Lao động rời TP.HCM ngày càng nhiều
Bài 1: Chật vật giấc mơ phố thị
Bài 2: Tại sao nhiều người chọn về quê?
Bài 3: Người trụ lại xoay xở mưu sinh
Bài 4: Làm sao giữ chân người xa quê?
Bài 5: Định vị thành phố đáng sống cho công nhân
***
Lao động rời TP.HCM ngày càng nhiều: Chật vật giấc mơ phố thị
Nhiều lao động nhập cư rời TP.HCM vì áp lực, chi phí đắt đỏ kéo theo nhiều khu trọ bỏ trống, quán ăn vắng khách.
Từ sau đại dịch Covid-19, ngày càng nhiều lao động nhập cư ở TP.HCM buộc phải khép lại giấc mơ phố thị, lặng lẽ quay về quê để khởi nghiệp hay tìm kế sinh nhai. Họ ra đi không phải vì hết khát vọng, mà vì không còn đủ kinh phí để trụ lại giữa thành phố với chi phí ngày càng đắt đỏ.
Vì sao lao động rời TP.HCM ngày càng nhiều?
Trong số những người lao động bỏ phố về quê, có anh Phạm Hùng Triệu (23 tuổi, quê Quảng Trị). Năm 2021, gác lại ước mơ giảng đường, anh đến thành phố với hy vọng đổi đời.
Anh Triệu chọn TP.HCM, nơi vùng đất sôi động, nơi cơ hội tưởng chừng rộng mở để tích góp số vốn 100 triệu đồng mang về quê nuôi hải sản.
Được anh rể giới thiệu công việc nhân viên tài chính, anh hồ hởi xách ba lô đi ngay, tin rằng phố thị sẽ mở lối cho tương lai.
Giấc mơ nơi phố thị sớm trở nên chật vật. Anh nhận việc tại một công ty ở quận Tân Bình cũ, lương cứng cộng thêm hoa hồng trung bình 15 triệu đồng/tháng.
Thế nhưng, niềm vui ngắn chẳng tày gang. Chỉ vài tháng sau, công ty rơi vào khủng hoảng, không còn đơn hàng, cắt giảm chi phí, thu nhập của anh rơi về mức 5 triệu đồng.
Để tiết kiệm, anh Triệu thuê chung một căn nhà 9 triệu đồng với 5 người khác, vẫn không đủ trang trải. Những bữa cơm đạm bạc cậy nhờ vào gạo, dầu ăn, đồ khô gửi từ quê nhà trở thành điểm tựa để anh xoay xở qua ngày. Anh chua xót nhận ra, làm bao nhiêu cũng không dư dả, giá cả tăng vùn vụt trong khi đồng lương ì ạch.
Tết Nguyên đán 2023, anh Triệu quyết định khép lại giấc mơ thành phố. Trên chuyến xe về quê, anh lặng người nhìn lại, trong túi chỉ còn ít tiền đủ cầm cự mấy ngày tết.
Về lại Quảng Trị, anh xin vào làm ở một tiệm sửa chữa ô tô, lương 10 triệu đồng một tháng. Anh kể, sống ở quê tuy không dư dả nhiều nhưng “dễ thở”, không còn cảnh tính toán từng đồng thuê nhà, ăn uống.
“Không chỉ tôi, mà cả 5 người trong công ty cũ cũng lần lượt bỏ phố về quê. Có anh bạn đồng hương về quê mở quán cà phê mưu sinh sau nhiều năm ở TP.HCM vì công ty cắt giảm nhân sự”, anh Triệu kể.
Khu trọ đìu hiu, quán ăn vắng khách
Một tối cuối tháng 9.2025, chúng tôi dạo quanh các khu trọ bình dân gần Khu công nghiệp Bình Chiểu và Khu chế xuất Linh Trung 2, phường Tam Bình (TP.Thủ Đức cũ). Không khí đìu hiu, nhiều dãy trọ treo chi chít bảng “cho thuê giá rẻ”. Có nơi, một nửa số phòng bỏ trống, vắng bóng người ở.
Trong con ngõ nhỏ gần Khu chế xuất Linh Trung 2, anh Tống Văn Tiến, 44 tuổi, quê Ninh Bình, lúi húi sơ chế cá cho quán bánh canh cá lóc.
“Từ đầu năm đến giờ, khách vắng hẳn, nhiều hôm bán chỉ được vài trăm ngàn đồng”, anh Tiến thở dài.
Anh Tiến vào TP.HCM từ năm 1992, từng làm qua nhiều nghề trước khi mở quán ăn năm 2023. Ban đầu, khách nườm nượp, có ngày bán hơn 100 tô.
Nhưng từ đầu 2025, khách giảm rõ rệt, nhiều hôm chỉ còn khoảng 60 tô bánh canh. “Cá nhập về nhiều mà người ta bỏ mối không được, trả hàng, nghỉ bán, có người về quê luôn. Quanh đây ai cũng nản hết”, anh nói.
Ngoài bán hàng, anh Tiến còn có 5 phòng trọ cho thuê từ năm 2013. Trước dịch, phòng luôn kín người, có người thuê đến cả chục năm.
Hiện, giá đã giảm còn 1,4 triệu đồng/phòng nhưng vẫn liên tục có người thuê rồi lại trả, nhiều người không tìm được việc làm nên về quê. “Ngày trước, kinh doanh nhà trọ sống cũng đỡ, giờ thì chỉ đủ cầm cự”, anh trải lòng.
Phòng trọ ở khu công nhân phường Tam Bình vắng người thuê ẢNH: NI NA
Cách quán ăn của anh Tiến chừng 1 km, chúng tôi men theo con hẻm nhỏ sát bên Khu chế xuất Linh Trung 2 để tìm đến dãy trọ của ông Thành (55 tuổi).
Không khó để nhận ra nơi này khi khung cảnh đìu hiu, vắng vẻ, thiếu bóng người thuê. Căn nhà cấp 4 cũ kỹ được ông chia thành 6 phòng nhỏ, sửa sang lại để cho công nhân ở trọ.
Ông Thành kể, trước đây phòng nào cũng kín, công nhân gắn bó từ năm này sang năm khác. Nhưng từ đợt dịch Covid-19, có thời điểm một nửa số phòng bỏ trống suốt cả năm.
Hiện nay, phòng trọ cũng chưa kín người ở, thỉnh thoảng có người đến hỏi rồi lại thôi. “Kinh doanh nhà trọ mà không ai thuê thì không phải ảnh hưởng đâu, mà là rất ảnh hưởng”, ông Thành thở dài.
Ông Thành bảo chẳng dám tăng giá, vẫn giữ ở mức 1,2 triệu đồng/phòng, chỉ mong người thuê bám trụ được lâu dài.
Lao động rời TP.HCM ngày càng nhiều, dẫn đến khu trọ bỏ trống và quán ăn vắng khách ẢNH: NI NA
Lao động di cư đảo chiều
Ông Nguyễn Văn Khuôn, Phó chủ tịch UBND phường Tam Bình, thừa nhận tình trạng lao động nhập cư rời TP.HCM về quê ngày càng rõ.
Tại Khu chế xuất Linh Trung 2, khoảng 40% công nhân đã rời đi sau đại dịch; ở Khu công nghiệp Bình Chiểu, tỷ lệ lên đến 60%. Nhiều công ty tại Bình Chiểu, Sóng Thần đã di dời sang nơi khác, trong khi các tỉnh, thành lại mọc lên nhiều khu công nghiệp, khu kinh tế mới.
Khảo sát của Thanh Niên, công nhân “bỏ phố về quê” khiến nhiều nhà trọ trống đến 50% số phòng ẢNH: NI NA
Ông Phạm Văn Tuyên, Phó giám đốc Sở Nội vụ TP.HCM, cũng cho rằng số lượng lao động nhập cư rời TP.HCM và Bình Dương cũ ngày càng nhiều, ảnh hưởng lớn đến sự phát triển kinh tế – xã hội của thành phố.
Trước mắt, điều này tác động trực tiếp đến nguồn nhân lực của doanh nghiệp, đặc biệt trong khâu tuyển dụng và đáp ứng nhu cầu sản xuất, kinh doanh.
Theo dự báo nhân khẩu học của TP.HCM, trong trung và dài hạn, đà tăng dân số của TP.HCM có khả năng sẽ giảm. Với việc mức sinh con của phụ nữ thấp thì số lượng dân số trong độ tuổi lao động sẽ chững lại trong dài hạn.
Đồng thời, dòng di cư dân số ở TP.HCM có thể chững lại khi sự phát triển của các địa phương vệ tinh sẽ góp phần làm số lượng người lao động nhập cư vào TP.HCM có xu hướng giảm trong tương lai xa.
Những chuyến xe rời thành phố, những dãy trọ bỏ trống, những quán ăn vắng khách đang phác họa rõ làn sóng lao động rời TP.HCM. Vậy đâu là nguyên nhân chính khiến người nhập cư “bỏ phố về quê”? (còn tiếp)
***
Lao động rời TP.HCM ngày càng nhiều: Tại sao nhiều người chọn về quê?
TP.HCM đang chứng kiến làn sóng lao động di cư ‘đảo chiều’, về quê tìm kế sinh nhai.
Nhiều người “làm không đủ sống”
Một khảo sát của Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) và Tổ chức di cư quốc tế IOM với 1.200 lao động di cư và 41 doanh nghiệp ở TP.HCM, Đồng Nai, Bình Dương cho thấy, thách thức lớn nhất với người lao động là kiếm đủ thu nhập để trang trải chi phí sinh hoạt.
Ngoài ra, họ còn đối mặt khó khăn về chi phí học hành cho con cái, tìm chỗ trọ phù hợp, thủ tục hộ tịch, giấy tạm trú, tạm vắng và tiếp cận y tế.
Trong đó, nhà trọ giá rẻ và đạt tiêu chuẩn tối thiểu vẫn là thách thức lớn. Khoảng cách giữa những nhu cầu thực tế của người lao động và các chính sách phúc lợi xã hội càng khiến họ thêm khó trụ lại.
Nhiều người phải gửi con cho ông bà, đi làm xa với hy vọng kiếm được thu nhập cao hơn để lo chi phí ăn uống, giáo dục, chăm sóc sức khỏe. Nhưng khi nông thôn có nhiều cơ hội hơn, họ lại mong trở về quê để đoàn tụ với gia đình.

Chia sẻ với Báo Thanh Niên, chị X.N (quê Nghệ An) kể rằng sau 13 năm mưu sinh ở TP.HCM, khoảng 2 năm trở lại đây, việc buôn bán ngày càng khó khăn. Chi phí sinh hoạt đắt đỏ, mỗi tháng gánh quá nhiều khoản chi. Lương công nhân chỉ khoảng 4 – 5 triệu đồng/tháng nếu làm giờ hành chính.
Trong khi đó, thuê trọ khoảng 1,5 triệu đồng/phòng, cộng thêm điện nước gần 2 triệu đồng, chiếm gần một nửa thu nhập.
“Đó là quyết định đúng đắn. Ở quê giờ không thiếu ngành nghề, lương bổng cũng chẳng thua kém thành phố, trong khi đồ ăn thức uống lại rẻ. Quan trọng hơn là được sống gần người thân, hàng tháng cũng không phải lo tiền trọ, điện nước, áp lực vơi đi hẳn”, chị N. nói.
Nhiều bạn đọc cũng chia sẻ quan điểm tương tự: làm công nhân ở TP.HCM lương thấp nhưng chi phí cao, từ tiền trọ, xăng xe, điện nước…, đến cuối tháng chẳng còn bao nhiêu, trong khi về quê làm lại có dư.
Còn anh Nguyễn Hồng Chuyên cho rằng, khó khăn lớn hơn còn đến từ việc xin tạm trú. Anh Chuyên vào TP.HCM làm việc nhưng thủ tục phức tạp khiến chủ trọ không muốn hỗ trợ, con cái khó đăng ký học trường công, nên đành chọn về quê.
Trằn trọc tâm tư người ở lại
Chiều muộn cuối tháng 9.2025, chúng tôi tìm đến căn trọ chừng 9 m2 của gia đình chị Cẩm Tú (40 tuổi, quê Trà Vinh) nằm sâu trong con hẻm Đoàn Thị Điểm, cách Khu công nghiệp Sóng Thần (phường Dĩ An, TP.HCM) chừng 1 km.
Vừa đi làm về, chị tất bật nấu bữa tối giản dị với cá kho, canh rau. Chị nói, làm công nhân giờ khó khăn, bữa ăn đạm bạc nhưng có gia đình quây quần là vui. Những ngày nhận lương, chị mới đãi cả nhà bữa cơm “sang” hơn.
Chị Tú rời quê lên TP.HCM “kiếm sở mần” từ năm 16 tuổi. Những năm đầu, chị làm công nhân giày da suốt 5 năm nhưng không được đóng bảo hiểm xã hội.
Đến năm 2006, chị chuyển sang công ty sản xuất túi xách Pungkook và gắn bó đến nay gần 20 năm. Nhớ lại ngày đầu đi làm, mức lương của chị vỏn vẹn 600.000 đồng/tháng.
Mỗi năm công ty hứa tăng 5% nếu đủ điều kiện, nhưng gần 2 thập kỷ qua, số lần được tăng lương chỉ đếm trên đầu ngón tay. Hiện tại, thu nhập của chị Tú 9,6 triệu đồng/tháng.

Chồng chị Tú làm nghề lái xe đưa đón công nhân ở Khu công nghiệp Long Thành (Đồng Nai), thu nhập khoảng 10 triệu đồng/tháng. Thế nhưng, sau khi trang trải chi phí sinh hoạt, nuôi con và gửi tiền về quê phụng dưỡng cha mẹ già, hầu như chẳng còn dư dả.
Có những tháng túng thiếu, chị phải chạy vạy hàng xóm vài trăm nghìn, đợi đến ngày 10 lĩnh lương mới kịp trả.
Nửa năm nay, nhiều công nhân trong xưởng nghỉ việc về quê. Thấy đồng nghiệp lần lượt rời bỏ thành phố, chị Tú cũng nhiều lần nghĩ ngợi. “Ở quê có 2 công ruộng trồng dừa, chưa cho trái nhưng cũng không lo đói. Tuy vậy, thu nhập không đủ nuôi con, nên tôi phải ở lại”, chị chia sẻ.
Chị Tú đã 40 tuổi, ngậm ngùi rằng khó xin vào công ty khác. Hơn nữa, con trai mới học lớp 8 nên gia đình cố bám trụ ở TP.HCM vì muốn cho con có môi trường học tập tốt, sau này có cái nghề để tự nuôi sống bản thân.
Mỗi tháng nếu dư được vài triệu, chị Tú cố cất lại, mong một ngày dành đủ 200 triệu để về quê làm ăn. Nhưng với chị, đó vẫn là giấc mơ xa.

“Lao động nhập cư ở TP.HCM giảm là xu hướng tất yếu”
Tại buổi họp báo cung cấp các vấn đề kinh tế – xã hội cuối tháng 8.2025 ở TP.HCM, ông Phạm Thành Nhân, Phó giám đốc Sở Nội vụ TP.HCM, nhìn nhận đây là xu hướng tất yếu, phản ánh sự phát triển đồng đều hơn của kinh tế cả nước. Xu hướng này mang đến cho TP.HCM cả thách thức lẫn cơ hội.
Nguyên nhân chủ yếu là nhiều địa phương đã phát triển khu công nghiệp, tạo việc làm tại chỗ, trong khi chi phí sinh hoạt cao cùng áp lực lớn ở TP.HCM khiến lao động có xu hướng quay về quê.
Bên cạnh đó, không ít công ty mất đơn hàng, buộc phải thu hẹp sản xuất, càng làm tình hình thêm khó khăn.
Thách thức trước mắt là sự thiếu hụt lao động phổ thông trong một số ngành như dệt may, da giày, buộc doanh nghiệp phải tăng chi phí để giữ chân nhân lực.
Nhưng ở chiều ngược lại, đây cũng là cơ hội để TP.HCM giảm áp lực hạ tầng xã hội, từ giao thông, y tế đến giáo dục.
Đồng thời, cũng là động lực cho doanh nghiệp đầu tư khoa học – công nghệ, nâng cao năng suất, phù hợp với định hướng chuyển đổi mô hình kinh tế. Hạn chế tối đa những ngành nghề thâm dụng lao động.

Theo Sở Nội vụ TP.HCM, các doanh nghiệp khi đầu tư vào TP.HCM cần tính toán kỹ, còn thành phố cũng phải chủ động sàng lọc trong việc tiếp nhận dự án.
Nhiều lao động nhập cư rời TP.HCM vì không kham nổi chi phí, áp lực công việc… và chọn gắn bó ở quê. Vậy, TP.HCM cần làm gì để giữ chân lực lượng lao động?
***
Lao động rời TP.HCM ngày càng nhiều: Người trụ lại xoay xở mưu sinh
TN – 29/09/2025 04:18 GMT+7
Lao động nhập cư rời TP.HCM về quê, người ở lại chật vật xoay xở mưu sinh. Những công nhân bám trụ phải tằn tiện từng bữa cơm, làm nhiều nghề cùng lúc để tồn tại.
Trong dòng người lao động hối hả đi làm vào buổi sáng sớm cuối tháng 9.2025, những dãy trọ quanh Khu công nghiệp Sóng Thần (phường Dĩ An, TP.HCM) vẫn lặng lẽ một nhịp sống khác. Ở đó, cuộc sống chậm rãi hơn, khắc khoải hơn, gói gọn trong những căn phòng nhỏ chưa đầy chục mét vuông.
Men theo con hẻm nhỏ trên đường Đoàn Thị Điểm, chúng tôi bắt gặp một người phụ nữ ngồi tựa lưng trước căn phòng trọ chừng 9 mét vuông, chậm rãi nhai ổ bánh mì để lấy sức sau đêm dài.
Ánh sáng sớm xuyên qua khe cửa sổ hẹp, hắt lên khuôn mặt chị, làm hiện rõ đôi mắt thâm quầng còn vương vẻ mệt mỏi sau ca làm 12 tiếng. Đó là chị Nguyễn Thị Phương (32 tuổi, quê Hà Tĩnh).
Người lao động chật vật mưu sinh
Giọng chị Phương chậm rãi, xen lẫn nỗi ngậm ngùi khi nhớ lại quãng đời thanh xuân gửi trọn ở TP.HCM. Từ tuổi đôi mươi, chị rời quê vào Nam, bắt đầu làm công nhân ở Công ty Đông Hưng.
Thuở đầu, chỉ là cô gái trẻ háo hức “đi cho biết Sài Gòn”, giờ chị đã là mẹ của 2 người con (con gái 5 tuổi và con trai 3 tuổi). Suốt 8 năm gắn bó, mức lương cơ bản của chị cũng chỉ hơn 5 triệu đồng, tăng ca “hết đát” thì may ra mới được 9 – 10 triệu đồng/tháng.
“Lương bèo lắm. Sau dịch Covid-19 thì đứng yên luôn, có năm tăng được vài trăm nghìn, có năm chẳng nhích nổi. Tháng 8.2024, công ty ít đơn hàng rồi giải thể, bạn bè đồng nghiệp lần lượt rủ nhau về quê. 10 người thì 7 người về rồi”, chị chua xót.
Còn chị, vẫn cố bám trụ với đủ nghề tạm bợ: công nhân thời vụ, phục vụ tiệc cưới, rửa chén, dọn nhà theo giờ. Chị Phương thở dài: “Cực lắm nhưng ít tiền nhiều tiền gì cũng phải làm. Không thì không trụ nổi ở đất này”.
Công việc ca đêm tại một công ty bánh kẹo bắt đầu từ 18 giờ đến 6 giờ sáng hôm sau, nhưng tháng nào may mắn chị mới có khoảng 15 ngày làm, mỗi ngày 400.000 đồng. Hỏi ra mới biết, vì công ty ít đơn hàng, công nhân chỉ được gọi đi theo thời vụ.
Tan ca, nếu có hẹn dọn nhà, chị đi thẳng đến chỗ làm. Những việc lặt vặt ấy, có chỗ trả 50.000 đồng/giờ, có chỗ 70.000 đồng hoặc khoán theo buổi, như dọn một căn nhà 3 lầu được 300.000 đồng. Thứ bảy, chủ nhật, chị lại thay áo, tất bật làm quản lý cho một trung tâm tiệc cưới.

Khi được hỏi có từng nghĩ đến chuyện rời phố về quê không, chị Phương nhìn xa xăm. Ở quê, tuy khí hậu khắc nghiệt nhưng còn nhà cửa, cha mẹ, không lo tiền trọ. Rau cá tự cung tự cấp, học phí cũng rẻ.
Chị bảo vợ chồng cũng đã tính, nhưng chưa dứt được. Chồng chị đang làm công nhân xưởng bao bì, lương ổn định 13 triệu đồng/tháng. Sáng hôm ấy, khi chúng tôi đến, anh vừa thay đồ, vội vã đi làm, chỉ kịp gật đầu chào. Một mái nhà nhưng hiếm hoi những bữa cơm chung.
Cộng cả 4 nghề, chị Phương gom lại cũng chỉ tầm 12 triệu đồng/tháng. Tiền trọ và điện nước 2,5 triệu đồng, cộng thêm tiền học phí, thuốc men cho 2 đứa nhỏ, cuối tháng chỉ dành dụm được đôi ba triệu đồng đề phòng con ốm đau.
“Cái gì cũng tăng, mà đồng lương công nhân thì đứng im. Làm hoài mà chẳng dư dả được bao nhiêu”, chị lắc đầu.
Chị Phương cho hay, năm sau con gái lớn của chị sẽ vào lớp 1, chị tính gửi con về quê nhờ ông bà chăm, rồi vợ chồng tính toán theo sau, được lúc nào hay lúc đó.
“Tôi làm quản lý tiệc cưới cũng lâu, có kinh nghiệm. Chủ nhà hàng quý, không muốn mình nghỉ. Sau này về quê, tôi muốn mở cơ ngơi nhỏ, làm dịch vụ tiệc cưới. Không to tát, nhưng là làm ăn chân chính và có định hướng”, chị cười nhẹ, ánh mắt thấp thoáng một tia hy vọng cho chặng đường phía trước.
Tằn tiện từng bữa cơm để trụ lại TP.HCM
Cùng dãy trọ với chị Mai Phương, chúng tôi gặp chị Cẩm Tú (40 tuổi, quê Vĩnh Long), cũng là công nhân ở Khu công nghiệp Sóng Thần.
Chị Tú đến TP.HCM từ năm 2001, hơn 20 năm gắn bó, giờ vẫn chật vật tính toán từng đồng để trụ lại. Chị bảo, làm công nhân ở thành phố này phải dè sẻn mới đủ sống, chứ khó mà dư dả.

Mỗi tuần, chị chỉ dám đi chợ một lần. Thay vì chợ gần phòng trọ, chị chọn đi chợ đầu mối Thủ Đức cách 3 km để mua được rẻ hơn. Cá là món quen thuộc, nhưng cũng phải chọn loại nhiều thịt, ít xương để lợi hơn. Rau xanh, chị săn ở những điểm treo bảng khuyến mãi “15.000 đồng/2 ký”.
Còn thịt, gần như hiếm hoi trên mâm cơm gia đình. “Thịt mắc quá, ăn cá cho rẻ. Thịt nấu lên teo lại, gần 100.000 đồng mà có khi chỉ đủ một bữa. Lâu lâu thằng nhỏ thèm quá, tôi mới dám mua một ít về nấu cho nó”, chị Tú chia sẻ, bàn tay thoăn thoắt xếp gọn những mớ rau vừa mua, ánh mắt thoáng chút chạnh lòng.

“Di cư về quê chủ yếu ở nhóm lao động phi chính thức”
Theo bà Nguyễn Võ Minh Thư, Phó trưởng ban Quản lý các khu chế xuất – khu công nghiệp TP.HCM (HEPZA), lao động rời về quê chủ yếu là nhóm người tự do, phi chính thức (là những người không có hợp đồng lao động chính thức, không được pháp luật lao động bảo vệ đầy đủ và thường thiếu các chế độ an sinh xã hội cơ bản như bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp – PV).
Đối với khu vực khu chế xuất, khu công nghiệp, qua khảo sát và thống kê của HEPZA, đặc biệt là sau hợp nhất TP.HCM, Bình Dương, Bà Rịa – Vũng Tàu, hiện có 59 khu chế xuất, khu công nghiệp với hơn 550.000 dự án đang hoạt động.
Số liệu 6 tháng đầu năm 2025 của 3 khu vực ghi nhận 905.000 người lao động, tăng so với 6 tháng cuối năm 2024. Sau sáp nhập, con số này cũng tăng gần 17.000 người so với năm 2024. Trong đó, lao động từ các tỉnh đến TP.HCM làm việc chiếm khoảng 65%.

Bà Thư nói, tình trạng thiếu hụt lao động tại các khu chế xuất, khu công nghiệp gần như năm nào cũng có, thường rơi vào đầu năm hoặc cuối năm. Đó là thời điểm đơn hàng tăng, dự án mở rộng, đặc biệt sau hợp nhất.
Theo khảo sát đầu năm của Ban Quản lý các khu chế xuất – khu công nghiệp TP.HCM, riêng khu vực TP.HCM cũ dự kiến tuyển dụng hơn 8.000 lao động. Nếu thống kê thêm Bình Dương và Bà Rịa – Vũng Tàu thì con số này còn cao hơn.
“Các ngành nghề thiếu hụt chủ yếu tập trung ở những doanh nghiệp sử dụng đông lao động như dệt may, da giày, điện và điện tử”, bà Thư nói.
***
Lao động rời TP.HCM ngày càng nhiều: Làm sao giữ chân người xa quê?
TN – 30/09/2025 04:12 GMT+7
Giữa lúc lao động rời TP.HCM tìm đường về quê, những căn trọ nghĩa tình và chính sách an sinh đang trở thành ‘chìa khóa’ giữ chân người dân ở lại.
Người lao động xa quê lên TP.HCM bươn chải, lập nghiệp có lẽ một trong những lý do khiến họ gắn bó với thành phố là sự nghĩa tình và bao dung.
Giữa đời sống đô thị bộn bề, không khó để bắt gặp những câu chuyện thấm đẫm tình người, nơi những khu trọ nhỏ bé trở thành điểm tựa cho những phận đời chông chênh.
Khu trọ nghĩa tình là điểm tựa của lao động xa quê
Trên đường Nguyễn Triệu Luật (phường Bình Tân, TP.HCM) có một khu nhà trọ đặc biệt của chị Nguyễn Ngọc Trằm (37 tuổi, quê Cà Mau). Khu trọ ấy có hơn 90 phòng khang trang và suốt 10 năm qua, giá thuê chưa từng thay đổi.
Chia sẻ về lý do giữ giá suốt 1 thập kỷ qua, chị Trằm nghẹn ngào: “Trong bối cảnh kinh tế không thuận lợi với không ít người, việc tăng giá thuê trọ có thể trở thành gánh nặng lớn cho người lao động vì cuộc sống của họ vốn đã chật vật rồi”.
Mỗi căn phòng có 1 triệu đồng/tháng, con số mà nhiều người gọi “may mắn thuê được” trong khi giá cả nhiều thứ đều gia tăng.

Chị Trằm giữ cho khu trọ của mình một sự tử tế giản dị: không thu tiền rác, sẵn sàng sửa chữa bóng đèn, ống nước, cống nghẹt cho người thuê. Đến tết, mỗi phòng đều có một phần quà 200.000 đồng, tuy không lớn nhưng đủ ấm lòng cho những người xa quê.
Nhớ lại hơn 10 năm làm nghề, chị Trằm nói trong dịch Covid-19, khi thành phố chao đảo, chị giảm 200.000 đồng/phòng; còn những trường hợp có người bệnh hay tang gia thì được miễn hẳn tiền trọ, kèm thêm gạo, mì, rau củ để cầm cự qua ngày.

Chính vì vậy, hầu hết người thuê đều gắn bó lâu dài, trong đó có nhiều hoàn cảnh đặc biệt. Bà Lê Thị Huyền (52 tuổi, quê Cần Thơ), sống cùng người mẹ già bị tai biến trong căn phòng nhỏ khuất sau dãy nhà. Để nuôi mẹ và trang trải cuộc sống, bà làm đủ nghề.
Khi dịch bệnh ập đến, bà mất việc, tiền trọ trở thành nỗi lo thường trực. Vậy mà chị Trằm không hề thúc giục, còn chủ động giảm tiền phòng. “Một đồng cũng quý, có lúc được người ta cho gói mì tôm cũng thấy hạnh phúc”, bà Huyền xúc động.
Ở khu trọ này còn có chị Nguyễn Thị Nhung (46 tuổi), từng là công nhân may mặc. Sau nhiều năm làm việc, chị nhận ra đồng lương ít ỏi không đủ sống, nên quyết định nghỉ để tự kinh doanh.
Năm 2014, chị Nhung thuê phòng của chị Trằm, đặt vào đó 6 chiếc máy may để làm ăn. Chị nói ở đây ổn định, yên tâm làm ăn.

Ngoài ra, ở dãy trọ của chị Trằm, còn có nhiều người được ở miễn phí nhiều năm vì chị thương hoàn cảnh khó khăn.
Tấm lòng của chị Trằm không chỉ dừng lại ở việc giúp người thuê trọ, chị còn trăn trở về những điều rộng lớn hơn: làm sao để có những khoản vay hỗ trợ giúp chủ trọ nâng cấp, xây mới phòng ốc để công nhân có thể an cư lâu dài, yên tâm gắn bó với TP.HCM.
Doanh nghiệp và chính quyền chung tay giữ chân lao động
Theo bà Nguyễn Võ Minh Thư, Phó trưởng ban Quản lý các khu chế xuất – khu công nghiệp TP.HCM, thời gian qua Ban quản lý đã phối hợp Sở Nội vụ TP.HCM và Trung tâm Dịch vụ việc làm TP.HCM để hỗ trợ doanh nghiệp trong vấn đề nhân lực.
Khi một đơn vị thiếu lao động, Ban quản lý sẽ giới thiệu từ doanh nghiệp khác trong cùng khu để bổ sung, vừa giúp doanh nghiệp ổn định sản xuất vừa tạo việc làm cho người lao động.
Bà Thư nhấn mạnh, giữ chân lao động trước hết là trách nhiệm của doanh nghiệp. Các đơn vị phải tuân thủ pháp luật, bảo đảm tiền lương, chế độ và phúc lợi để người lao động yên tâm làm việc.
Với vai trò quản lý, Ban quản lý cũng đặc biệt quan tâm đến các vấn đề an sinh xã hội, an ninh trật tự trong khu.
“Nhiều hoạt động phối hợp các sở, ngành và TP.HCM đã được triển khai, trong đó có Nghị quyết 30 của HĐND TP.HCM nhằm hỗ trợ con em công nhân. So với Nghị quyết 27 trước đây, mức hỗ trợ đã tăng từ 160.000 đồng lên 240.000 đồng/cháu”, bà Thư nói.
Liên quan đến chỗ ở, TP.HCM đang đẩy mạnh xây dựng nhà ở xã hội, ưu tiên cho công nhân khu chế xuất, khu công nghiệp.
Hiện, có 3 hình thức chính: công ty phát triển hạ tầng xây nhà lưu trú; doanh nghiệp trực tiếp xây nhà cho công nhân ở miễn phí; và các doanh nghiệp kinh doanh bất động sản tham gia đầu tư.
Ngoài ra, Ban Quản lý các khu chế xuất, khu công nghiệp TP.HCM còn chăm lo đời sống tinh thần cho người lao động thông qua các chương trình dịp lễ, tết, bán hàng bình ổn, đưa hàng Việt Nam chất lượng cao đến tận khu công nghiệp.
Từ nguồn kinh phí của TP.HCM, nhiều hoạt động văn nghệ cũng được tổ chức, tạo không khí gắn kết.
Bên cạnh đó, Ban Quản lý các khu chế xuất, khu công nghiệp TP.HCM ban hành nhiều văn bản yêu cầu doanh nghiệp quan tâm đến đời sống văn hóa tinh thần, nâng cao chất lượng bữa ăn, phối hợp Sở An toàn thực phẩm TP.HCM kiểm tra bếp ăn tập thể và nguồn cung ứng, nhằm đảm bảo sức khỏe công nhân.

Chia sẻ với Thanh Niên tại buổi họp báo cung cấp về tình hình kinh tế – xã hội TP.HCM cuối tháng 8.2025, ông Phạm Thành Nhân, Phó giám đốc Sở Nội vụ TP.HCM, cho biết trong bối cảnh lao động rời đi, thành phố đang đồng bộ nhiều giải pháp để đồng hành cùng doanh nghiệp.
Theo đó, Trung tâm Dịch vụ việc làm TP.HCM thường xuyên phối hợp các tỉnh, thành lân cận tổ chức sàn giao dịch việc làm, giúp kết nối và cung ứng nguồn nhân lực.
Sở Nội vụ TP.HCM duy trì các buổi đối thoại định kỳ với hiệp hội, doanh nghiệp để lắng nghe và tháo gỡ khó khăn kịp thời.
TP.HCM cũng đã ban hành Chiến lược lao động – việc làm giai đoạn 2023 – 2025, tầm nhìn 2030, hướng đến việc phát triển thị trường lao động bền vững.
Trong đó, TP.HCM chú trọng đa dạng hóa kênh kết nối, phát triển cả trực tiếp và trực tuyến để người lao động dễ dàng tiếp cận thông tin tuyển dụng. Đồng thời phối hợp thường xuyên với các địa phương lân cận nhằm tạo dòng luân chuyển lao động có tổ chức và hiệu quả.
***
Lao động rời TP.HCM ngày càng nhiều: Định vị thành phố đáng sống cho công nhân
Uyển Nhi– uyennhii1102@gmail.com
TN – 01/10/2025 08:23 GMT+7
Lao động có xu hướng rời TP.HCM, chuyên gia đề xuất định vị thành phố đáng sống cho công nhân với nhà ở, phúc lợi và thu nhập bảo đảm.
Bài toán giữ chân lao động
Anh Huỳnh Hồ Đại Nghĩa (thạc sĩ chính sách công, giảng viên Khoa Quan hệ Quốc tế, Trường đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Đại học Quốc gia TP.HCM), phân tích dưới góc nhìn của thuyết đẩy – kéo (push-pull theory), việc lao động rời TP.HCM về quê phản ánh rõ ràng 2 nhóm yếu tố.
Các “lực đẩy” bao gồm: chi phí sinh hoạt cao, nhà ở, y tế và giáo dục cho con; điều kiện môi trường sống còn áp lực, thiếu không gian xanh, an ninh khu trọ; thu nhập không đủ bù chi phí. Thêm vào đó, nỗi nhớ quê và sự xa cách gia đình càng khiến họ có xu hướng rời đi.
Ngược lại, “lực kéo” từ các địa phương ngày càng mạnh khi nhiều khu công nghiệp mới hình thành, chi phí sinh hoạt thấp hơn, hạ tầng xã hội dần cải thiện và yếu tố gắn kết gia đình tạo nên sức hút tự nhiên.
Để giữ chân lực lượng lao động, TP.HCM cần chính sách tác động đồng thời lên cả 2 chiều: giảm bớt lực đẩy và gia tăng lực kéo.
TP.HCM phải ưu tiên phát triển nhà ở xã hội và ký túc xá công nhân gắn liền với trường học, bệnh viện và không gian sinh hoạt cộng đồng. Mở rộng gói hỗ trợ chi phí sinh hoạt thông qua các chương trình phúc lợi hoặc trợ giá thiết yếu.
Đồng thời, cải thiện môi trường sống bằng giao thông công cộng giá rẻ, an ninh khu trọ và nhiều mảng xanh hơn.

Ở hướng gia tăng “lực kéo”, TP.HCM cần xây dựng chuẩn lương thưởng sát với thực tế chi phí sinh hoạt và năng suất, bảo đảm công nhân có thu nhập đủ sống và tích lũy.
Ngoài ra, thiết kế lộ trình đào tạo, nâng cao kỹ năng để công nhân thấy cơ hội phát triển nghề nghiệp lâu dài thay vì chỉ dừng ở lao động giản đơn.
TP.HCM cần được định vị là thành phố đáng sống cho công nhân, nơi họ không chỉ tìm thấy việc làm mà còn cơ hội ổn định và tiến thân cho cả gia đình.
Thạc sĩ Huỳnh Hồ Đại Nghĩa
Chiến lược nhân lực trong kỷ nguyên công nghệ hóa
Theo Sở Nội vụ TP.HCM, khi lao động rời TP.HCM cũng là nguồn động lực cho doanh nghiệp đầu tư vào khoa học – công nghệ, nâng cao năng suất để phù hợp với định hướng chuyển đổi mô hình kinh tế. Từ đó, hạn chế tối đa những ngành nghề thâm dụng lao động.
Chia sẻ về vấn đề này, chuyên gia Huỳnh Hồ Đại Nghĩa cho rằng, TP.HCM nên vận dụng mô hình Triple Helix (chính quyền – doanh nghiệp – đại học).
Chính quyền đóng vai trò kiến tạo thể chế và hạ tầng mềm, ban hành chính sách hỗ trợ tài chính, ưu đãi thuế cho doanh nghiệp đầu tư đào tạo. Đồng thời xây dựng bộ tiêu chuẩn kỹ năng mới gắn với công nghệ số.
Doanh nghiệp là hạt nhân ứng dụng, trực tiếp xác định nhu cầu kỹ năng và mở cửa nhà máy cho chương trình đào tạo kép.
Các trường đại học, cao đẳng và cơ sở đào tạo nghề trở thành nguồn cung cấp tri thức và nền tảng khoa học, thiết kế chương trình đào tạo ngắn hạn, chứng chỉ linh hoạt và kết hợp nghiên cứu – chuyển giao công nghệ.
Tuy nhiên, chuyên gia cho rằng riêng lực lượng công nhân, giải pháp cần thực tế và dễ tiếp cận hơn.

“Thay vì các khóa học hàn lâm, đào tạo nên tập trung vào chương trình ngắn hạn, thực hành tại chỗ, giúp công nhân nắm kỹ năng vận hành máy móc, quản lý chất lượng, an toàn lao động và kỹ năng số cơ bản.
Các chứng chỉ mô-đun cần đơn giản, gắn trực tiếp với công việc để họ vừa học vừa làm mà không gián đoạn thu nhập”, thạc sĩ Nghĩa nói.
Đồng thời, chính quyền có thể triển khai trung tâm đào tạo lưu động tại khu công nghiệp hoặc quỹ hỗ trợ đào tạo nghề miễn phí cho công nhân.
Khi 3 trụ cột vận hành đồng bộ với cách tiếp cận sát thực tiễn, công nhân sẽ không chỉ được bảo đảm việc làm mà còn có cơ hội nâng dần tay nghề, ổn định thu nhập. Từ đó gắn bó lâu dài với doanh nghiệp và góp phần giữ vững sức cạnh tranh của TP.HCM trong kỷ nguyên tự động hóa.
Địa phương chuẩn bị gì để đón lao động dịch chuyển?
Xu hướng dịch chuyển lao động cũng đặt ra yêu cầu cho các địa phương. Theo anh Nghĩa, chi phí sinh hoạt thấp, đất rộng, môi trường trong lành và sự phát triển của khu công nghiệp mới chính là “lực kéo” mạnh.
Để đón dòng lao động, các tỉnh phải chuẩn bị hạ tầng đồng bộ. Hạ tầng sản xuất – công nghiệp cần quy hoạch khu công nghiệp, khu chế xuất thế hệ mới đạt chuẩn xanh, gắn với logistics, cảng cạn (ICD).
Nguồn điện ổn định (ưu tiên năng lượng tái tạo), cấp nước, xử lý nước thải, internet tốc độ cao phải bảo đảm. Việc này vừa thu hút doanh nghiệp vừa hình thành chuỗi cung ứng liên vùng.
Hạ tầng xã hội cũng quan trọng không kém: nhà ở xã hội, ký túc xá, trường học, bệnh viện vệ tinh giúp lao động an cư.
Giao thông nội – liên tỉnh, không gian xanh, văn hóa – thể thao và dịch vụ công cộng sẽ nâng chất lượng sống, biến đô thị công nghiệp thành nơi đáng sống.

Ngoài ra, hạ tầng quản trị – dịch vụ cần minh bạch, thủ tục hành chính nhanh gọn, hỗ trợ doanh nghiệp về đầu tư, đất đai, an toàn lao động.
Hệ thống đào tạo nghề, trung tâm đổi mới sáng tạo và sàn giao dịch lao động phải tích hợp để cung ứng nhân lực phù hợp. Đồng thời, việc chia sẻ dữ liệu giữa chính quyền – doanh nghiệp – trường nghề nhằm điều phối hiệu quả.
Về chính sách, địa phương phải kiên trì mục tiêu giảm lực đẩy, tăng lực kéo cho cả lao động và doanh nghiệp.
Với lao động, cần nâng lương tối thiểu gắn chi phí thực tế, mở rộng phúc lợi, bảo đảm an toàn và quyền lợi.
Song song, triển khai đào tạo và tái đào tạo miễn phí, hỗ trợ tín dụng nhà ở xã hội, phát triển không gian công cộng để xây dựng hình ảnh đô thị công nghiệp đáng sống.
Với doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp FDI, cần loại bỏ rào cản thủ tục, xây dựng cơ chế “một cửa, một cam kết”, tạo môi trường đầu tư ổn định, lao động kỹ năng cao, hạ tầng xanh – số, dịch vụ hậu cần hiện đại.
Ngoài ưu đãi thuế, địa phương có thể cam kết ngân sách phát triển nhân lực, chuyển giao công nghệ, khuyến khích doanh nghiệp gắn bó thông qua tiêu chí dài hạn, việc làm bền vững, đầu tư cộng đồng.
Để giữ chân lao động, TP.HCM cần trở thành nơi công nhân không chỉ có việc làm mà còn có thể an cư, phát triển lâu dài cùng gia đình. Khi đó, “thành phố đáng sống cho công nhân” sẽ là lợi thế cạnh tranh thực sự của TP.HCM trong tiến trình hội nhập và tự động hóa.


