyền thống của dân tộc mình một cách bài bản, có hệ thống.
![]() |
| Nghệ nhân Nguyễn Thị Xuyến hướng dẫn phóng viên Báo Quân đội nhân dân đánh đàn Tính. |
Cùng quan điểm này, TS Trần Đoàn Lâm, Giám đốc kiêm Tổng biên tập Nhà xuất bản Thế giới cũng cho rằng, giáo dục trong nhà trường đóng vai trò then chốt trong việc bảo tồn văn hóa lâu dài. Các trường học có thể tổ chức các chương trình tìm hiểu về văn hóa dân tộc thiểu số, sân chơi nghệ thuật truyền thống, và các cuộc thi để phát hiện tài năng trẻ. Ông cũng đề xuất nhà trường nên trở thành nơi tổ chức diễn xướng, giao lưu văn hóa và giáo dục kiến thức về di sản. Khi các em học sinh được trực tiếp trải nghiệm và hiểu về giá trị văn hóa, tình yêu và niềm tự hào đối với di sản dân tộc sẽ được khơi dậy và lan tỏa.
Tiến sĩ Đoàn Lâm nhấn mạnh rằng, việc bảo vệ và phát huy giá trị văn hóa dân tộc không thể chỉ dừng lại ở các chính sách bảo tồn của các cơ quan nhà nước, mà còn cần sự chung tay của cộng đồng, các nghệ nhân và đặc biệt là giới trẻ.
Thực tế, hiện nay một bộ phận giới trẻ có xu hướng xa rời các giá trị văn hóa truyền thống, ít quan tâm đến âm nhạc dân gian, nghệ thuật truyền thống. Điều này không chỉ là sự thiếu hiểu biết mà còn là biểu hiện của sự thiếu kết nối giữa các thế hệ. Việc giáo dục và tuyên truyền về di sản văn hóa, đặc biệt là âm nhạc truyền thống, là một yếu tố quan trọng. Chính vì vậy, ông nhấn mạnh rằng cần tích hợp văn hóa dân gian vào chương trình học, đặc biệt là qua các môn nghệ thuật, để giúp các em hiểu và trân trọng những giá trị quý báu của dân tộc mình.
Cũng theo TS Trần Đoàn Lâm, mặc dù đã đạt được một số kết quả tích cực, hệ thống chính sách dành cho nghệ nhân dân tộc thiểu số vẫn còn nhiều bất cập, còn ít, thiếu đồng bộ và chưa thực sự phù hợp với đặc thù kinh tế – xã hội của vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Việc triển khai các chính sách này diễn ra chậm chạp, chưa thực sự đi vào thực tiễn cuộc sống.
Nguồn lực đầu tư cho việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của đồng bào dân tộc thiểu số còn hạn chế, trong khi hiệu quả sử dụng lại chưa cao. Đặc biệt, một bộ phận không nhỏ các ngành, các cấp vẫn chưa nhận thức đầy đủ về tầm quan trọng của văn hóa dân tộc thiểu số, dẫn đến việc thực hiện các chính sách chưa đạt được hiệu quả như mong đợi.
Thêm vào đó, các chính sách đãi ngộ đối với đội ngũ trí thức và nghệ nhân dân gian dân tộc thiểu số vẫn chưa thực sự thỏa đáng. Điều này khiến tài năng, tâm huyết của họ chưa được phát huy một cách hiệu quả, làm giảm đi sức mạnh nội sinh trong việc gìn giữ và phát triển bản sắc văn hóa dân tộc.
Tạo “hệ sinh thái văn hóa” cho nghệ nhân hoạt động
Từ những khó khăn mà các nghệ nhân đã nêu, TS Trần Đoàn Lâm cho rằng cần tiếp tục hoàn thiện chính sách bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa các dân tộc thiểu số. Mức trợ cấp hiện nay dành cho các nghệ nhân dân gian không đủ để cải thiện đáng kể cuộc sống vốn đã khó khăn của họ. Ông nhấn mạnh rằng: “Chúng ta cần quan tâm đến gốc rễ của vấn đề chứ không phải chỉ giải quyết phần ngọn. Làm sao để tiền trợ cấp không chỉ có tác dụng hỗ trợ tạm thời mà cần tạo ra sự thay đổi bền vững”.
Ông cho rằng, khi nghệ nhân dân gian được xem là những hạt nhân cốt lõi của văn hóa truyền thống, cần có những chính sách thiết thực để họ có điều kiện lan tỏa giá trị văn hóa vào cộng đồng. Đồng thời, những người trẻ có tâm huyết, sẵn sàng học hỏi và tiếp thu cũng cần được động viên thông qua các chính sách khuyến khích cụ thể.
Ông cho rằng việc xây dựng các cơ chế hỗ trợ toàn diện hơn cho nghệ nhân, không chỉ dừng ở trợ cấp tài chính mà còn phải tạo ra các không gian để họ thực hành và truyền nghề, đảm bảo sự tiếp nối của các giá trị văn hóa truyền thống. Chỉ khi nghệ nhân cảm thấy được trân trọng và thế hệ kế cận được khích lệ, chúng ta mới có thể thực sự bảo tồn và phát huy giá trị của văn hóa dân gian.
![]() |
| TS Trần Đoàn Lâm, Giám đốc kiêm Tổng biên tập Nhà xuất bản Thế giới. |
Ngoài ra, Tiến sĩ Đoàn Lâm cũng chỉ ra một yếu tố then chốt để công tác bảo tồn văn hóa thực sự có hiệu quả, đó là sự kết hợp hài hòa giữa bảo tồn và phát triển các giá trị kinh tế của văn hóa: “Văn hóa không thể chỉ tồn tại trong bảo tàng hay phòng trưng bày, mà cần phải sống động trong đời sống xã hội. Để nghệ thuật dân gian trở thành một phần không thể thiếu trong văn hóa đương đại, chúng ta cần phải tìm ra cách để những nghệ phẩm ấy trở thành sản phẩm có giá trị, được cộng đồng đón nhận và trả giá một cách xứng đáng”.
Điều này không chỉ giúp nghệ nhân duy trì cuộc sống mà còn góp phần tạo ra một nguồn lực tài chính bền vững để tiếp tục bảo tồn và phát triển các loại hình nghệ thuật truyền thống.
Bên cạnh đó, theo TS Trần Đoàn Lâm, cần tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, như không gian tổ chức học nghề, sân khấu biểu diễn, và các điều kiện làm việc cho nghệ nhân dân gian, mang ý nghĩa vô cùng quan trọng và cấp thiết trong công tác bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống của các dân tộc thiểu số.
Sân khấu biểu diễn hoặc các không gian trình diễn nghệ thuật đóng vai trò như “cửa sổ” để nghệ thuật truyền thống tiếp cận cộng đồng và du khách. Khi có điều kiện biểu diễn chuyên nghiệp, các loại hình nghệ thuật dân gian sẽ trở nên sống động, hấp dẫn, và tạo nên những ấn tượng sâu sắc. Điều này không chỉ giúp bảo tồn mà còn nâng cao giá trị của các di sản văn hóa, biến chúng thành nguồn lực thúc đẩy du lịch và kinh tế.
TS Trần Đoàn Lâm nhấn mạnh rằng, đầu tư cơ sở vật chất không chỉ là cung cấp các công cụ vật chất đơn thuần, mà còn là cách tạo ra một “hệ sinh thái văn hóa” cho nghệ nhân dân gian hoạt động, truyền nghề và phát huy di sản văn hóa trong bối cảnh hiện đại. Đó là nền tảng để giữ gìn bản sắc, khơi dậy niềm tự hào dân tộc và lan tỏa những giá trị văn hóa đặc sắc đến cộng đồng và thế giới.
![]() |
| Những nghệ nhân múa Rô băm ở Làng Văn hóa – Du lịch các dân tộc Việt Nam vẫn ngày ngày tập luyện, để mang đến những tiết mục biểu diễn xuất sắc nhất cho du khách. |
Theo TS Đoàn Lâm, việc gắn kết văn hóa dân tộc thiểu số với du lịch không chỉ tạo ra giá trị kinh tế mà còn là cách hiệu quả để quảng bá bản sắc văn hóa tới công chúng trong và ngoài nước. Những sản phẩm du lịch độc đáo như lễ hội dân gian, làng nghề truyền thống, và các tour du lịch cộng đồng không chỉ thu hút du khách mà còn giúp bảo tồn, tái hiện các giá trị văn hóa một cách sinh động.
Tuy nhiên, ông nhấn mạnh rằng để phát triển theo hướng này, cần có sự đầu tư bài bản, đảm bảo tính chân thực của các nghi lễ, tập quán, tránh hiện tượng “thương mại hóa” làm phai nhạt giá trị nguyên bản. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp du lịch cũng cần được khuyến khích tham gia phát triển các tour trải nghiệm, đồng thời hỗ trợ cộng đồng địa phương trong việc xây dựng sản phẩm văn hóa chất lượng. Vai trò của truyền thông trong việc nâng cao nhận thức và thúc đẩy sự quan tâm của cộng đồng đối với văn hóa dân tộc thiểu số cũng rất quan trọng trong bối cảnh xã hội số hiện nay. Các nền tảng trực tuyến, mạng xã hội và các chương trình truyền hình chuyên đề cần được phát triển để quảng bá giá trị văn hóa tới đông đảo công chúng, đặc biệt là giới trẻ.
Gắn kết hoạt động văn hóa với phát triển kinh tế từ du lịch
Năm 2008, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt kế hoạch đầu tư phát triển Làng Văn hóa – Du lịch các dân tộc Việt Nam. Đây không chỉ là một không gian giao lưu văn hóa, thể thao và du lịch mà còn là “ngôi nhà chung” của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, giúp gìn giữ và phát huy bản sắc văn hóa trong bối cảnh đổi mới và hội nhập.
Tại đây, hằng năm rất nhiều chương trình đặc sắc được tổ chức, không chỉ giới thiệu không gian văn hóa mà còn tạo cơ hội cho du khách giao lưu và trải nghiệm các giá trị truyền thống của cộng đồng các dân tộc thiểu số. Các lễ hội, nghi lễ, phong tục đặc trưng, đặc biệt là những di sản văn hóa phi vật thể quốc gia và nhân loại đã được tái hiện một cách sống động. Đặc biệt, các chương trình nghệ thuật, như Liên hoan nghệ thuật hát Then, đàn Tính của các dân tộc Tày, Nùng, Thái, thu hút sự tham gia nhiệt tình của nghệ nhân và đồng bào từ nhiều địa phương, khẳng định sức sống mạnh mẽ của các di sản văn hóa.
![]() |
| Ông Trịnh Ngọc Chung – Quyền Trưởng ban Quản lý Làng Văn hóa – Du lịch các dân tộc Việt Nam. |
Theo ông Trịnh Ngọc Chung – Quyền Trưởng ban Quản lý Làng Văn hóa – Du lịch các dân tộc Việt Nam, chỉ tính riêng năm 2024, Làng đã đón 450.000 lượt khách tham quan, trong đó có 135.000 lượt khách được hướng dẫn bởi các thuyết minh viên. Các hoạt động dịch vụ, trải nghiệm văn hóa tại các làng dân tộc cũng thu hút hơn 90.000 lượt khách, tạo nên không gian văn hóa sống động và đậm đà bản sắc. Những hoạt động này không chỉ bảo tồn mà còn là cầu nối giữa các thế hệ, giúp thế hệ trẻ hiểu và yêu quý di sản của dân tộc mình.
Chia sẻ với phóng viên Báo Quân đội nhân dân, ông Trịnh Ngọc Chung bày tỏ: “Trong bối cảnh hội nhập quốc tế và sự phát triển của xã hội hiện đại, việc bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc vẫn đối diện với không ít thách thức. Đặc biệt, sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ và xu hướng toàn cầu hóa đang khiến nhiều giá trị văn hóa truyền thống bị mai một dần trong lòng giới trẻ. Do vậy, nhiệm vụ của Làng Văn hóa trong năm 2025 là tiếp tục phát huy các thành tựu đạt được và triển khai các giải pháp bền vững hơn để bảo vệ và phát huy giá trị di sản”.
Theo đó, một trong những nhiệm vụ trọng tâm là nâng cao chất lượng các hoạt động văn hóa, tổ chức các chương trình đào tạo và bảo tồn nghề truyền thống, kết hợp với giáo dục về di sản văn hóa cho thế hệ trẻ. Đồng thời, cần tăng cường sự hợp tác chặt chẽ với các địa phương và tổ chức quốc tế để bảo vệ và quảng bá các giá trị văn hóa, tạo ra những sản phẩm du lịch độc đáo, gắn liền với bản sắc các dân tộc. Bên cạnh đó, cần chú trọng việc tạo ra các cơ hội để đồng bào các dân tộc không chỉ tham gia vào các hoạt động văn hóa mà còn có thể phát triển kinh tế từ du lịch, đồng thời giữ gìn và phát huy nghề thủ công truyền thống. Việc đầu tư vào cơ sở vật chất, nâng cao chất lượng đội ngũ nghệ nhân, phát triển các hình thức truyền thông sẽ là yếu tố then chốt giúp Làng tiếp tục là điểm sáng trong công tác bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong tương lai.
THANH HƯƠNG – HỒNG PHÚC (thực hiện)











