70 năm chiến thắng Điện Biên Phủ (6 bài)

  • Vì sao Pháp chọn Điện Biên Phủ? (Điện Biên Phủ – tập đoàn cứ điểm mạnh nhất Đông Dương 70 năm trước)
  • Thế khó của Việt Nam (Hậu cần – bài toán ‘cân não’ trong chiến dịch Điện Biên Phủ)
  • Quyết định chuyển hướng chiến dịch (Quyết định ‘khó nhất đời cầm quân’ của đại tướng Võ Nguyên Giáp)
  • Cuộc chiến 56 ngày đêm (‘Vòng vây lửa’ trên chiến hào Điện Biên Phủ)
  • Nghệ thuật bố trí trận địa trong chiến dịch Điện Biên Phủ
  • Vì sao ‘đội quân chân đất’ đánh bại Pháp ở Điện Biên Phủ?

***

Vì sao Pháp chọn Điện Biên Phủ?

Điện Biên Phủ – tập đoàn cứ điểm mạnh nhất Đông Dương 70 năm trước

VNE – Pháp với sự hậu thuẫn của Mỹ đã biến Điện Biên Phủ từ không có trong kế hoạch tác chiến thành tập đoàn cứ điểm mạnh nhất Đông Dương, “bàn đạp tiêu diệt đầu não kháng chiến” của Việt Minh.

Sau thắng lợi tại chiến dịch Biên giới năm 1950, chiến dịch Hòa Bình 1951-1952, Quân đội nhân dân Việt Nam (Việt Minh) giải phóng cơ bản vùng Tây Bắc, nối thông căn cứ địa kháng chiến Việt Bắc sang Thượng Lào và Liên khu 4 gồm 6 tỉnh ven biển từ Thanh Hóa đến Thừa Thiên Huế.

Trong khi đó Pháp đã kéo dài cuộc chiến tại Đông Dương 8 năm, tính tới 1953, bị dư luận quốc tế, người dân trong nước phản đối. Nội bộ chia rẽ, đấu tranh gay gắt trong Quốc hội và nội các thay đổi. Kéo dài cuộc chiến đồng nghĩa khó khăn về kinh tế, bất ổn về chính trị và buộc Pháp càng phải dựa vào Mỹ.

Nhằm xoay chuyển tình thế, ngày 7/5/1953, Chính phủ Pháp cử tướng Henri Navarre, người từng chiến đấu trong Thế chiến I, Thế chiến II, làm Tổng chỉ huy quân đội viễn chinh ở Đông Dương. Sau một tháng khảo sát, Navarre cho ra đời kế hoạch tác chiến mang tên mình.

Tướng Henri Navarre. Ảnh: AP

Navarre đặt mục tiêu thu đông 1953 và xuân 1954, lực lượng viễn chinh giữ thế phòng ngự trên chiến trường miền Bắc, bảo vệ đồng bằng Bắc Bộ nếu bị tấn công; bình định miền Nam và chỉ phát động chiến dịch quy mô lớn để xóa vùng tự do Trung Trung Bộ. Navarre cũng cố gắng chuyển giao các vùng an toàn cho Quân đội quốc gia Việt Nam thân Pháp và xây dựng đội quân cơ động lớn đủ sức đánh bại các đại đoàn chủ lực của Việt Minh.

Từ thu đông 1954, quân Pháp chuyển ra Bắc, tiến công chiến lược, giành thắng lợi quân sự, buộc Việt Nam đàm phán nhằm kết thúc chiến tranh. “Navarre kỳ vọng giành thắng lợi quyết định về quân sự làm cơ sở cho một giải pháp rút lui trong danh dự cho nước Pháp”, thiếu tướng Nguyễn Hoàng Nhiên, Viện trưởng Lịch sử quân sự, viết trong bài phân tích tại tọa đàm tổ chức vào tháng 3/2024.

Đoán biết ý định đối phương, cuối tháng 9/1953, Bộ Chính trị họp thông qua kế hoạch tác chiến đông xuân 1953-1954. Bộ đội chủ lực dự kiến hoạt động trên ba hướng chính gồm: Tây Bắc; Thượng Lào và Trung – Hạ Lào, Tây Nguyên. Hướng phối hợp là trung du và đồng bằng Bắc Bộ.

Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Địch tập trung quân cơ động để tạo nên sức mạnh… Ta buộc chúng phải phân tán binh lực thì sức mạnh đó không còn”. Người nêu rõ nguyên tắc tập trung lực lượng mở những cuộc tiến công vào hướng quân Pháp tương đối yếu, buộc chúng bị động phân tán lực lượng.

Trên chiến trường miền Bắc, Việt Minh tiêu diệt lượng lớn quân Pháp ở Lai Châu, giải phóng hoàn toàn 5 tỉnh Tây Bắc gồm Hòa Bình, Sơn La, Điện Biên, Lào Cai, Yên Bái. Ở hướng đồng bằng Bắc Bộ, Nam Bộ và Nam Trung Bộ, bộ đội đẩy mạnh chiến tranh du kích. Tháng 11/1953, Đại đoàn 316 hành quân lên Tây Bắc, Trung đoàn 66 của Đại đoàn 304 và Trung đoàn 101 của Đại đoàn 325 hành quân sang Trung Lào.

Từ không có trong kế hoạch thành tâm điểm chiến dịch

Trước chuyển động của chiến trường Tây Bắc, tháng 11/1953, tướng Navarre lệnh cho 6 tiểu đoàn quân Âu Phi tinh nhuệ xuất phát từ sân bay Gia Lâm, Hà Nội nhảy dù chiếm đóng Điện Biên Phủ, tỉnh Lai Châu (nay thuộc tỉnh Điện Biên) – mở màn chiến dịch Điện Biên Phủ. Tháng 12/1953, Navarre điều quân từ Lai Châu về Điện Biên Phủ, nâng tổng số lên 9 tiểu đoàn bộ binh, 3 tiểu đoàn pháo. Tất cả được chuyển thành Binh đoàn tác chiến Tây Bắc (GONO).

Ban đầu Điện Biên Phủ không có trong kế hoạch thu đông 1953-1954, nhưng sau đó trở thành địa điểm thứ hai ở Tây Bắc, cùng với Lai Châu, có quân Pháp chiếm giữ. Mục tiêu của Navarre là giữ vững Lai Châu, tạo thế tiến công chiếm lại Tây Bắc, ngăn chặn quân Việt Minh tiến sang Thượng Lào và thủ đô Luang Prabang. Đây chính là cách bảo vệ Lào, đồng minh của Pháp và là thành viên Liên hiệp Pháp.

Ngày 20/11/1953, quân Pháp nhảy dù đánh chiếm Điện Biên Phủ. Ảnh tư liệu

Điện Biên Phủ là thung lũng dài chừng 18 km, rộng 6-8 km, cách Hà Nội hơn 300 km, cách Luang Prabang 190 km. Xung quanh là núi non, rừng rậm, điểm xuyết những ruộng bậc thang. Trên thung lũng có những chỏm núi cao từ 500 đến 1.200 m, ở giữa là dòng Nậm Rốn chảy qua cánh đồng Mường Thanh của người Thái. Ở đó có sân bay dã chiến bị bỏ hoang từ khi phát xít Nhật rời Đông Dương năm 1945.

“Bất kỳ ai có ý định chiếm Lào đều phải kiểm soát được thung lũng Điện Biên Phủ. Khu vực này dẫn trực tiếp đến Lào, cung cấp căn cứ xuất phát và lui quân lý tưởng cho các đơn vị khi tác chiến”, tác giả người Pháp Ivan Cadeau viết trong cuốn Điện Biên Phủ: 13/3-7/5/1975.

Chuyển từ phòng ngự sang giao chiến với quân Việt Minh ở miền Bắc, Navarre nhanh chóng biến Điện Biên Phủ thành tập đoàn cứ điểm mạnh. Trong khu vực dài hơn 10 km, rộng 5 km, quân Pháp tổ chức hệ thống liên hoàn 49 cứ điểm, mỗi cứ điểm có hệ thống công sự, hàng rào vật cản, hỏa lực có thể chiến đấu độc lập. Cứ điểm gần nhau hợp thành trung tâm đề kháng, đặt theo tên phụ nữ Pháp, và chia thành 3 phân khu.

Phân khu trung tâm nằm ở giữa Mường Thanh, gồm 5 trung tâm đề kháng: Dominique (đồi E) phòng ngự ở hướng đông bắc; Eliane (đồi C1) phòng ngự hướng đông và đông nam; Claudine – trung tâm đề kháng nam sân bay Mường Thanh – phòng ngự hướng tây nam; Huguette – trung tâm đề kháng tây sân bay – trực tiếp bảo vệ sân bay; Béatrice – trung tâm đề kháng Him Lam – phòng ngự đột xuất ở đông bắc. Phân khu này quan trọng nhất bởi tiếp nhận tất cả trung tâm chỉ huy, bộ phận hỗ trợ, trong đó có quân y.

Phân khu Bắc gồm 2 trung tâm đề kháng Gabriel (đồi Độc lập) và Anne-Marie (Bản Kéo). Hai nơi này cùng với trung tâm đề kháng Him Lam tạo thành trận địa phòng ngự tiền duyên án ngữ phía Bắc, ngăn chặn sự tiến công của Việt Minh từ hướng Bắc và Đông Bắc.

Phân khu Nam chỉ có một cứ điểm Isabelle (Hồng Cúm) nằm cách trung tâm chỉ huy của GONO khoảng 6 km, có nhiệm vụ ngăn chặn Việt Minh tiến công từ phía Nam lên.

Tướng Navarre và thiếu tướng René Cogny, Chỉ huy quân đội viễn chinh Pháp ở miền Bắc, thống nhất trao vị trí chỉ huy trưởng tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ cho đại tá Christian de Castries, Chỉ huy pháo binh là trung tá Charles Piroth.

Ba phân khu của tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Đồ họa: Hoàng Khánh

Ngày 30/1/1954, Ủy ban đặc biệt của Văn phòng Tổng thống Mỹ nhóm họp, thông qua quyết định tăng cường thêm nhân, vật lực cho Điện Biên Phủ. Ngoài 285 tỷ Franc Pháp cung cấp vào năm 1953, riêng kế hoạch của tướng Navarre được Mỹ viện trợ thêm 385 triệu USD.

Đội quân tham chiến ở Điện Biên Phủ gồm 12 tiểu đoàn, 7 đại đội bộ binh, 2 tiểu đoàn lựu pháo 105 mm (24 khẩu), 2 tiểu đoàn súng cối 120 mm (20 khẩu), một đại đội trọng pháo 155 mm (4 khẩu), một tiểu đoàn công binh, một đại đội xe tăng (10 chiếc), một đại đội xe vận tải (khoảng 200 xe), một phi đội máy bay thường trực (14 chiếc). Tổng số quân lúc đầu hơn 11.800, sau được bổ sung lên 16.200, chủ yếu là lính dù và Âu – Phi.

Các phương tiện trang bị cho quân viễn chinh ở Điện Biên Phủ đều thuộc loại hiện đại nhất lúc bấy giờ. Như pháo binh cỡ nòng 155 mm là loại lớn nhất của lực lượng pháo binh tại Đông Dương, có thể bắn đầu đạn 43 kg ở tầm xa tối đa 15 km. Tập đoàn được trang bị không quân riêng với máy bay Morane 500 cỡ nhỏ làm nhiệm vụ thám thính, tiêm kích F8F Bearcat, máy bay ném bom B26.

Sau chuyến thăm Điện Biên Phủ, phóng viên Robert Guillain viết trên tờ LeMonde của Pháp tháng 2/1954: “Đó là loại bẫy khổng lồ và phức tạp, đầy rẫy cao điểm, chi chít công sự, được gài mìn, đào hào, chia ô, cày nát trên hàng kilomet vuông và có lượng người ở đông hơn tổ kiến… Không gì có thể mọc lên trên bề mặt, ngoại trừ tiêu bản kim loại: dây thép gai”.

Đại tá De Castries (trái), tướng Henri Navarre (giữa) và tướng René Cogny kiểm tra tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, tháng 12/1953. Ảnh tư liệu

Về phía Việt Nam, Bộ Chính trị họp, đánh giá Điện Biên Phủ là tập đoàn cứ điểm mạnh, nhưng bị cô lập, mọi tiếp tế phải dựa vào hàng không. Chọn nơi này làm điểm quyết chiến chiến lược trong chiến dịch đông xuân 1953-1954, Bộ Chính trị mở chiến dịch Điện Biên Phủ, ngày 6/12/1953.

Bộ Tư lệnh chiến dịch được thành lập, do đại tướng Võ Nguyên Giáp làm Tư lệnh kiêm Bí thư Đảng ủy. Thiếu tướng Hoàng Văn Thái làm Tham mưu trưởng, ông Lê Liêm là Chủ nhiệm Chính trị. Bộ Tổng Tư lệnh ra lệnh cho các đơn vị bộ đội chủ lực mở 5 đòn tiến công trên các mặt trận Lai Châu, Trung Lào, Hạ Lào – Đông Bắc Campuchia, Bắc Tây Nguyên và Thượng Lào.

“Những quả đấm buộc địch phân tán khối chủ lực cơ động chiến lược ra khắp các hướng chiến trường”, tướng Nhiên giải thích.

Việt Minh đã huy động các đại đoàn 308, 312, 316, 304, trung đoàn 57. Về pháo, Đại đoàn Công pháo 351 có hai tiểu đoàn pháo 105 mm với 24 khẩu; Trung đoàn Sơn pháo 675 có 5 đại đội sơn pháo 75 mm với 15 khẩu; Trung đoàn Pháo phòng không 367 có 24 khẩu 37 mm và 2 đại đội súng máy phòng không với 24 khẩu, cỡ nòng 12,7 mm.

Tổng số quân chủ lực của Việt Minh khoảng 40.000, nếu tính cả tuyến hai là 55.000. Lực lượng phục vụ chiến dịch gồm 628 ôtô vận tải, 21.000 xe đạp thồ, 261.500 dân công cùng nhiều tàu, thuyền, lừa, ngựa.

Đánh giá về tương quan lực lượng, thiếu tướng Lưu Quang Vụ, Phó cục trưởng Tác chiến, Bộ Tổng Tham mưu, nhìn nhận quân Pháp chiếm ưu thế tuyệt đối về phương tiện chiến đấu, đặc biệt là xe tăng và máy bay. Bộ đội Việt Nam có ưu thế về bộ binh. Lực lượng pháo binh hai bên tương đương.

Bộ Chính trị tổ chức họp dưới sự chủ trì của Chủ tịch Hồ Chí Minh ngày 6/12/1953, quyết định mở chiến dịch Điện Biên Phủ. Ảnh: Tư liệu TTXVN

Pháp tự tin “bắt tướng Giáp bại trận”

Quân đông, hỏa lực mạnh, hệ thống công sự hiện đại và tận dụng lợi thế địa hình, Bộ Chỉ huy Pháp coi tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ là hệ thống phòng ngự mạnh nhất Đông Dương, “pháo đài không thể công phá”, “con nhím khổng lồ” giữa núi rừng Tây Bắc. Pháp tự tin chặn mọi sự tiếp tế của bên ngoài cho Việt Minh, cuối cùng đánh bại quân chủ lực, làm bàn đạp tiêu diệt đầu não kháng chiến của Việt Minh ở Điện Biên Phủ.

Tướng Navarre dự đoán Việt Minh không thể mở đường lên Điện Biên Phủ bằng sức lao động thủ công, không thể đưa pháo vào trận địa do đường sá xa xôi, thiếu phương tiện cơ giới. Bộ đội chủ lực Việt Nam không thể nào tiếp cận được các trung tâm đề kháng của tập đoàn cứ điểm mà không bị thương vong và không thể nào đánh liên tục cả ngày lẫn đêm kéo dài hàng tháng.

“Họ sẽ không thể duy trì được sức chiến đấu. Mùa mưa tới vận tải khó, đời sống chiến hào sẽ thiếu thốn, sẽ xảy ra nạn dịch, lúc đó không đánh cũng thua”, tướng Navarre viết trong hồi ký.

Charles Piroth, Chỉ huy pháo binh trong trận Điện Biên Phủ, bày tỏ tự tin về số trọng pháo: “Nếu tôi được biết trước 30 phút, tôi sẽ phản pháo rất kết quả. Việt Minh không thể nào đưa pháo đến tận đây. Nếu họ đến, chúng tôi sẽ đè bẹp ngay… và ngay cả khi họ tìm được cách đến, tiếp tục bắn, họ cũng không có khả năng tiếp tế đầy đủ đạn dược để gây khó khăn thật sự cho chúng tôi”.

Ngày 2/1/1954, trả lời phỏng vấn hãng tin AP của Mỹ, tướng René Cogny, Chỉ huy quân Pháp ở miền Bắc, cũng khẳng định: “Chúng tôi đã có một hỏa lực mạnh đủ sức quét sạch đối phương đông gấp 4-6 lần. Tôi sẽ làm tất cả để bắt tướng Giáp phải bại trận”.

Sơn Hà

Tư liệu tham khảo: Kỷ yếu hội thảo “Chiến thắng Điện Biên Phủ – Giá trị lịch sử và tầm vóc thời đại”; Kỷ yếu tọa đàm “Nghệ thuật quân sự trong Chiến dịch Điện Biên Phủ – Bài học thực tiễn trong huấn luyện chiến đấu hiện nay”; Sách Đường tới Điện Biên Phủ của Đại tướng Võ Nguyên Giáp; Sách Tướng Navarre với trận Điện Biên Phủ của Jean Pouget và sách Điện Biên Phủ: 13/3-7/5/1954 của Ivan Cadeau.

***

Thế khó của Việt Nam

Hậu cần – bài toán ‘cân não’ trong chiến dịch Điện Biên Phủ

VNE – Theo tính toán, để đủ 16.000 tấn gạo phục vụ bộ đội trong chiến dịch Điện Biên Phủ, ngành hậu cần phải huy động 384.000 tấn, vì cứ một kg gạo đến đích thì mất 24 kg ăn dọc đường.

Đầu năm 1954, sau khi mở chiến dịch Điện Biên Phủ, Pháp với sự hậu thuẫn của Mỹ đã đổ vào đây hơn 11.800 quân, lúc cao điểm lên đến 16.200, chiếm gần 10% lực lượng lục quân miền Bắc, số đạn dược cao hơn 20% số lượng tiêu thụ hàng tháng của lực lượng này.

Điện Biên Phủ trở thành “pháo đài không thể công phá”, “con nhím khổng lồ” giữa núi rừng Tây Bắc. Tướng Henri Navarre, Tổng chỉ huy quân đội viễn chinh ở Đông Dương, tin tưởng Việt Minh không thể tập trung quá hai sư đoàn và pháo binh hạng nặng lên trận địa. Việc tiếp tế lương thực, đạn dược và nhu yếu phẩm cho đội quân chiến đấu trong thời gian dài, trên những con đường luôn bị không quân Pháp dội bom là “không thể”.

Sau khi tổng kết các trận chiến ở Tây Bắc, Nà Sản vào cuối năm 1953, Phòng nhì (bộ phận tình báo của quân đội Pháp) đã tính toán về khả năng mang vác của dân công Việt Nam và kết luận: “Quân đoàn tác chiến Việt Minh không thể hoạt động dài ngày tại một vùng thiếu lương thực, ở cách xa khu căn cứ quá 18 km”.

Tự tin “nghiền nát” Việt Minh nếu có ý định đánh Điện Biên Phủ, đêm Giáng sinh năm 1953, Chỉ huy trưởng tập đoàn cứ điểm De Castries phát biểu: “Chúng tôi chỉ còn sợ Việt Minh thấy miếng mồi Điện Biên Phủ quá to. Nếu họ quá sợ mà không dám tấn công thì thật là tai họa đối với tinh thần binh sĩ!”. Ông ta cho máy bay rải truyền đơn, thách thức đại tướng Võ Nguyên Giáp và bộ đội.

Binh lính và xe tăng Pháp đang chờ đợi Việt Minh tấn công. Ảnh tư liệu.

Chấp nhận giao chiến với quân Pháp, Quân đội nhân dân Việt Nam (Pháp gọi là quân Việt Minh) đã nhìn thấy những thách thức khi mở chiến dịch Điện Biên Phủ. Riêng tuyến chiến đấu lúc cao nhất cần hơn 87.000 người, gồm 54.000 bộ đội và 33.000 dân công. Lượng gạo cần cho tuyến này là 16.000 tấn.

Thiếu tướng Nguyễn An, nguyên Phó chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần, từng kể nguồn tiếp tế từ phía nam là Thanh Hóa lên, đường dài hơn 900 km, thì cứ một kg gạo đến đích phải có 24 kg gạo ăn dọc đường. Ở chiến dịch Điện Biên Phủ, nếu phải vận chuyển toàn bằng dân công gánh bộ thì muốn có 16.000 tấn gạo đến đích phải nhân lên gấp 24 lần, tức cần huy động trong dân 384.000 tấn gạo.

“Muốn có 384.000 tấn gạo phải thu cho được và tổ chức xay giã 640.000 tấn thóc. Giả định nếu có thu được cũng không vận chuyển kịp vì đường quá xa, khối lượng quá lớn”, tướng Nguyễn An kể trong sách Chiến sĩ Điện Biên kể chuyện.

Chiến dịch cần tới 1.200 tấn vũ khí, riêng số đạn đại bác trên 20.000 viên, tổng trọng lượng 500 tấn. Ngoài ra, còn cần vận chuyển thuốc nổ, thuốc men, quân tư trang…, tất cả không được tập kết ở một nơi mà nằm rải rác khắp mọi miền. Làm cách nào huy động, vận chuyển được số lượng lớn gạo, đạn dược ra mặt trận trong khi ôtô chỉ có vài trăm chiếc?

Huy động gạo tại chỗ, dùng tre đan cối xay gạo

Với tinh thần “tất cả cho tiền tuyến”, Bộ Chính trị và Chính phủ động viên nhân dân Sơn La, Lai Châu, hai tỉnh vừa được giải phóng, góp gạo cho bộ đội, giảm thiểu việc vận chuyển từ xa. Nếu phải xin viện trợ gạo của Trung Quốc thì chọn nguồn gần nhất, thiếu mới lấy từ hậu phương xa hơn.

Kết quả nhân dân Sơn La, Lai Châu góp được hơn 7.360 tấn gạo, bằng 27% tổng số huy động. Gạo viện trợ của Trung Quốc từ Vân Nam xuống được 1.700 tấn và ngành hậu cần mua được 300 tấn gạo ở vùng Nậm Hu (Thượng Lào). Còn lại 15.640 tấn gạo phải chuyển từ hậu phương lên, trong đó 6.640 tấn cung cấp cho mặt trận. Số gạo ăn dọc đường chỉ còn 9.000 tấn, tức chỉ bằng 2,4% so với tính toán ban đầu.

Đại tá Trần Thịnh Tần, từng là Trung đội trưởng của Tổng cục Cung cấp tiền phương, kể đồng bào Tây Bắc góp hơn 10.000 tấn thóc nương cho bộ đội. Nguồn lương thực này rất đáng quý vì được huy động tại chỗ, nhưng làm thế nào để xay xát thành gạo lại là câu hỏi khó.

Sau nhiều ngày nghiên cứu, Tổng cục Cung cấp tiền phương quyết định thành lập “đội quân phó cối” chuyên xay thóc ngay tại chiến trường. Các “phó cối” tuyển mộ từ đơn vị bộ đội, dân công và điều từ hậu phương lên. Họ vào rừng chặt tre bện dây làm áo cối, chẻ nan tre đóng nêm, dùng tre làm cần. Lúc đầu tỷ lệ gạo xay bằng cối tre thấp, nhưng sau đã tăng lên.

Để vận chuyển gạo, vũ khí cho chiến trường, Chính phủ huy động dân công là những nông dân vùng tự do khu 4 (Thanh – Nghệ – Tĩnh) và cả vùng bị tạm chiếm, tổng số hơn 261.000 người, góp gần 11 triệu ngày công. Riêng từ Sơn La trở vào Điện Biên đã có 33.000 người, bằng 4,72 triệu ngày công. Họ tham gia làm đường, dùng quang gánh, gùi, xe cút kít, thuyền nan, xe đạp và cả trâu, ngựa… để vận chuyển hàng hóa phục vụ chiến dịch.

>>Điện Biên Phủ – tập đoàn cứ điểm mạnh nhất Đông Dương 70 năm trước

Đoàn dân công xe thồ chở gạo phục vụ tiền tuyến. Ảnh: TTXVN

Dân công đã cải tiến xe đạp thông thường thành xe đạp thồ, có thể leo đèo dốc, chở hàng trăm kg hàng hóa. Tổng cộng ngành hậu cần huy động gần 21.000 xe đạp thồ, trong đó 2.500 xe trên tuyến quân đội, mỗi xe trung bình thồ được 180 kg, cá biệt xe của ông Cao Văn Ty ở Thanh Hóa thồ 320 kg, xe của ông Ma Văn Thắng ở Phú Thọ thồ 352 kg.

Đại tướng Võ Nguyên Giáp trong sách Điện Biên Phủ điểm hẹn lịch sử kể về không khí ra trận của dân công: “Vận tải xe thồ đã trở thành binh chủng vận tải quan trọng thứ hai, đứng sau xe cơ giới. Những đoàn ngựa thồ của đồng bào Mông từ rẻo cao xuống, những chị dân công người Tày, người Nùng gánh, người Thái, người Dao gùi, chấm phá thêm màu sắc cho bức tranh liên hoàn dài vô tận. Lại có cả những đàn bò nghênh ngang, những chú lợn chạy lon ton, dưới sự dẫn dắt kiên nhẫn của những chiến sĩ cung cấp, cũng đi ra mặt trận”.

Tướng Navarre sau này cũng đã phải công nhận: “Trong vùng quân ta (tức quân Pháp) kiểm soát thì Việt Minh vẫn có một uy quyền bí mật. Họ thu thuế, tuyển mộ người. Ở đây họ chở rất nhiều gạo, muối, vải, thuốc và cả những chiếc xe đạp có tác dụng rất lớn trong việc tiếp tế…”.

Ngoài phương tiện vận tải thô sơ, mặt trận Điện Biên Phủ được trang bị xe vận tải Liên Xô, lúc cao nhất là 628 chiếc, riêng tuyến hậu cần quân đội 352 xe. Việt Minh cũng sử dụng hai tuyến đường thủy vận chuyển hàng là sông Hồng từ Phú Thọ, Vĩnh Phúc sang và sông Mã từ Thanh Hóa lên Vạn Mai, tỉnh Hòa Bình rồi tiếp tục theo đường bộ tới Điện Biên Phủ. Cả hai tuyến này đã huy động tới 11.800 thuyền gỗ, thuyền nan đủ loại.

Vận chuyển từ đạn đại bác tới thuốc lào cho bộ đội

Để đánh Điện Biên Phủ, đại bác và đạn đóng vai trò quan trọng. Việt Minh có đạn 105 mm, nhưng khan hiếm trong khi số lượng cần dùng trong chiến dịch tới hơn 20.000 viên, tổng trọng lượng 500 tấn. Việc vận chuyển số đạn này tới các trận địa pháo trong điều kiện đường đèo dốc, dưới sự kiểm soát của không quân Pháp là bài toán “cân não”. Bởi 11.715 viên phải lấy từ các kho quân khí ở hậu phương, cách xa mặt trận từ 500 đến 700 km. Số đạn này dành dụm qua 4 năm, suốt từ chiến dịch Biên giới năm 1950.

Vì khan hiếm, việc bảo vệ đạn đại bác được tính toán chi tiết, cẩn thận. Bộ đội đã tập kết đạn trong hang đá ở Bản Lầu, tỉnh Sơn La. Ở hỏa tuyến, các kho đạn đều được đào sâu vào sườn núi, kê gỗ, lót ván bố trí dọc đường… Nhờ ngụy trang kín đáo nên dù quân Pháp liên tục dùng máy bay trinh sát những nơi nghi bố trí kho tàng nhưng không phát hiện ra.

Kho đạn pháo đều được đào sâu trong vách núi, ngụy trang cẩn thận để tránh máy bay trinh thám của Pháp phát hiện. Ảnh: TTXVN

Ở mặt trận, bộ đội giành lấy dù đạn 105 mm do máy bay Pháp thả nhầm xuống trận địa, lấy được hơn 5.000 viên. Quân đội Trung Quốc cũng đóng góp cho chiến dịch 3.600 viên, chiếm 18% tổng lượng đạn tiêu thụ.

Bên cạnh đạn dược, thuốc nổ, thuốc men, các thiết bị thông tin liên lạc, từ vô tuyến điện đến điện thoại hữu tuyến, dây điện… đều được ngành hậu cần chuẩn bị chu đáo. Hệ thống thông tin thông suốt, giúp Bộ Chỉ huy chiến dịch thuận tiện ra các mệnh lệnh cần thiết.

Theo hồi ức của thiếu tướng Nguyễn Minh Long, nguyên Phó cục trưởng Cục Tác chiến, Trợ lý tham mưu trong Ban Chỉ huy chiến dịch Điện Biên Phủ, để khắc phục tình trạng thiếu dây điện, bộ đội đã tháo toàn bộ dây thông tin của Bộ Chỉ huy với các cơ quan và hậu phương để thay bằng dây trần, vay dây của bưu điện Sơn La, Lai Châu, Hòa Bình. Cục phát động du kích vùng địch hậu tháo gỡ dây của quân Pháp, đưa bộ đội về cứ điểm Nà Sản đào dây địch bỏ lại đem lên Điện Biên Phủ sử dụng.

Ngành hậu cần đã chuẩn bị cho bộ đội từng thứ nhỏ nhất. Trong cuốn Một vài hồi ức về Điện Biên Phủ, thượng tướng Hoàng Cầm, khi đó là Trung đoàn trưởng Trung đoàn 209, Đại đoàn 312, kể đại tướng Võ Nguyên Giáp đã chỉ đạo ngành cung cấp chuẩn bị đủ cả thuốc lào, thứ mà đa số bộ đội hay hút.

Tướng Cầm giải thích thuốc lào không phải vấn đề cơ bản trong chiến đấu nhưng lại là nhu cầu thực tế không thể thiếu. Bộ đội lúc ấy đa số là nông dân, nhiều người nghiện thuốc rất nặng, mà nghiện thì “đã chôn điếu xuống lại đào điếu lên”. Không có thuốc hút, người bần thần.

“Hiểu nhu cầu ấy, Chính phủ và Bác Hồ đã chỉ thị cho hậu phương chú ý lo cho bộ đội khoản thuốc lào gửi lên mặt trận, cùng với súng đạn, gạo muối và thuốc men. Nhưng do chiến đấu kéo dài, thiếu thuốc hút vẫn là vấn đề thời sự được nhắc đến hàng ngày”, tướng Hoàng Cầm kể lại.

Trong điều kiện kháng chiến thiếu thốn, Quân y đã dự trữ thuốc men để cứu chữa thương binh, cứu cả thương binh Pháp bị bắt làm tù binh. Trước ngày toàn thắng, ngành quân y làm lò nung vôi tại chỗ để chuẩn bị vôi bột vệ sinh chiến trường, khử trùng hầm hào quân Pháp trú đóng. Chỉ vài ngày sau kết thúc chiến dịch, chiến trường đã hết mùi xú uế.

Tù binh quân viễn chinh trong chiến dịch Điện Biên Phủ được đưa về hậu phương. Ảnh tư liệu

Tướng Pháp Yves Gras trong cuốn Lịch sử chiến tranh Đông Dương đã viết: “Ông Giáp quan niệm cả một dân tộc sẽ tìm ra giải pháp cho vấn đề hậu cần và giải pháp này đã làm thất bại mọi toan tính của Bộ tham mưu Pháp…”.

Tổng chỉ huy quân đội viễn chinh ở Đông Dương cũng đã phải công nhận: “Bộ chỉ huy Việt Minh đã phác họa thật hay về công việc tiếp vận của họ. Chúng ta phải thừa nhận sự cố gắng lớn lao của nhân dân họ chi viện cho quân đội họ và khâm phục khả năng của Bộ chỉ huy, Chính phủ đối phương đã biết cách để đạt hiệu quả”.

Còn nhà nghiên cứu lịch sử quân sự Pháp, tiến sĩ Ivan Cadeau, trong sách Điện Biên Phủ 13/3-7/5/1954, đã tổng kết tất cả tài liệu lưu trữ trong Bộ Quốc phòng Pháp và rút ra kết luận: “Chưa bao giờ không quân Pháp thành công trong việc cản trở hậu cần của Việt Minh, dù chỉ trong vài giờ”.

Sức mạnh của đội quân hậu cần đã góp phần làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ ngày 7/5/1954.

Tiên Long

***

Quyết định chuyển hướng chiến dịch

Quyết định ‘khó nhất đời cầm quân’ của đại tướng Võ Nguyên Giáp

VNE Đêm trước nổ súng chiến dịch Điện Biên Phủ, 25/1/1954, tổng tư lệnh 43 tuổi không thể chợp mắt, đầu đau nhức, y sĩ phải buộc trên trán ông nắm ngải cứu.

Nhiều năm sau này, đại tướng Võ Nguyên Giáp, trong hồi ký Điện Biên Phủ – Điểm hẹn lịch sử nhớ 26/1/1954 là ngày “thực hiện một quyết định khó khăn nhất trong cuộc đời chỉ huy của mình”. Đó là chuyển phương châm tác chiến từ “đánh nhanh giải quyết nhanh” sang “đánh chắc, tiến chắc”, cách thời điểm nổ súng tiêu diệt Trần Đình – bí danh của Điện Biên Phủ, chỉ vài giờ.

Để ra quyết định này, ông phải trải qua 11 ngày đêm “mất ăn mất ngủ” với những phân tích tình hình, lập luận để thuyết phục và nhận được đồng thuận của đoàn cố vấn, Đảng ủy và Bộ Chỉ huy mặt trận, theo đại tá Trần Ngọc Long, nguyên Viện phó Lịch sử quân sự.

Quyết định mà 70 năm sau, giới nghiên cứu quân sự trong nước vẫn cho là “chìa khóa” mở cửa thắng lợi chiến trường.

“Đó là một quyết định lịch sử trong chiến dịch lịch sử”, đại tá Long nói.

Hồ Chủ tịch cùng Tổng Quân ủy họp bàn quyết định phương án tác chiến chiến lược Đông Xuân 1953-1954.

Trước ‘giờ D’

39 ngày sau khi Bộ Chính trị quyết định mở chiến dịch Trần Đình, phương án tác chiến “đánh nhanh giải quyết nhanh” được phổ biến trong Hội nghị cán bộ chiến dịch tại hang Thẩm Púa, ngày 14/1/1954.

Hang Thẩm Púa – nơi đầu tiên đặt Sở Chỉ huy chiến dịch, nằm dưới chân núi Pú Hồng, huyện Tuần Giáo, cách lòng chảo Điện Biên hơn 60 km. Vây quanh chiếc sa bàn lớn là các ông Vương Thừa Vũ, Lê Trọng Tấn, Nam Long, Cao Văn Khánh, Chu Huy Mân…, những cán bộ cao, trung cấp các đại đoàn chiến đấu chủ lực.

Bộ phận tiền trạm Bộ Tổng tham mưu cùng cố vấn Trung Quốc chung nhận định quân Pháp mới đổ quân xuống lòng chảo Điện Biên, còn lạ nước lạ cái, công sự, bố phòng nhiều sơ hở. Tranh thủ lúc này tập trung binh hỏa lực đánh thốc vào trung tâm Mường Thanh, chia cắt rồi cô lập từng cứ điểm để tiêu diệt cả tập đoàn. Cách đánh này, người Trung Quốc gọi là “oa tâm tạng chiến thuật”, tức là “thọc thẳng vào tim”.

Phía quân đội Việt Nam sĩ khí đang dâng cao khi lần này có cao xạ, đại bác 105 mm tham chiến. Đánh nhanh khi bộ đội còn sung sức sẽ giảm tổn thất, cũng giải quyết được khâu tiếp tế đạn dược, lương thực cho 55.000 chiến sĩ trong bối cảnh hậu phương cách xa 300-500 km.

Mệnh lệnh chiến đấu được thông qua, Trần Đình sẽ được giải quyết trong ba đêm hai ngày. Ngày nổ súng ấn định 20/1/1954. Trận đọ sức cuối cùng sẽ diễn ra trên cánh đồng dài 15 km, rộng 6-7 km, cách biên giới Việt – Lào 13 km.

Không khí hội nghị sôi nổi, riêng tướng Giáp trầm tư. Ai cũng đồng ý phải đánh nhanh, nhưng ai có thể đảm bảo chắc thắng? Ông khuyến khích cán bộ nói hết khó khăn, nhưng họ chỉ hỏi cho rõ hơn. Không ai thắc mắc gì. Hôm ấy đã là mùng 10 tháng chạp, cách Tết Nguyên đán chỉ 20 ngày.

Trên thực tế từ trước khi hội nghị diễn ra, trong lòng ông đã gợn sóng về đánh nhanh giải quyết nhanh. Dọc đường từ ATK lên Thẩm Púa, khi bản sơ đồ tập đoàn cứ điểm được trải rộng, ông lần đầu tiên nhìn thấy những vị trí quân Pháp dày đặc. Muốn tiếp cận từ phía Tây phải vượt qua cánh đồng rộng, nếu từ phía Đông sẽ gặp núi đồi liên hoàn án ngữ.

Từ chỗ “cần tìm hiểu thêm tình hình”, tướng Giáp thấy đánh nhanh “là quá mạo hiểm”, cuối cùng nhận định “không thể giành thắng lợi” với phương án tác chiến này. Nhưng mới từ ATK lên, ông chưa đủ cơ sở thực tiễn bác bỏ phương án những người đã lên mặt trận trước đó lựa chọn. Đại tướng dặn những người thân cận điều tra kỹ di biến động trên cánh đồng hướng Tây, nơi được coi là sơ hở và báo cáo hàng ngày cho riêng ông.

>>Điện Biên Phủ – tập đoàn cứ điểm mạnh nhất Đông Dương 70 năm trước

Lựu pháo 155 mm của Pháp ở phân khu Trung tâm tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ.

Kéo pháo vào, kéo pháo ra

Khi hội nghị Thẩm Púa diễn ra, các cứ điểm trên lòng chảo Điện Biên thay đổi từng ngày – điều mà bộ đội Việt Minh khó lường được. Chỉ trong 40 ngày, tập đoàn này bổ sung 10 tiểu đoàn, 7 trong số 8 trung tâm đề kháng hoàn chỉnh chia ba phân khu rõ ràng, đầy đủ tăng pháo, bãi mìn cùng 200 chuyến bay chi viện hậu cần mỗi ngày.

Điện Biên Phủ đã không còn ở trạng thái “sơ hở của một kẻ mới lâm thời chiếm lĩnh trận địa” mà “chật cứng những tiểu đoàn quân Pháp, các công trình phòng thủ hoàn tất, mọi việc chuẩn bị đã kết thúc” trước ngày 14/1/1954, như lời Jean Pouget, thư ký riêng của Navarre sau này nhận xét.

“Con nhím Điện Biên” cứng cáp dần, nỗi lo lắng lẫn hoài nghi trong lòng vị tướng 43 tuổi về yếu tố “chắc thắng” cũng lớn theo. Điều tiên quyết là các khẩu pháo phải được đưa vào trận địa, sẵn sàng nhả đạn, trận đánh mới có thể bắt đầu. Hội nghị Thẩm Púa cách thời điểm nổ súng dự định 6 ngày. Nhưng sau 7 đêm, pháo vẫn chưa vào hết trận địa.

Thời gian nổ súng dự định phải lui lại 5 ngày, sang 17h ngày 25/1/1954.

Tướng Giáp tự nhận đây là quãng thời gian rất dài với ông khi nhiều đêm thao thức vẫn chỉ tìm thấy rất ít yếu tố thắng lợi. Các phái viên đi nắm tình hình phải báo lại với ông bất cứ điều gì đáng chú ý. Đại đoàn trưởng 312 Lê Trọng Tấn nói sẽ phải đột phá liên tục ba lần mới vào được trung tâm. Đại đoàn trưởng 308 Vương Thừa Vũ đảm nhiệm mũi thọc sâu “hoàn toàn im lặng”.

Tới ngày thứ chín, Cục phó Cục Bảo vệ Phạm Kiệt – người theo dõi việc kéo pháo ở phía Tây, gọi điện cho tướng Giáp. Ông Kiệt nói pháo đặt trên trận địa dã chiến, rất trống trải, sẽ tổn thất nặng nếu bị phản kích. Một số khẩu còn chưa kéo được vào tới trận địa. Đó là người đầu tiên, duy nhất dám nói thật về những bất lợi trước trận đánh.

Tất cả biểu hiện chiến trường làm cho tướng Giáp sốt ruột. Gần ngày nổ súng, thậm chí có trung đoàn đột kích đề nghị trả bớt pháo vì được trao quá nhiều. Khi những khẩu pháo nặng gần hai tấn nhích dần về trận địa, diễn biến đầu tiên ngoài dự kiến xảy ra – một chiến sĩ Đại đoàn 312 bị bắt.

Lo bị lộ, thời gian nổ súng được hoãn thêm 24 tiếng, sang ngày 26/1/1954.

Nhiều nhánh đường được mở mới để bộ đội vận chuyển vũ khí ra mặt trận, bất chấp quân Pháp dội bom bắn phá.

11 ngày trôi qua, với đại tướng “dài như cả tháng”. Và mỗi ngày, ông càng nhận thấy “không thể đánh nhanh” được. Đêm 25/1/1954 trong lán ở bản Nà Tấu – nơi cách Điện Biên Phủ 30 km, đại tướng kể “không sao chợp mắt, đầu đau nhức”. Lời dặn dò của Hồ Chủ tịch trước lúc lên đường cùng nghị quyết Trung ương cứ vẳng bên tai “… Chỉ được thắng, không được bại. Vì bại thì hết vốn!”. Đến nỗi, y sĩ phải buộc trên trán ông một nắm ngải cứu.

Trận này, ông không được phép thua. Bởi phần lớn tinh hoa bộ đội chủ lực trong 8 năm kháng chiến đã tập trung về đây. Ông thuộc từng trung đoàn, tiểu đoàn, từng đại đội chủ công, nhớ từng gương mặt lập công. Với ông, đó là “vốn liếng vô cùng quý giá, nhưng cũng thực ít ỏi”. Chiến dịch đâu chỉ là giành thắng bằng mọi giá, còn phải giữ được “vốn liếng” cho cuộc chiến lâu dài.

Ông hiểu vì sao ai nấy đều lựa chọn đánh nhanh. Hậu cần chỉ là một yếu tố, lý do chính là e ngại thời gian chuẩn bị dài, Pháp tăng quân số, tập đoàn cứ điểm càng vững, cơ hội tiêu tiệt càng mỏng manh. Ai cũng tin vào sức mạnh tinh thần, nhưng loại sức mạnh này cũng có giới hạn.

Chọn chiến trường rừng núi có lợi cho bộ đội Việt Minh. Nhưng Điện Biên Phủ đâu hoàn toàn là rừng núi, còn có cánh đồng Mường Thanh lớn nhất Tây Bắc. Bộ đội sẽ phải đương đầu với hỏa lực cực mạnh ở nơi bằng phẳng như đồng bằng. Quân Pháp chấp nhận giao tranh ở Điện Biện Phủ, đồng nghĩa đây cũng là chiến trường do chúng lựa chọn.

Nhưng pháo binh đã vào vị trí, các đại đoàn đã ở tuyến xuất phát xung phong. Lần thứ ba hoãn trận đánh, tinh thần bộ đội sẽ ra sao? Cuối cùng, tướng Giáp nhận thấy phải cho các đơn vị rút khỏi mặt trận, chuyển sang đánh chắc. Ông chỉ mong chóng sáng.

Nắm ngải cứu còn trên trán, ông gọi phiên dịch Hoàng Minh Phương cùng sang gặp cố vấn trưởng Vi Quốc Thanh, mờ sáng 26/1/1954, ngay trước họp Đảng ủy Mặt trận. Phân tích kỹ ba khó khăn bộ đội gặp phải, ông khẳng định “nếu đánh là thất bại” và nói rõ “hoãn cuộc tiến công ngay chiều nay, thu quân về vị trí tập kết, chuẩn bị lại theo phương châm đánh chắc, tiến chắc”.

Cố vấn Vi Quốc Thanh sau một lúc suy nghĩ đã đồng ý, nói sẽ làm công tác tư tưởng với đoàn Trung Quốc. Cuộc trao đổi khoảng nửa giờ.

Khi tướng Giáp nói rõ thay đổi cách đánh trước cuộc họp Đảng ủy Mặt trận, ai nấy im lặng. Tất cả đều băn khoăn “làm sao giải thích cho bộ đội?”. Có ý kiến trái chiều đề nghị giữ vững quyết tâm mà đánh. Hội nghị phải tạm dừng. Lúc trở lại, nhiều người vẫn muốn đánh nhanh, nhưng “có chắc thắng trăm phần trăm không?” là câu hỏi không ai có thể trả lời. “Đánh chắc thắng” lúc này trở thành nguyên tắc cao nhất.

Cách nổ súng vài giờ, cuộc tiến công lần thứ ba được hoãn.

“… lệnh cho các đồng chí từ 17h hôm nay, kéo pháo ra khỏi trận địa lui về địa điểm tập kết, chuẩn bị lại. Triệt để chấp hành mệnh lệnh! Không giải thích”, tướng Giáp lệnh qua điện thoại cho Chính ủy Đại đoàn công pháo 351 Phạm Ngọc Mậu, trưa 26/1/1954.

Kéo pháo vào trận địa bằng sức người, không dùng xe để giữ bí mật.

Rất nhiều năm sau này, những người lính Điện Biên vẫn kể rằng chiều hôm ấy, thay vì nổ súng xung trận, họ nhận lệnh lui binh, kéo pháo ra. Anh em nháo nhác hỏi nhau vì sao. Nhưng chỉ huy đơn vị chỉ nói ba lời: Quyết tâm tiêu diệt Trần Đình, tuyệt đối tin tưởng cấp trên và triệt để chấp hành mệnh lệnh.

Trong hồi ức cố thượng tướng Phạm Ngọc Mậu, bộ đội “bàng hoàng” khi nhận được lệnh kéo pháo ra. Cán bộ chưa thông nhưng vẫn bình tĩnh. Còn chiến sĩ “cằn nhằn ra mặt”. Có công binh đang mở rộng tuyến đường, được tin đã bất bình lao phập lưỡi xẻng ngập sâu xuống đất. Trên trận địa, lệnh “thu pháo” của khẩu đội trưởng đã hạ, nhưng các pháo thủ vẫn đứng tần ngần chưa muốn đậy nắp nòng, chưa buồn nhấc đạn đã lau xếp vào hòm. Trên đường kéo pháo, lệnh quay ra đã đến nhưng hầu như chưa có hiệu lực.

Khi không thể điện đài báo cáo Trung ương, đại tướng Võ Nguyên Giáp viết thư hỏa tốc trình bày rõ với Hồ Chủ tịch và Bộ Chính trị, giao cán bộ tác chiến dùng chiếc Jeep duy nhất mang thư đi suốt ngày đêm về căn cứ.

“Trong ngày hôm đó, tôi đã thực hiện được một quyết định khó khăn nhất trong cuộc đời chỉ huy của mình”, ông kể trong hồi ký.

Theo nhà nghiên cứu Trần Ngọc Long, sau này có ý kiến băn khoăn vì sao không thay đổi phương án sớm hơn? Trên thực tế, “đánh nhanh giải quyết nhanh” không phải là không có cơ sở vào thời điểm ấy. Nhưng đại tướng mới từ ATK lên mặt trận, trong khi bộ phận tiền trạm Bộ Tổng tham mưu và đoàn cố vấn Trung Quốc đã có mặt và nghiên cứu từ cả tháng trước.

Ông Long nói cuộc họp thay đổi phương châm tác chiến vào giờ chót vẫn được giới nghiên cứu quân sự ví như “hội nghị Bình Than” thời Trần. Những nhân chứng lẫn tài liệu đều chỉ ra các chỉ huy tranh luận rất thẳng thắn, thậm chí “có phần gay gắt” để làm rõ vì sao phải thay đổi cách đánh vì sẽ kéo theo hàng loạt vấn đề.

Khó nhất là làm công tác tư tưởng chiến đấu cho bộ đội. Đại tá Long phân tích với phương án đánh nhanh, công tác Đảng, chính trị đã thổi tư tưởng tiến công vào tâm trí mỗi người lính. Gần đến “giờ D” bộ đội đã ở yên trên chiến hào sẵn sàng xung trận. Chuyển sang đánh chắc và lại phải kéo pháo ra khiến tinh thần họ “như quả bóng xì hơi”. Con người vẫn là yếu tố quan trọng nhất mỗi chiến dịch, nên giải quyết công tác tư tưởng ra sao?

Với khâu hậu cần, “đánh chắc” dự kiến kéo dài 45 ngày đêm – gấp 15 lần so với đánh nhanh, việc đảm bảo lương thực, tiếp tế cho 55.000 chiến sĩ, chưa kể hàng chục nghìn dân công hỏa tuyến thế nào? Hàng loạt vấn đề đặt ra không dễ giải quyết.

https://video.vnexpress.net/embed/v_396853
Đại tá Trần Ngọc Long phân tích quá trình chuyển phương châm đánh nhanh sang đánh chắc. Video: Hoàng Phương

Nhưng thực hiện mệnh lệnh chiến trường, hậu phương “vét bồ” cho tiền tuyến đợi ngày “đánh chắc thắng”. Cùng lúc kéo pháo ra và xây dựng đường cơ động cho xe pháo vào trận địa, từ ngày 26/1 đến trước chiều 13/3/1954, bộ đội đào gần 200 km đường hào thít dần về lòng chảo Điện Biên Phủ chờ ngày nổ súng.

Đó là những ngày giáp Tết, hoa ban bắt đầu bung trắng khắp các sườn núi. Trong hồi ký, tướng Giáp nói đã theo dõi việc kéo pháo từng giờ. Trong đầu ông thuộc từng cái tên dốc Bảy Tời, vực sâu Vườn Chuối, cửa rừng Nà Nham… Pháo với người an toàn vượt qua mỗi địa danh này, coi như bộ đội đã lập được chiến công.

Dốc Bảy Tời, trước chỉ cuộn dây đưa pháo lên, nay lại từ từ nhả dây ròng pháo xuống. Vực sâu Vườn Chuối hôm nào ghìm dây thả pháo từ từ, nay còng lưng đẩy ngược pháo lên. Lá ngụy trang trên đường kéo pháo đã úa, Pháp đánh hơi liên tục bắn phá. Sau ánh chớp lòe cùng loạt đạn xé gió từ phía Mường Thanh, nhịp “hai…ba…nào…” lại vang núi rừng. Trên đường kéo pháo ra đã là đêm 30 tháng chạp, các chỉ huy pháo binh gom góp ít đỗ xanh, mấy thanh đường phên, vài điếu thuốc lá… ăn Tết.

“Bộ đội ta đã làm nên kỳ công”, đại tướng tự hào về những người lính của ông.

Trong cuộc trường chinh kháng chiến, các chỉ huy nhìn thấy tâm hồn “kỳ lạ” của những người lính, động viên họ ra tiền tuyến thì dễ, động viên ở lại hậu phương rất khó, lệnh tiến họ đạp đầu thù mà xông lên, lệnh lui họ lại trù trừ. Khi họ chưa thông mệnh lệnh thì không khỏi thắc mắc, nhưng đã hiểu thì không khó khăn nào khuất phục được.

Bộ đội công kênh đại tướng Võ Nguyên Giáp trong lễ duyệt binh mừng chiến thắng tại ngọn đồi phía đông Sở Chỉ huy chiến dịch Mường Phăng, ngày 13/5/1954.

Dĩ bất biến ứng vạn biến

Nếu năm đó không thay đổi cách đánh, chiến cuộc sẽ thế nào? “Lịch sử không có nếu như”, đại tá Trần Ngọc Long đáp.

Nhưng theo ông, nếu so sánh tương quan lực lượng và mức độ phòng thủ của tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, không một ai dám khẳng định đánh nhanh sẽ chắc thắng. Nhưng tổn thất lại có thể nhìn thấy rõ. Tướng Giáp, với vai trò chỉ huy cao nhất trên chiến trường, đã đánh cược sinh mệnh chính trị khi quyết thay đổi cách đánh vào giờ chót. Trong di sản tư tưởng quân sự Việt Nam, “đánh chắc thắng” là bất biến, còn lựa chọn cách đánh sao cho phù hợp là “ứng vạn biến”.

“Trên hết đó còn là trách nhiệm của ông với hàng vạn sinh mệnh cán bộ, chiến sĩ như lời cố thượng tướng Trần Văn Trà biết đau cùng nỗi đau người lính, biết quý từng giọt máu chiến binh, cũng là trách nhiệm trước trọng trách mà Hồ Chủ tịch cũng như Bộ Chính trị ủy thác cho người cầm quân ra trận”, ông Long nói.

Điện Biên Phủ sau ngày giải phóng, tháng 5/1954.

Mười năm sau ngày chiến thắng Điện Biên Phủ, tướng Giáp được nghe các chỉ huy giãi bày. Những người dù nhìn thấy nhiệm vụ quá nặng, đột phá liên tiếp, khó cứu chữa thương binh, tiếp tế đạn dược, nhưng trước không khí trao nhiệm vụ, tinh thần lên cao, đã không dám nói ra băn khoăn.

Chính ủy Đại đoàn công pháo Phạm Ngọc Mậu như “được cởi tấm lòng” khi nghe lệnh kéo pháo ra. Đại đoàn trưởng 312 Lê Trọng Tấn nói “nếu không có quyết định chuyển phương châm ngày đó, phần lớn chúng tôi không có mặt trong kháng chiến chống Mỹ”.

Riêng Đại đoàn trưởng 308 Vương Thừa Vũ hoàn toàn im lặng trong hội nghị Thẩm Púa, bởi không tin 2.000 viên pháo 105 mm mở màn có thể làm tập đoàn cứ điểm nhiều cây số vuông tan nát. Ông nghĩ lần đó “nếu đánh nhanh, giải quyết nhanh, cuộc kháng chiến có thể lui lại mười năm”.

Hoàng Phương

Ảnh tư liệuchụp tạiBảo tàng chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ.
Tư liệu tham khảo: Đại tướng Võ Nguyên Giáp Điện Biên Phủ – Điểm hẹn lịch sử, Hồi ức Hữu Mai thể hiện; Hồi ức cố thượng tướng Phạm Ngọc Mậu, Viện Lịch sử quân sự lược trích dịp kỷ niệm 65 năm chiến thắng Điện Biên Phủ.

Bài tiếp: ‘Vòng vây lửa’ trên chiến hào Điện Biên Phủ

***

Cuộc chiến 56 ngày đêm

Vòng vây lửa’ trên chiến hào Điện Biên Phủ

VNE – Thứ năm, 2/5/2024, 05:00 (GMT+7)

“Điện Biên Phủ là tập đoàn cứ điểm bất khả xâm phạm, các bạn đừng nghe lời tướng Giáp mà đánh vào. Đánh vào không còn đường về với bố mẹ”.

Tiếng loa dụ hàng từ cứ điểm Him Lam của quân đội viễn chinh Pháp vang vọng suốt ngày đêm giữa núi rừng Mường Thanh, lặp đi lặp lại. Nhưng các chiến sĩ của Đại đoàn 312 bao vây bên ngoài căn cứ Pháp không hề bị lung lay.

“Chúng tôi đâu để ý vì tinh thần chiến đấu lên cao, ai cũng chờ giờ nổ súng”, cựu binh Nguyễn Hữu Chấp, Trung đoàn 209, Đại Đoàn 312, kể về những ngày “khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt” trên chiến hào Điện Biên Phủ.

Hành quân từ 0h đến rạng sáng, bám trụ suốt ngày dài trong đường hào sâu quá đầu, chỉ rộng bằng cánh tay, nhưng không ai nao núng, kiên nhẫn chờ hiệu lệnh tiến công. Tất cả chiến sĩ đều sẵn sàng cho một trận chiến dài “đánh chắc, tiến chắc”.

“Đây là trận đánh không được phép thua”, đại tướng Võ Nguyên Giáp kể trong hồi ký Điện Biên Phủ – Điểm hẹn lịch sử.

Thời điểm đó, cuộc xâm lược của Pháp tại ba nước Đông Dương (Lào, Campuchia, Việt Nam) đã bước sang năm thứ 9. Các bên đều trong thế giằng co, bất phân thắng bại. Pháp ngày càng kiệt quệ cả về người và của – thiệt hại hơn 320.000 binh lính, sĩ quan và tiêu tốn 3.000 tỷ franc. Giới cầm quyền muốn tìm kiếm “lối thoát danh dự” nhằm kết thúc chiến tranh.

Trọng trách tạo ra bước ngoặt ấy được trao cho Henri Navarre (Nava), Tổng chỉ huy quân đội viễn chinh Đông Dương thứ 7. Một bản kế hoạch tác chiến mang tên chính mình được vị tân chỉ huy vạch ra, với viện trợ từ đồng minh Mỹ. Nava đặt mục tiêu trong vòng 18 tháng, xây dựng lực lượng cơ động vượt trội đối phương, xoay chuyển tình thế, tìm kiếm chiến thắng.

Cùng lúc, Kế hoạch tác chiến Đông Xuân 1953-1954 được Bộ Chính trị Việt Nam thông qua, xác định Tây Bắc làm hướng hoạt động chính. Giữa tháng 11/1953, đơn vị chủ lực lên đường ra mặt trận.

Những động thái quân sự của quân đội Việt Nam khiến đối phương không thể ngồi yên. Nava quyết định huy động lượng lớn binh lực, lập một tập đoàn cứ điểm mạnh nhất Đông Dương.

Điện Biên Phủ, nằm phía tây vùng núi Tây Bắc, sát biên giới Việt Lào, là nơi được chọn. Nava đánh giá căn cứ địa này sẽ là “con nhím” chặn đường chủ lực của Việt Minh, giúp Pháp đứng vững ở Tây Bắc, đồng thời làm “chìa khóa bảo vệ Thượng Lào”. Pháp tin rằng Điện Biên Phủ là “canh bạc” quyết định vận mệnh cuộc chiến.

Ngày 20/11/1953, Pháp cho quân nhảy dù tái chiếm Điện Biên Phủ. Đại tá De Castries được giao làm Chỉ huy Binh đoàn tác chiến Tây Bắc, dưới trướng tướng Nava. Đây là bước khởi đầu cuộc tiến công quy mô của Pháp, biến căn cứ không quân – bộ binh Điện Biên Phủ thành “tập đoàn cứ điểm bất khả xâm phạm”.

Điện Biên Phủ là thung lũng dài 18 km, rộng 6-8 km, xung quanh là đồi núi, rừng rậm. Các tướng Pháp nhận định vị trí cách xa đồng bằng sẽ gây khó khăn cho đường tiếp tế của Việt Minh, không thể vận chuyển lượng lớn vũ khí hạng nặng lên núi cao, hiểm trở. Trong khi quân viễn chinh Pháp dễ dàng tiếp ứng bằng đường hàng không từ sân bay lân cận như Mường Thanh, Hồng Cúm, hay từ xa như Gia Lâm, Cát Bi…

“Những điều kiện quân sự để chiến thắng đã hội đủ”, vị Tổng tư lệnh Đông Dương tự tin tuyên bố với binh lính khi tập đoàn cứ điểm vừa hình thành.

Bản đồ tập đoàn cứ điểm bất khả xâm phạm của Pháp

Căn cứ Điện Biên Phủ gồm ba phân khu (Trung tâm, Bắc, Nam) với 49 cứ điểm. Hệ thống này được tổ chức thành 8 cụm chính, gọi là trung tâm đề kháng. Tổng cộng 3.000 tấn dây thép gai đã được chuyển đến để tạo nên lớp hàng rào rộng 50-60 m vây quanh mỗi cứ điểm – gấp 3 tiêu chuẩn bình thường.

Phân khu trung tâm có sân bay Mường Thanh – “dạ dày” của tập đoàn cứ điểm, cũng là nơi đặt Sở Chỉ huy. Khu vực này tập trung 2/3 lực lượng địch, được chia thành 5 cụm cứ điểm: Claudine, Huguette, Anne Marie (Bản Kéo), Dominique và Eliane.

Cách 2-3 km về phía bắc và đông bắc là phân khu Bắc, có hai cụm cứ điểm Gabrielle (Độc Lập) và Béatrice (Him Lam) làm nhiệm vụ bảo vệ khu Trung tâm và mở rộng vùng an toàn trên sân bay.

Cách 7 km về phía nam là cụm cứ điểm Isabelle (Hồng Cúm) – nơi đặt sân bay dự bị. Địa bàn này được đặc biệt tổ chức thành căn cứ pháo binh chi viện cho việc phòng ngự của trận địa trung tâm.

Trước hành động của Pháp, tháng 12/1953, Bộ Chính trị quyết định chọn Điện Biên Phủ làm trận địa chiến lược trong Kế hoạch Đông Xuân 1953-1954. Chỉ huy trưởng chiến dịch là đại tướng Võ Nguyên Giáp.

Kế hoạch ban đầu, quân Việt Minh sẽ “đánh nhanh, thắng nhanh” trong 2 ngày 3 đêm, tận dụng thời cơ Pháp chưa hoàn thiện trận địa. Thế nhưng, phân tích tương quan lực lượng và năng lực của quân Việt Minh lúc đó, đại tướng Võ Nguyên Giáp đánh giá không thể chắc thắng – nhiệm vụ Chủ tịch Hồ Chí Minh giao trước ngày ra trận.

Cuộc họp Đảng ủy ngày 26/1/1954, tướng Giáp đưa ra “quyết định khó khăn nhất trong cuộc đời chỉ huy của mình”: Hoãn tấn công. Phương án tác chiến được đổi thành “đánh chắc, tiến chắc”. Bộ đội lui về địa điểm tập kết, kéo pháo ra, chuẩn bị lại theo cách đánh mới.

Tương quan lực lượng

“Chúng ta vẫn ở thế yếu đánh mạnh”, đại tướng Võ Nguyên Giáp đánh giá tương quan lực lượng trước cuộc tiến công.

Thông thường, lực lượng bộ binh phía tấn công phải gấp 5 lần phòng thủ, nhưng quân Việt Minh chưa đạt tỷ lệ này. Về pháo binh, quân đội Việt Nam hơn Pháp về số khẩu đội, song lượng đạn pháo dự trữ rất hạn chế. Chưa kể, Việt Minh hoàn toàn không có xe tăng và máy bay. Vũ khí bí mật trong trận này là pháo cao xạ 37 mm – do Trung Quốc và Liên Xô tài trợ – lần đầu tiên xuất hiện, nhưng chỉ có một trung đoàn đối phó với toàn bộ không quân của Pháp.

Với phương châm “đánh chắc, tiến chắc”, chiến thuật của quân Việt Minh là tấn công từ ngoài vào, bao vây, tiếp cận đối phương. Tướng Giáp vạch ra ba bước: đầu tiên, đưa pháo vào trận địa; sau đó, xây dựng hệ thống giao thông hào để dần bóp nghẹt quân viễn chinh Pháp, “chặt đứt” đường tiếp tế từ sân bay; cuối cùng, tổng công kích tiêu diệt đối phương.

Trong phương án tác chiến mới, trận địa chiến hào có tính quyết định. Một mặt, mạng lưới đường hào giúp hạn chế thương vong do hoả lực từ pháo binh và không quân của Pháp, một mặt là con đường tiếp cận các cứ điểm đối phương một cách hữu hiệu nhất. Đây vừa là chiến tuyến, vừa là lá chắn để quân Việt Minh ẩn nấp, phòng thủ.

Chiến dịch được chia làm 3 đợt tiến công, gồm: đợt 1, tấn công các cứ điểm phía Bắc, mở đường vào lòng quân Pháp; đợt 2, đánh vào trung tâm đầu não; đợt 3, tiêu diệt hoàn toàn “con nhím” Điện Biên Phủ.

13/3/1954 được chọn là ngày khai hoả.

Đúng lúc đó, 4 nước lớn Liên Xô, Mỹ, Anh và Pháp thống nhất tổ chức Hội nghị quốc tế ở Geneve bàn về lập lại hòa bình tại Đông Dương, dự kiến diễn ra cuối tháng 4/1954. Một trận thắng lớn sẽ là lợi thế trong cuộc đàm phán.

Pháp không muốn “tay trắng” ngồi vào bàn thương lượng. Còn với quân đội Việt Nam, đây là trận đánh “không được phép thua”.

Mục tiêu đầu tiên của Việt Minh là tiêu diệt cụm cứ điểm phía Bắc gồm Him Lam, Độc Lập, Bản Kéo, để phá vỡ phòng tuyến Pháp, mở hướng tấn công vào “con nhím” Điện Biên Phủ. Him Lam là đích nhắm đầu tiên.

Pháo đài Him Lam nằm trên ba quả đồi, do 750 lính Pháp phòng giữ. Ngoài “lưới lửa” gồm các loại súng hiện đại, chiến hào tại đây được đối phương xây dựng với cấu trúc hình vành khăn, nhiều tầng xen kẽ lô cốt. Vòng ngoài có 4-6 hàng rào dây thép gai, kết hợp bãi mìn rộng 100-200 m.

Để tiếp cận và phá vỡ vòng vây Pháp, công việc đầu tiên của quân Việt Minh là kiến trúc hệ thống công sự. Nhiệm vụ lúc đầu chỉ tiến hành ban đêm, làm tới đâu ngụy trang tới đó. Trời vừa tối, từ nơi trú quân, bộ đội tiến ra cánh đồng, trong tay cầm cuốc và xẻng, cật lực đào trận địa.

Có hai loại đường hào, đều sâu khoảng 1,7 m: hào trục dành cho cơ động pháo, vận chuyển thương binh, điều động lực lượng lớn – rộng 1,2 m; và hào bộ binh để tiếp cận đối phương – rộng 0,5 m.

Khi đường hào kéo dài hàng chục km ra cánh đồng, quân Việt Minh không cách nào che mắt đối phương. Pháp điên cuồng dùng pháo binh và không quân bắn phá suốt ngày đêm, đồng thời đưa quân ra trận địa ở gần để san lấp và gài mìn ngăn chặn bộ đội đào tiếp. Hai bên bắt đầu giằng co từng mét hào, mỗi tấc đất đều được trả bằng máu.

Cùng với lập trận địa chiến hào, hai nhiệm vụ trọng yếu là kéo pháo vào chiến trường và hậu cần tiếp tế. Sức người, sức của ở hậu phương được huy động tối đa, với tinh thần “Tất cả cho mặt trận”.

Hàng trăm km đường núi được tu sửa và mở mới chỉ với xẻng, cuốc và ít thuốc nổ. Tuyến đường Tuần Giáo – Điện Biên dài hơn 80 km vốn dành cho ngựa thồ, được mở rộng gấp rút trong 20 ngày cho xe kéo pháo vào vị trí tập kết. Suốt thời gian đó, máy bay Pháp không ngừng dội bom xuống các con đường, tưới đạn lên những đoàn dân công, nhưng không thể chặt đứt đường tiếp tế của Việt Minh.

Sau gần hai tháng chuẩn bị, đạn và gạo trong kho đã đủ cho đợt một. Pháo ở vị trí xung phong. Mũi hào đâm thẳng vào cứ điểm Pháp. Mọi thứ sẵn sàng cho trận quyết chiến.

17h5 ngày 13/3/1954, đại tướng Võ Nguyên Giáp nối máy gọi Đại đoàn Công pháo. Mệnh lệnh tấn công được đưa ra. 40 khẩu pháo đồng loạt nhả đạn.

Chiến dịch Điện Biên Phủ chính thức khai màn.

Đại đoàn 312 từ ba hướng tấn công vào Him Lam. Trung đoàn 141 là lực lượng chính, chia làm hai mũi tiến công từ hướng bắc (Tiểu đoàn 11) và trợ công hướng đông bắc (Tiểu đoàn 428). Còn Tiểu đoàn 130, Trung đoàn 209 tiến công từ hướng đông nam.

Nhìn vào hệ thống chiến hào, Pháp dự đoán trước hai cụm cứ điểm Him Lam và Độc Lập sẽ bị tấn công đầu tiên, nhưng vẫn bất ngờ trước hoả lực của Việt Minh. Thiếu tá Paul Pégot, Tiểu đoàn trưởng cụm cứ điểm Him Lam, tử trận do hầm chỉ huy trúng pháo.

Him Lam thất thủ chỉ sau 6 tiếng. Quân Việt Minh hoàn toàn làm chủ trận địa, mở cửa để đưa lực lượng áp sát phân khu Trung tâm tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. 300 lính viễn chinh Pháp bị tiêu diệt, 200 lính bị bắt.

Sau khi làm chủ cứ địa Him Lam, chiều 14/3, quân Việt Minh tiếp tục tấn công đồi Độc Lập. Trận địa được canh giữ bởi Tiểu đoàn 5, Trung đoàn 7 Algeria và một đại đội ngụy Thái. Ngoài hệ thống công sự mạnh, đồi Độc Lập còn được tăng cường đại đội cối 120 mm, chi viện bởi pháo binh ở Mường Thanh và Hồng Cúm.

Đúng 17h ngày 14/3, trọng pháo của Việt Minh bắn phá cứ điểm Độc Lập. Trung đoàn 165, Đại đoàn 312, băng qua hàng rào hoả lực dày đặc, tiến vào theo hướng đông nam. Cùng lúc, mũi xung kích của Trung đoàn 88, Đại đoàn 308, đánh vào từ hướng Đông Bắc.

Pháp dùng pháo binh và không quân đánh trả quyết liệt. Một tiểu đoàn bộ binh và 5 xe tăng từ Mường Thanh ra phản kích.

Là cứ điểm duy nhất còn lại ở phía bắc, Bản Kéo rơi vào thế cô lập. Nhận thấy có thể dùng đòn tâm lý, Trung đoàn 36, Đại đoàn 308, rải truyền đơn, gọi loa vận động lính Thái “trở về với tổ quốc”.
15h ngày 17/3, lính viễn chinh Pháp ra hàng. Việt Minh làm chủ 3 cụm cứ điểm Him Lam, Độc Lập, Bản Kéo.

Sau 5 ngày, quân đội Việt Nam thành công chiếm trung tâm đề kháng mạnh nhất là Him Lam và Độc Lập, bức hàng Bản Kéo. Việt Minh tiêu diệt hoàn toàn hai tiểu đoàn tinh nhuệ, làm tan rã một tiểu đoàn và ba đại đội nguỵ Thái, loại khỏi vòng chiến đấu 2.000 lính Pháp, bắn rơi 12 máy bay.

“Trước đây ta cho rằng có thể thắng trận Điện Biên Phủ, nhưng qua những ngày đầy tai hoạ, mọi cơ may để thành công đã không còn nữa”, Nava viết trong hồi ký Thời điểm của những sự thật.

Sau khi tiêu diệt 6 trên 49 cứ điểm của Pháp, quân Việt Minh đặt mục tiêu đợt hai là tiến vào phân khu Trung tâm, đánh chiếm các cao điểm phía đông và sân bay Mường Thanh. Từ đó, Việt Minh siết chặt vòng vây, hạn chế thấp nhất khả năng tiếp tế, tiếp viện cho tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Đây là giai đoạn dài nhất, ác liệt và mang tính quyết định.

Khu Trung tâm nằm trên dãy đồi phía đông cánh đồng Mường Thanh, có 5 cụm cứ điểm với 10.000 quân. Sau thất bại đợt đầu, tướng Nava vội vã tăng viện cho Điện Biên Phủ hai tiểu đoàn dù. Việc tổ chức phòng ngự cũng được củng cố lại. Trong diện tích khoảng 2,5 km2, quân đội Pháp đặt 12 khẩu pháo 105 mm, 4 khẩu 155 mm, 24 khẩu cối 120 mm và 81 mm, dự trữ khoảng 100.000 viên đạn.

Để chiến đấu với binh lực mạnh của Pháp, nhiệm vụ quan trọng trước mắt là phát triển trận địa bao vây, tấn công. Lần này, quy mô hệ thống đường hào được mở rộng hơn. Đường hào trục bao quanh toàn bộ trận địa của Pháp ở phân khu Trung tâm. Đường hào bộ binh chạy từ vị trí trú quân của các đơn vị trong rừng đổ ra cánh đồng, cắt ngang hào trục, tiến vào những mục tiêu ta định tiêu diệt.

“Thời gian đào hào cũng là thời gian chúng tôi chiến đấu. Khi quân Pháp ra lấp trận địa của ta, anh em lại đào lại, đồng thời bố trí quân đánh trả. Nhiều đồng đội của tôi đã hy sinh khi trên tay vẫn còn cầm cuốc, xẻng”, cựu binh Phạm Bá Miều, Trung đoàn 174, Đại đoàn 316, kể lại. Để bảo vệ trận địa, các đơn vị bộ binh cũng chuyển ra ở ngay những đường hào mới đào xong.

Hệ thống giao thông hào tiến công và bao vây của Việt Minh nhích dần, luồn qua dây thép gai, tạo thành những “vòng vây lửa”, từng bước siết chặt tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ.

Pháp nắm rõ tiến độ đào hào của Việt Minh thông qua những bức không ảnh được chụp hàng ngày, nhưng thất bại trong việc ngăn chặn.

Cuối tháng 3, 100 km đường hào của quân Việt Minh hình thành sau 10 ngày, các chiến hào bò đến chân cứ điểm của Pháp. Phân khu nam Hồng Cúm bị cắt hoàn toàn khỏi Trung tâm. Quân đội Việt Nam sẵn sàng cho đợt tấn công thứ hai vào tập đoàn cứ điểm “bất khả xâm phạm”.

17h, pháo binh khai hoả từ các hướng vào ngọn đồi phía đông, áp chế quân viễn chinh Pháp, dọn đường cho bộ binh tiến vào một giờ sau đó. Mục tiêu trước hết là các đồi C1, C2, A1, D1, E. Các đại đoàn chủ lực 312, 316, 308, 304 đồng loạt tiến công vào từ các hướng.

20h, quân Việt Minh chiếm thành công các đồi C1, D1, và E, mở đường tiến vào C2. Tuy nhiên, đối phương dùng hoả lực tiến công bít cửa mở, cắt đứt lực lượng của Việt Minh. Quân Việt Minh thất bại chiếm đồi C2, hai tiểu đội hy sinh. Tại đồi A1, quân Việt Minh và Pháp giằng co đến quá nửa đêm, mỗi bên chiếm nửa đồi.

Quân Việt Minh chiếm được 2/3 vị trí đồi A1. Pháp tăng cường lực lượng phản kích. Hai bên giằng co trên phần lớn trận địa. Đến đêm, quân đội Việt Nam tiếp tục tấn công và kéo dài đến hết ngày 4/4 nhưng không thể dứt điểm, phải ngừng chiến đấu. Từ phía tây bắc, mũi tiến công của Trung đoàn 36, Đại đoàn 308, đánh lấn tiêu diệt cứ điểm 106, tiến vào uy hiếp sân bay Mường Thanh.

Việt Minh làm chủ các cứ điểm E, D1, C1, 106 và 311, đưa trận địa tiến công và bao vây sâu hơn, nhưng chưa chiếm được A1, C2 ở phía Đông sông Nậm Rốm và cứ điểm 105 ở phía Bắc sân bay.
Đến ngày 8/4, quân Việt Nam đã tiêu diệt khoảng 5.000 lính viễn chinh Pháp. Do được tăng viện, tập đoàn cứ điểm vẫn duy trì khoảng 10.000 quân. Nhiệm vụ trước mắt là phải cắt đứt ngay sân bay Mường Thanh – “dạ dày” của chiến dịch.

Pháp được tăng viện thêm một tiểu đoàn dù từ Hà Nội, tiến hành phản kích vào cứ điểm C1. Quân Việt Minh duy trì chiến đấu nhằm giữ “bàn đạp” cho đợt tiến công cuối cùng. Trận đánh diễn ra trong 4 ngày đêm, bộ đội giữ nửa phía đông, đối phương chiếm nửa phía tây cứ điểm.

Chiến hào của Đại đoàn 312 và Đại đoàn 308 nối liền nhau ở giữa sân bay Mường Thanh, cắt đôi đường hạ – cất cánh. Mục tiêu là chiếm cứ điểm 105, tiến đến vô hiệu hoá sân bay. Để bảo vệ “dạ dày” chiến dịch, Pháp điều hai trung đội bộ binh và hai xe tăng, cùng một trung đội lê dương từ khu Trung tâm tiến ra, dưới sự yểm hộ của pháo binh, lấp các chiến hào.

Quân đội Việt Nam làm chủ trận địa tại sân bay Mường Thanh và cứ điểm 105, đánh lui nhiều đợt xung phong của đối phương. Pháp dùng hai tiểu đoàn bộ binh và 5 xe tăng, cố gắng đánh bật quân Việt Minh khỏi sân bay, nhưng thất bại.

Sân bay Mường Thanh hoàn toàn thuộc quyền kiểm soát của Việt Minh. Phạm vi chiếm đóng của quân Pháp thu hẹp còn 2 km2. Khu Trung tâm phòng ngự nằm trong tầm bắn của hỏa lực quân Việt Minh.

Sau gần một tháng chiến đấu, 2 trên 5 điểm cao quan trọng phía đông – D1 và E – nằm trong tay quân đội Việt Nam. Tuy đánh bại hơn 2.500 lính viễn chinh Pháp, lực lượng cũng bị tiêu hao, nhất là hai Trung đoàn 174, 102.
Mất sân bay, Pháp rơi vào tình thế thiếu thốn lương thực, đạn dược, thuốc men…

Sau hai đợt thua, Bộ chỉ huy chiến dịch của Pháp ra sức trấn an quân lính trên mặt trận. Nhận thấy Điện Biên Phủ sắp vào mùa mưa, tướng De Castries chủ trương duy trì thế giằng co đến giữa tháng 5, hy vọng thời tiết sẽ gây khó cho trận địa chiến hào và đường vận chuyển của quân Việt Minh. Khi đó, đối phương sẽ tăng máy bay bắn phá quanh căn cứ và chặn đường tiếp tế.

Trong khi đó, quân đội Việt Nam muốn nhanh chóng kết thúc trận chiến trước mùa mưa. Tướng Giáp đặt mục tiêu giải quyết “con nhím” Điện Biên Phủ trước ngày mở màn Hội nghị Geneve để giúp phái đoàn Việt Nam xuất hiện trong tư cách người chiến thắng. Đợt tấn công cuối là cuộc chạy đua về thời gian.

Nhiệm vụ đợt ba là tổng công kích, tiêu diệt toàn bộ quân viễn chinh Pháp ở Điện Biên Phủ. Lần này, đích đến của những đường hào là Sở Chỉ huy De Castries.

17h ngày 1/5/1954, tất cả các cỡ pháo của Việt Minh nhả đạn vào tập đoàn cứ điểm. Đợt tấn công thứ 3 bắt đầu.

Sau đợt pháo mở đường gần một giờ, các đơn vị đồng loạt tiến đánh nhiều vị trí. Trung đoàn 98, Đại đoàn 316, tiêu diệt gọn một đại đội thuộc Tiểu đoàn 1 dù lê dương, làm chủ toàn cứ điểm C1. Trung đoàn 209, Đại đoàn 312, tấn công hai cứ điểm 505 và 505A nằm dưới chân dãy đồi phía Đông, tả ngạn sông Nậm Rốm, tiêu diệt một đại đội Algeria, làm chủ trận địa.
Ở phân khu Nam, Trung đoàn 57, Đại đoàn 304, tiêu diệt một bộ phận lính Pháp ở đông bắc Hồng Cúm.

Ở phía tây, quân Việt Nam tiêu diệt thêm cứ điểm 311B, siết chặt vòng vây vào khu Trung tâm. Trận địa của Việt Minh chỉ còn cách Sở Chỉ huy Pháp 300 m.
Phía đông, sau 4 lần tấn công, quân Việt Minh vẫn chưa thể chiếm trọn đồi A1. Nhằm chia cắt thành lũy cuối cùng của Điện Biên Phủ, bộ đội đào hầm ngầm dẫn lên đỉnh đồi để đặt một khối chất nổ 1.000 kg.

20h30, quân Việt Nam kích nổ bộc phá hầm ngầm cứ điểm A1, thổi bay lô cốt bên trên, cuốn theo phần lớn Đại đội dù 2 của đối phương đóng tại đây. Trung đoàn 174, Đại đội 316 từ ba hướng đánh vào. Cùng lúc đó, các cứ điểm C2, 506 và 310F cũng lần lượt bị quân Việt Minh tấn công.

Quân Việt Nam chiếm hết các điểm cao quan trọng ở phía đông, mở đường tiến qua cầu Mường Thanh vào Sở Chỉ huy. Hoả lực của quân Việt Minh kiểm soát toàn trận địa, Pháp co hẹp phạm vi chiếm đóng mỗi chiều từ 1.000 đến 700 m. Bộ Chỉ huy Việt Minh ra lệnh chuyển sang tổng công kích, tiêu diệt toàn bộ tập đoàn cứ điểm.
16h, Trung đoàn 209, Đại đoàn 312, vượt qua cầu Mường Thanh, chọc thẳng vào Sở Chỉ huy và bắt sống tướng De Castries. Trong khi đó, Đại đoàn 304 tấn công phân khu Nam.
22h, quân Việt Minh bao vây và bắt 2.000 quân viễn chinh Pháp, chiến dịch Điện Biên Phủ toàn thắng.

Thiệt hại: Phía VN: tử trận 4.020… Phía Pháp: tử trận 1.500…

Tập đoàn cứ điểm kiên cố bị hạ gục, kế hoạch Nava chính thức phá sản khiến giới chức nước này choáng váng.

Hơn 10.000 lính viễn chinh Pháp bị bắt, trong đó, khoảng 1.000 thương binh nặng nằm chồng chất dưới các căn hầm bệnh viện suốt hai tháng trận đánh diễn ra. Khi tiếng súng kết thúc, quân y Việt Minh đưa họ lên mặt đất, cứu chữa và trao trả cho Pháp.

Một ngày sau khi Pháp bại trận, 8/5/1954, Hội nghị Geneve khai mạc. Tại đây, Pháp buộc phải công nhận quyền tự do, thống nhất, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của ba nước Việt Nam – Lào – Campuchia, chấm dứt ách thống trị kéo dài gần một thế kỷ.

Lần đầu tiên trong lịch sử, một nước thuộc địa với đội quân nhỏ bé, trang bị thô sơ đã đánh bại đế quốc thực dân hùng mạnh.

Quân đội Nhân dân Việt Nam ăn mừng trên nóc hầm tướng De Castries khi chiến dịch Điện Biên Phủ toàn thắng, chiều 7/5/1954. Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam

Nội dung: Mây Trinh – Phùng Tiên

Đồ họa: Khánh Hoàng – Thanh Hạ

Bài viết sử dụng tư liệu từ:

– Điện Biên Phủ – Điểm hẹn lịch sử (Hồi ức đại tướng Võ Nguyên Giáp)

– Võ Nguyên Giáp – Danh tướng thời đại Hồ Chí Minh

– Thời điểm của những sự thật (Hồi ký của Henri Navarre)

– The Battles of Dien Bien Phu (Jules Roy)

– The road to Dien Bien Phu (Christopher Goscha)

– Hell in a very small place; the siege of Dien Bien Phu (Bernard B.Fall)

– The Last Valley: Dien Bien Phu and the French Defeat in Vietnam (Martin Windrow)

Về ảnh trong bài:

– Ảnh các chỉ huy của Pháp và Việt Nam: Cổng thông tin điện tử Bộ Quốc phòng (Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Hoàng Văn Thái); Tư liệu gia đình cung cấp (Thiếu tướng Đặng Kim Giang và Chủ nhiệm Chính trị Lê Liêm); Trung tâm Lưu trữ Quốc gia I (Henri Navarre); Các cơ quan truyền thông của Pháp (sĩ quan Jean Pouget và tác giả Jules Roy)

– Ảnh vũ khí và máy bay quân sự được tổng hợp từ các nguồn: Bảo tàng Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, Bảo tàng lịch sử quân sự Việt Nam, và các trang thông tin quân sự của Pháp, Mỹ

– Diễn biến trận đánh trong bài được phác thảo dựa trên bản đồ trong sách Traitez à tout (Jean Julien Fonde); Điện Biên Phủ – Điểm hẹn lịch sử (Võ Nguyên Giáp); và Điện Biên Phủ – Trận thắng thế kỷ (nhiều tác giả).

***

Nghệ thuật bố trí trận địa trong chiến dịch Điện Biên Phủ

VNE– Xây dựng trận địa bao vây tiến công được đại tướng Võ Nguyên Giáp đánh giá “mang tính quyết định” dẫn tới thành công của chiến dịch Điện Biên Phủ.

“Ta sẽ làm gì để giành thắng lợi trên mặt trận chính Điện Biên Phủ?”, trước tấm bản đồ trải rộng, Tổng chỉ huy chiến dịch Võ Nguyên Giáp đau đáu với câu hỏi trong Hội nghị cán bộ phổ biến phương châm “đánh chắc tiến chắc” sáng 7/2/1954 tại Sở chỉ huy Mường Phăng. Bộ đội đã hoàn thành kéo pháo ra khỏi trận địa hai ngày trước, đang chờ những mệnh lệnh mới.

Tập đoàn cứ điểm nằm trong lòng chảo Mường Thanh, bao quanh là núi cao trên nghìn mét. 49 cứ điểm nằm liên hoàn trên cánh đồng dài hơn 10 km, rộng 5 km. Các cứ điểm gần nhau hợp thành trung tâm đề kháng, chia ba phân khu. Phân khu trung tâm là đầu não, có Sở chỉ huy quân Pháp, bộ phận hỗ trợ cùng sân bay Mường Thanh, tập trung tới 2/3 quân số.

Về tương quan lực lượng, bộ binh, pháo binh của Việt Minh hơn quân Pháp về số lượng, song trang bị lẫn hỏa lực đều không bằng. Việt Minh không có xe tăng, chưa có không quân, chỉ có một trung đoàn cao xạ trong khi đối phương huy động hai phần ba máy bay trên toàn Đông Dương về Điện Biên Phủ.

Pháo 155 mm của Pháp bố trí tại trung tâm Mường Thanh, tầm bắn 14 km.

Không thể đặt pháo ngoài lòng chảo Mường Thanh

Trên tấm bản đồ trải rộng, tướng Giáp đặc biệt chú ý hai căn cứ hỏa lực pháo binh dày đặc tại phân khu trung tâm Mường Thanh và Hồng Cúm ở phân khu Nam. Riêng khu trung tâm rộng 2,5 km2 đã có 40 khẩu trọng pháo từ 155 mm, 105 mm tới cối 120 mm cùng đạn dược dự trữ đồ sộ.

Với tầm bắn 14 km, hỏa lực từ lựu pháo 155 mm đặt ở Mường Thanh có thể dồn về mọi hướng, yểm trợ cho các cứ điểm nếu bị tấn công. Lựu pháo 105 mm từ phía nam Hồng Cúm, cối 120 mm từ Mường Thanh có thể nã đạn tới tận đồi Độc Lập ở phía bắc. Mỗi trung tâm đề kháng còn có hệ thống hỏa lực riêng, chiến đấu độc lập.

Với chiến thuật khẩu đội tập trung, pháo binh Pháp tự tin có thể trút lửa lên bất kỳ vị trí nào trong đội hình đối thủ. Trấn giữ các căn cứ này là những đơn vị pháo binh có tiếng, thậm chí kỳ cựu nhất của Pháp ở châu Á.

Phó chỉ huy tập đoàn cứ điểm kiêm đặc trách pháo binh là Charles Piroth, người mất cánh tay trái trong trận đánh tại Italy năm 1943 nhưng vẫn được giữ lại quân đội vì kinh nghiệm và chuyên môn giỏi. “…Việt Minh không thể nào đưa pháo đến tận đây. Nếu họ đến, chúng tôi sẽ đè bẹp ngay”, Piroth tự tin nói với Tổng chỉ huy quân đội viễn chinh ở Đông Dương Henri Navarre.

Các chỉ huy quân đội nhân dân Việt Nam đã nhận ra rằng những ngọn núi lớn khống chế được sân bay Mường Thanh đều cách xa 10-12 km. Trong khi lựu pháo 105 mm của bộ đội tầm bắn tối đa 11 km, sơn pháo tầm bắn xa nhất 8 km. Đặt pháo ngoài lòng chảo, mục tiêu cũng ngoài tầm tiêu diệt hiệu quả.

Pháo vì thế bắt buộc phải đặt phía trong những sườn núi nhìn xuống thung lũng Mường Thanh. Nhưng không thể tiếp tục cắt rời pháo khỏi xe, kéo những khối sắt nặng hai tấn lên núi bằng tay, phơi mình trên địa hình trống trải để đánh trận trong 45 ngày như dự tính.

Lựu pháo 105 mm do Mỹ sản xuất và viện trợ cho Pháp – chiến lợi phẩm thu được trong chiến dịch Biên giới 1950, là một trong bốn khẩu pháo khai hỏa chiến dịch Điện Biên Phủ, chiều 13/3/1954. Ảnh: Hồng Chiêu

24 khẩu lựu pháo 105 mm, vài chục sơn pháo 75 mm cùng cao xạ 37 mm – những vốn liếng chỉ đếm đầu ngón tay của bộ đội Việt Minh. Nếu để pháo của quân Pháp dồn hỏa lực diệt chút vốn ít ỏi này, kháng chiến sẽ kéo dài không biết bao năm. Nếu không có giải pháp, pháo binh sẽ “bị đè bẹp ngay” như lời Piroth cam kết với Navarre.

Phải có đường cho xe kéo pháo vào trận địa. Và trận địa này phải đủ sức chịu những đợt oanh kích của máy bay, pháo binh Pháp nếu không may bị lộ. “Chọn đánh chắc thay vì một cuộc tiến công toàn bộ tập đoàn cứ điểm, ta phải xây dựng trận địa bao vây, cắt đứt cứ điểm, đưa pháo vào vị trí an toàn, đặt cứ điểm trong tầm bắn, khống chế sân bay rồi mới thực hiện hàng loạt trận công kiên”, tướng Giáp chỉ rõ.

Ba bước chiến dịch được Hội nghị thống nhất là hoàn thành công tác chuẩn bị, tiêu diệt dần trung tâm đề kháng ngoại vi và cuối cùng tổng công kích diệt toàn bộ tập đoàn cứ điểm. Ba trong năm việc cần làm ngay mà Đảng ủy Mặt trận đề ra là làm đường cho xe pháo 105 mm cơ động chiến đấu, xây dựng trận địa pháo kiên cố và đào trận địa tiến công bao vây.

Trục đường kéo pháo bằng tay và đường cơ động cho xe pháo trong chiến dịch. Đồ hoạ: Gia Linh

Đưa pháo lên cao vào gần, hào di động dưới đất

Tham mưu trưởng chiến dịch Hoàng Văn Thái cùng cán bộ tham mưu, công binh, pháo binh đã đi dọc các dãy núi Pú Hồng Mèo, Pú Tà Cọ vạch đường cho xe pháo cơ động và tìm vị trí đặt trận địa cho các đại đội lựu pháo 105 mm.

Đội tiền trạm chỉ có ống nhòm, la bàn và một tấm bản đồ tỷ lệ 1/100.000 thiếu nhiều chi tiết mới về Điện Biên Phủ. Đội vừa quan sát địa hình, ước tính độ dốc, đánh dấu thêm những ngọn núi, con suối không có trên bản đồ.

Đội khảo sát chọn được một trận địa ở bắc đồi Độc Lập; hai trận địa ở gần đường 42 (ngang km 69-70); hai trận địa trên đỉnh Tà Lùng, tức phía đông Điện Biên Phủ và một trận địa Pú Hồng Mèo ở bên tây bắc Hồng Cúm. Lấy nóc hầm De Castries – Chỉ huy trưởng Binh đoàn tác chiến Tây Bắc, làm điểm chuẩn, cự ly từ các trận địa pháo này đến phân khu trung tâm Mường Thanh trung bình 6-8 km, trong tầm công phá hiệu quả nhất của những khẩu lựu 105 mm.

Sáu trận địa lựu pháo 105 mm nằm phân tán trên các điểm cao tạo thành một vòng cung ôm lấy lòng chảo Mường Thanh. Nằm phân tán nhưng đích ngắm của họng pháo là các mục tiêu trong tập đoàn cứ điểm, chủ yếu sân bay, sở chỉ huy, hỏa điểm, trận địa pháo của quân Pháp.

Các nét vẽ tương đương những trục đường cơ động cho xe kéo pháo vào mặt trận, di chuyển trong chiến đấu lần lượt vạch ra trên bản đồ, vắt qua núi đồi từ đông sang phía bắc Mường Thanh. Đường đủ rộng cho xe pháo đi và tuyệt đối bí mật bởi đều nằm trong tầm bắn của pháo Pháp.

Đại đoàn trưởng 312 Lê Trọng Tấn dẫn quân, nhận cọc dấu, bổ những nhát cuốc đầu tiên xuống đất rừng. Trừ Đại đoàn 308 đang truy kích địch bên Thượng Lào, phần lớn quân chủ lực của các đại đoàn, trung đoàn công binh, pháo binh đều được huy động làm đường xe pháo, đào trận địa.

Bộ đội đưa pháo vào trận địa, tháng 1/1954.

Tây Bắc núi cao đèo thẳm thử thách sức người chỉ có xẻng đào, cuốc chim. Công binh phải làm những cây cầu vượt suối chịu được lực 10 tấn cho xe pháo qua khi mùa mưa đang đến gần. Nhiều đoạn đường sắp xong đụng núi đá chắn ngang; chỗ ngoặt phải mở rộng 12 m nhưng mới tính được 6 m, thành vực đã cao 20 m.

Thiết lập trận địa pháo cao xạ càng khó khi địa hình chỉ đáp ứng được một trong tám điều kiện phải có, là “Không gần đường dây cao thế quốc gia” theo lý thuyết được học ở trường quân sự.

Pháo binh khoét núi dựng hầm pháo có công sự bắn và nơi ẩn nấp riêng. Mỗi hầm pháo đào trung bình 200-300 m3 đất đá. Nắp hầm dày 3 m được gia cố bằng thân cây trên 30 cm, bó trúc, đất, được ngụy trang và đủ sức chịu được đạn pháo 105 mm. Trận địa pháo nối với tuyến sau bằng đường hào, nơi có đủ hầm ăn ở, chỗ cho thương binh, nấu ăn, giấu xe chở pháo. Bộ đội dựng thêm hầm chỉ huy, hầm chứa đạn cùng trận địa giả để nghi binh.

Trong đêm đen, bộ đội thông tin lăn lộn đèo dốc, sương mù, tránh bom đạn để đo lập tọa độ mục tiêu, nối mạng dây thông tin dài hơn 60 km cho riêng trung đoàn lựu pháo, đảm bảo cho những viên đạn bắn trúng đích. Các trận địa nằm xa nhau, trong khi chỉ có 100 km dây điện thoại. Các chiến sĩ phải quay về Tuần Giáo, bóc được 60 km dây kẽm gai thay thế.

Trên sườn núi bao quanh lòng chảo Mường Thanh những ngày tháng 2/1954 như một đại công trường, khẩn trương và bí mật. Công binh vừa làm đường kéo pháo vừa đào hào bao vây tiến dần xuống cánh đồng Mường Thanh. Những chiếc trực thăng Morane 500 bay là là mỏm núi chụp ảnh trinh sát vẫn không phát hiện được trận địa dưới tán cây rừng.

Rừng che chở và lá nguỵ trang, các trục đường cho xe pháo vào trận địa dần thành hình. Cùng lúc, đường hào vây lấn như cây rừng đâm rễ đổ dần từ triền núi xuống lòng chảo, mọc những nhánh mới lan rộng về phía khu cứ điểm trên cánh đồng Mường Thanh.

Phía trước, các đơn vị bộ đội liên tục đánh lùi những đợt hành binh trinh sát của đối phương. Quân Pháp đã nhận ra pháo Việt Minh không đặt ở sườn núi sau lòng chảo Mường Thanh như dự đoán mà “nằm một cách thách thức” ngay sườn núi đối diện Điện Biên Phủ, sẵn sàng bắn thẳng.

Đường hào siết chặt vòng vây tập đoàn cứ điểm trên cánh đồng Mường Thanh.

‘Mở cửa’ pháo đài

Cuối tháng 2, đường cơ động cho xe pháo hoàn thành, 11 trận địa lựu pháo, 21 trận địa pháo cao xạ sẵn sàng đón pháo vào vị trí. Chiến hào bao vây tiến công thành hình.

Đêm 6/3/1954, bộ đội kéo thử hai khẩu pháo vào vị trí. Đêm hôm sau, công binh thắp hai nén hương đi trước dẫn đường, chỉ dấu cho xe pháo nương theo đốm lửa vào trận địa. Lựu pháo 105 mm cùng loạt cao xạ lần lượt nằm im trên những sườn núi cách cứ điểm Him Lam 3-4 km chờ khai hỏa. Tại một số đoạn đường gấp khúc, bộ đội vẫn phải kéo pháo bằng tay.

Ngày 13/3/1954, chỉ chín ngày sau khi Tổng chỉ huy quân viễn chinh Pháp ở Đông Dương thăm tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ lần cuối cùng, những viên đạn pháo 105 mm từ các sườn núi quanh lòng chảo Mường Thanh bắt đầu dội xuống Him Lam.

Trung tâm đề kháng Him Lam nằm phía đông bắc tập đoàn cứ điểm trên đường số 41 từ Tuần Giáo vào. Cách trung tâm Mường Thanh 2,5 km, quân Pháp nhận định Him Lam sẽ là hướng tiến công chính của Việt Minh nên đã bố trí trọng pháo 155 mm, 105 mm tận Mường Thanh và Hồng Cúm yểm hộ, xe tăng, không quân sẵn sàng phản kích nếu bị đánh chiếm.

Đội quân của tướng Giáp đã chọn Him Lam là mục tiêu khai hỏa chiến dịch 56 ngày đêm, mở đường cho bộ đội thọc sâu xuống cánh đồng Mường Thanh hạ bệ tập đoàn cứ điểm. Trong trận mở màn này, lựu pháo 105 mm quân Việt Minh đặt trên các sườn núi hướng đông và bắc đồng loạt nã xuống cứ điểm Him Lam.

Một trong bốn khẩu đầu tiên nhả đạn là chiến lợi phẩm Việt Minh thu được trong chiến dịch Biên giới 1950, do Mỹ sản xuất và viện trợ cho Pháp. Lựu pháo bắn cấp tập vào trung tâm Mường Thanh và Hồng Cúm – hai căn cứ pháo binh của Pháp, để sơn pháo 75 mm bắn phá công sự, diệt hỏa điểm. Pháo ngừng, từ các đường hào đào sẵn quanh trung tâm đề kháng, bộ binh xung phong. Một phần pháo Việt Minh chuyển làn đánh phá các sân bay Mường Thanh, Hồng Cúm chặn máy bay cất cánh.

Ngay khi quân Việt Minh nã pháo, Charles Piroth – đặc trách pháo binh Pháp, đã dội 6.000 viên đạn đại bác quanh trung tâm đề kháng Him Lam, nhưng không tìm thấy họng pháo nào của đối phương. Him Lam mất liên lạc với trung tâm Mường Thanh ngay đầu trận đánh khi một viên đạn pháo 105 mm rót trúng hầm chỉ huy cứ điểm. Cứ điểm thất thủ ngay trong đêm.

Cho đến lúc này, quân Pháp chưa thật sự tin vào sự có mặt của lựu pháo 105 mm trên chiến trường Tây Bắc. Làm thế nào mà Việt Minh đưa được những khẩu pháo nặng hai tấn, tầm bắn xa 11 km vào được trong lòng chảo, qua mặt những chiếc máy bay Morane trinh sát trên đầu? Piroth từng cam kết với Navarre “chỉ cần sau ba phát pháo của Việt Minh, hỏa điểm sẽ lập tức bị dập tắt”.

Chỉ hai ngày sau chiến dịch mở màn, viên sĩ quan tự sát trong hầm bằng một trái lựu đạn khi lần lượt để mất hai trung tâm đề kháng Him Lam, Độc Lập ở phân khu Bắc mà không cách nào bịt họng pháo đối phương. Tới ngày thứ năm, cánh cửa hướng bắc tập đoàn cứ điểm đã bị mở toang.

Theo các nhà nghiên cứu quân sự, trận địa “hỏa khí phân tán, hỏa lực tập trung” của pháo binh Việt Nam đã làm vô hiệu hóa “khẩu đội tập trung” của pháo binh Pháp. Thiếu tướng Nguyễn Hồng Phong, Tư lệnh Binh chủng Pháo binh, dẫn chứng Trung đoàn 45 lựu pháo được bố trí từ đông bắc Hồng Cúm đến tây bắc Bản Kéo tạo thành cánh cung hơn 30 km, giãn cách các trận địa 3-5 km, cự ly bắn đến Mường Thanh 6-8 km. Các đơn vị súng cối tập trung trên hướng đông và đông bắc Điện Biên Phủ với cự ly bắn 600-800 m. Sơn pháo thọc sâu trên đồi E, cự ly bắn 300-500 m.

“Trong thực hành chiến dịch, pháo binh được điều chỉnh đội hình, thay đổi vị trí để chuyển hóa thế trận, hiệu quả trong cả chiến đấu lẫn chi viện cho bộ binh”, tướng Phong nêu, dẫn chứng sau trận tiến công Him Lam, sơn pháo và cối 120 mm được đưa sang chi viện cho bộ binh đánh đồi Độc Lập. Lựu pháo được cơ động sang tây Mường Thanh chi viện Đại đoàn 308 đánh cứ điểm, bắn được sang cả phía đông ngăn chặn phản kích.

Ông thống kê mức độ tập trung pháo trong chiến dịch này đạt toàn bộ lựu pháo 105 mm, hơn 70% sơn pháo 75 mm và tới 80% cối 120 mm của toàn quân. Tỷ lệ pháo binh một số trận vượt trội so với Pháp, đạt 3/1 trong trận Him Lam, 4,5/1 trận đồi Độc Lập.

https://video.vnexpress.net/embed/v_397498

Di tích trận địa pháo 105 mm của Đại đội 806, Tiểu đoàn 354, Trung đoàn 45 thuộc Đại đoàn Công pháo 351 – đơn vị đầu tiên pháo kích cứ điểm Him Lam, tại xã Thanh Minh, TP Điện Biên Phủ. Video: Ngọc Thành – Hồng Chiêu

Cùng với trận địa pháo, hệ thống chiến hào dài hơn trăm cây số giúp bộ đội công – thủ từng bước làm thay đổi cục diện chiến trường theo các đợt tiến công, đại tá Phạm Hữu Thắng, nguyên chủ nhiệm bộ môn Lịch sử nghệ thuật quân sự, Viện Lịch sử quân sự, nhận định.

Ông Thắng phân tích trước ngày nổ súng, hệ thống hào trục quanh cánh đồng Mường Thanh cùng đường hào nhánh giúp bộ đội tiếp cận trung tâm đề kháng ở phía Bắc. Khi cánh cửa được mở thông xuống vùng lòng chảo, chiến hào từ mọi hướng tiếp cận dần trung tâm đề kháng, cắt đứt các cứ điểm với trung tâm trong đợt đánh thứ hai. Đến cuối tháng 4, hệ thống chiến hào siết chặt khiến phạm vi chiếm đóng quân Pháp mỗi bề chỉ còn 1,3-1,7 km, “bóp nghẹt” không gian lẫn tinh thần chiến đấu của lính Pháp trước đợt công kiên cuối cùng.

Nếu mật độ dày đặc của 2.000 viên đạn pháo mở màn bắn trúng mục tiêu trong trận Him Lam đã tạo bất ngờ cho cả Điện Biên Phủ, thì theo tướng Giáp, bất ngờ lớn nhất dành cho Piroth – chỉ huy pháo binh, là “đã không phát hiện được bất kỳ vị trí nào của những khẩu pháo đang nhả đạn”.

Phương Tây kinh ngạc không phải ở chỗ Việt Minh có các loại pháo đó, bởi Bộ chỉ huy Pháp đã biết từ một năm trước, mà ở chỗ làm sao Việt Minh lại đưa được khối lượng lớn pháo hạng nặng, tiếp tế đạn dược qua vùng núi cao, rừng rậm, không có đường sá gì.

Hồng Chiêu

Tư liệu tham khảo: Đại tướng Võ Nguyên Giáp: Điện Biên Phủ – Điểm hẹn lịch sử, Hồi ức do Hữu Mai thể hiện; Lịch sử Pháo binh QĐND Việt Nam 1945-1975; Ảnh, tư liệu tại Bảo tàng chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ.

***

Thứ bảy, 4/5/2024, 00:00 (GMT+7)
 
Vì sao ‘đội quân chân đất’ đánh bại Pháp ở Điện Biên Phủ?
 

Chiến thắng Điện Biên Phủ bắt nguồn từ sức mạnh nội sinh của một dân tộc đã đồng cam cộng khổ, vừa chiến đấu vừa xây dựng lực lượng, theo đại tá Lê Thanh Bài.

Kỷ niệm 70 năm chiến thắng Điện Biên Phủ (7/5/1954), đại tá, tiến sĩ Lê Thanh Bài, Phó viện trưởng Viện Lịch sử quân sự, trả lời VnExpress về chiến lược giúp Việt Nam giành thắng lợi, ý nghĩa và bài học từ chiến dịch này.

– Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, Pháp vượt trội quân đội nhân dân Việt Nam cả về binh lực và hỏa lực. Việt Nam khắc chế điều này bằng chiến lược nào?

– Nguyên tắc của quân đội thực dân xâm lược luôn là đánh nhanh thắng nhanh. Chiến tranh kéo dài gây hao tổn kinh tế và bất ổn chính trị, ngoại giao. Vấp phải sự kháng cự của dân tộc Việt Nam, thực dân Pháp đã không thực hiện được nguyên tắc này mà càng lún sâu vào thất bại. Kế hoạch của Henri Navarre, Tổng chỉ huy quân đội viễn chinh ở Đông Dương, là nỗ lực cuối cùng của Pháp hòng rút ra khỏi chiến tranh trong danh dự. Phòng thủ không phải lựa chọn ban đầu, song cục diện trên chiến trường khiến suy tính của ông ta phải thay đổi.

Từ năm 1950, bộ đội ta liên tục giành thắng lợi lớn, như chiến dịch Biên giới; chiến dịch Hòa Bình 1951-1952. Chúng ta cơ bản giải phóng được vùng Tây Bắc, nối được căn cứ địa kháng chiến Việt Bắc sang Thượng Lào và Liên khu 4. Chúng ta đẩy mạnh chiến tranh du kích ở đồng bằng Bắc Bộ và các địa phương vùng Pháp chiếm.

Đại tá Lê Thanh Bài, Phó viện trưởng Viện Lịch sử quân sự. Ảnh: Sơn Hà

Biết Navarre muốn bình định vùng đã chiếm sau đó tập trung lực lượng để tiến công ta, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đề ra chủ trương “cơ động, linh hoạt”. Đó là thế trận chiến tranh nhân dân, chủ động mở đòn tiến công, buộc Pháp phân tán lực lượng, dẫn đến kế hoạch Navarre bước đầu phá sản.

Nhận tin báo Đại đoàn 316 tiến lên Tây Bắc, Navarre vội vàng lệnh cho 6 tiểu đoàn tinh nhuệ nhảy dù xuống đánh chiếm Điện Biên Phủ. Như vậy từ không có trong kế hoạch của Navarre, Điện Biên Phủ lại trở thành tâm điểm của cuộc chiến. Cùng với đó ông ta nhận ra mình không thể chống đỡ tất cả đòn tấn công của quân đội nhân dân Việt Nam và buộc phải xây dựng Điện Biên Phủ thành tập đoàn cứ điểm, hy vọng thành cái bẫy để nghiền nát bộ đội Việt Minh.

Chứng kiến Pháp xây dựng tập đoàn cứ điểm tại Điện Biên Phủ, đại tướng Võ Nguyên Giáp nói đây là nghịch lý của chiến tranh. Thông thường, kẻ mạnh tấn công, kẻ yếu phòng ngự. Nhưng ở đây Pháp là bên mạnh nhưng lại chọn phòng ngự, trong khi quân Việt Minh yếu lại tấn công.

– Các tướng lĩnh, cố vấn quân sự của Pháp và Mỹ đều tin tưởng Điện Biên Phủ là “pháo đài bất khả xâm phạm”. Dựa vào đâu để Việt Nam phá vỡ phòng tuyến của đối phương?

 

– Công trình phòng ngự của Pháp tại Điện Biên Phủ được tổ chức theo nguyên tắc hiện đại nhất. Navarre tin rằng pháo binh Việt Nam không thể đưa pháo 75 mm lên đỉnh núi cao quanh lòng chảo Điện Biên Phủ để có vị trí khai hỏa. Chúng ta sẽ nhanh chóng cạn kiệt vũ khí, đạn dược và lương thực khi bị chặt đứt đường tiếp tế. Chuyên gia quân sự phương Tây tính toán tướng Giáp cần thêm 100 xe tăng và một đội máy bay yểm hộ để đánh Điện Biên Phủ. Nhưng đó là điều không tưởng nên họ cho rằng tiến công đồng nghĩa với tự sát.

Tuy nhiên, người Pháp đã không tính đến yếu tố quan trọng nhất là con người. Họ không thể tưởng tượng chỉ bằng sức người, cùng tời quay, chúng ta đã đưa cả pháo 105 mm vượt qua những quãng đường lầy lội, đèo dốc tới 60 độ. Chỉ bằng đôi vai trần, những cuộn dây thừng, các chiến sĩ đưa được những khẩu pháo nặng hàng tấn nhích từng mét. Nhiều người đã ngã xuống trong khi kéo pháo. Chỉ có lòng yêu nước, chủ nghĩa anh hùng cách mạng, ý chí chiến đấu vì độc lập tự do mới tạo nên sức mạnh “chân đồng vai sắt” để hoàn thành nhiệm vụ.

Tư duy quân sự của Navarre, nói rộng ra là phương Tây, đã không tính được sức mạnh của chiến tranh nhân dân. Cuộc chiến có sức mạnh của toàn dân, sức mạnh nằm ở tinh thần và ý chí. Trong khi các nhà quân sự phương Tây tính toán dựa đơn thuần trên quân số và súng đạn. Navarre là tướng tài, được đào tạo bài bản. Nhưng không có một trường lớp hay một tài liệu quân sự nào khái quát được đường lối “chiến tranh nhân dân” và những vận dụng sáng tạo của quân đội ta.


 
 
 

 Nhìn lại chiến dịch 70 năm trước, theo ông điều gì khiến Pháp bất ngờ nhất?

– Bất ngờ nhất với Pháp là vấn đề bảo đảm hậu cần cho chiến dịch. Họ không ngờ cùng với các đơn vị tiến quân lên Điện Biên Phủ, chúng ta huy động được hàng chục nghìn thanh niên xung phong, phối hợp với công binh mở hàng trăm km đường. 261.500 dân công với gần 20 triệu ngày công phục vụ chiến dịch, vận chuyển hơn 25.000 tấn gạo, 1.200 tấn đạn, 1.700 tấn xăng dầu. Số hàng hóa bảo đảm cho hơn 87.000 người tham gia chiến dịch, trong đó 53.830 là bộ đội chủ lực.

Bộ chỉ huy quân Pháp nghĩ đã làm chủ hoàn toàn trên không lẫn mặt đất khi áp đảo về số lượng máy bay, xe tăng, pháo binh. Nhưng chỉ bằng công cụ thô sơ, bộ đội Việt Nam lại tiến sâu, đánh họ từ trong lòng đất. Hệ thống giao thông hào dài trăm km, dần tiến dần vào lòng chảo, đã chia cắt sự liên hoàn các cứ điểm ở Điện Biên Phủ và trở thành “thòng lọng” thít chặt. Cách đánh này đã hạn chế được ưu thế về mặt quân sự của đối phương, bảo đảm đánh lâu dài, tiến chắc, đánh chắc.

Và cuối cùng là cách bố trí trận địa pháo một cách khoa học và bài bản. Như đã nói ở trên, người Pháp không tính đến việc chúng ta có thể kéo pháo lên chiếm lĩnh điểm cao thuận lợi. Việc kéo pháo không chỉ diễn ra một mà nhiều lần, bố trí lại trận địa để làm sao hiệu quả nhất. Không có máy bay và xe tăng, song hiệp đồng binh chủng giữa bộ binh và pháo binh của ta vô cùng hiệu quả.

Charles Piroth, Chỉ huy pháo binh của Pháp ở trận Điện Biên Phủ, từng tuyên bố “tôi sẽ không để pháo của Việt Minh bắn quá ba phát”. Chỉ cần pháo của ta lộ vị trí là bị tiêu diệt. Thực tế chiến trường lại chứng minh điều ngược lại. Pháo binh Việt Nam bắn với tỷ lệ chính xác rất cao, liên tục hạ các mục tiêu trọng yếu của Pháp. Kết cục viên chỉ huy đầy kinh nghiệm phải tự vẫn.

– Chiến thắng Điện Biên Phủ có ý nghĩa thế nào trong chặng đường giành độc lập của Việt Nam cũng như các nước thuộc địa trên thế giới?

– Đây là thắng lợi to lớn nhất để kết thúc kháng chiến chống thực dân Pháp, đánh dấu chấm hết 100 năm đô hộ của họ với nước ta. Sự kiện này cũng là bước dài trên chặng đường đi đến thống nhất nước nhà. Thắng lợi đó thể hiện được sức mạnh của dân tộc Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh, huy động được sức mạnh của toàn dân tộc, tiến hành cuộc kháng chiến được gọi là “thần thánh”.

Với phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới, chiến dịch Điện Biên Phủ là đột phá, đánh dấu lần đầu tiên một dân tộc thuộc địa đánh bại đế quốc xâm lược. Điều đó đã khích lệ phong trào giải phóng dân tộc trên toàn thế giới phát triển mạnh, đặc biệt ở châu Phi. Sự kiện này như phát súng để 17 nước châu Phi đồng loạt đứng lên giành độc lập. Thắng lợi ở Điện Biên Phủ chứng tỏ tính chính nghĩa và tinh thần đấu tranh vì độc lập tự do luôn giành thắng lợi.

Đội quân xe đạp thồ đã góp phần làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ. Ảnh tư liệu

– Từ chiến thắng Điện Biên Phủ, bài học nào vẫn còn giá trị trong thời đại ngày nay?

– Chiến thắng Điện Biên Phủ được tạo nên một phần nhờ niềm tin mạnh mẽ kháng chiến nhất định thắng lợi trong toàn quân, toàn dân. Việc giáo dục chính trị trước và trong huấn luyện đã khắc sâu vào ý thức hệ về lòng căm thù quân địch. Người lính được trui rèn về bản lĩnh, trí tuệ, tin tưởng tuyệt đối vào đường lối, quyết sách của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Bộ Chính trị và trực tiếp là Tổng tư lệnh, đại tướng Võ Nguyên Giáp. Đây chính là minh chứng quý giá về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, đặc biệt là trong hàng ngũ quân đội.

Việc kiên quyết thay đổi phương châm tác chiến từ “đánh nhanh, giải quyết nhanh” sang “đánh chắc, tiến chắc” thể hiện sự sắc sảo, nhạy bén của đại tướng Võ Nguyên Giáp. Quyết định dựa trên cơ sở khoa học, xem xét khách quan, toàn diện cục diện chiến trường, đồng thời thể hiện ý chí quyết tâm, trách nhiệm cao trước lịch sử, trước sinh mệnh cán bộ, chiến sĩ của người chỉ huy.

Để đi được đến trận Điện Biên Phủ, dân tộc ta đã trải qua hơn 8 năm kháng chiến, đi từ không đến có. Từ đội quân chân đất mà Chủ tịch Hồ Chí Minh nói là “Quân đội ta là một quân đội thơ ấu. Tinh thần dũng cảm có thừa, nhưng thiếu vũ khí, thiếu kinh nghiệm, thiếu cán bộ, thiếu mọi mặt”. Triệt để thực hiện đường lối “kháng chiến, kiến quốc”, vừa đánh giặc vừa xây dựng lực lượng, củng cố tiềm lực kháng chiến, bộ đội đã lấy chiến trường làm nơi rèn luyện và kiểm nghiệm thực tế. Sau mỗi trận đánh, từ tướng lĩnh đến toàn quân đều phải nghiên cứu, tự kiểm điểm, rút kinh nghiệm sâu sắc để đi đến thắng lợi cuối cùng.

Kháng chiến không thể đi tới thắng lợi nếu không có sự ủng hộ, hỗ trợ từ Trung Quốc, Liên Xô và cộng đồng quốc tế tiến bộ. Tuy nhiên, sức mạnh nội lực vẫn luôn là quan trọng nhất đối với một dân tộc đứng lên giành độc lập. Chiến thắng Điện Biên Phủ bắt nguồn từ sức mạnh nội sinh của một dân tộc đã đồng cam cộng khổ, vừa chiến đấu vừa xây dựng lực lượng, từng bước đánh bại các kế hoạch chiến tranh của thực dân Pháp.

Sơn Hà