Vietnamnet – Phương Thuý – Thứ tư, 21/06/2023 – 09:00
Kỳ 1 – Dịch vụ thụ tinh ống nghiệm: Ngành ‘công nghiệp’ siêu lợi nhuận?
Người bệnh khám vô sinh tại bệnh viện. Ảnh: Phương Thúy.
So với 10 năm trước, hiện nay, cả nước có 53 trung tâm hỗ trợ sinh sản thụ tinh trong ống nghiệm (IVF). Với chi phí dao động từ hàng chục tới hàng trăm triệu một lần thực hiện, dịch vụ này đang trở thành ngành “công nghiệp” siêu lợi nhuận.
Lời tòa soạn
Năm 1997, lần đầu tiên tại Việt Nam, kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm (IVF) được thực hiện. Một năm sau, các em bé chào đời. Mặc dù bắt đầu muộn so với thế giới (1978) và khu vực (1984), nhưng hiện nay, Việt Nam là nước thực hiện IVF nhiều nhất khu vực ASEAN và là nước đi đầu về kỹ thuật này của khu vực. Nước ta có khoảng 50.000 trường hợp IVF mỗi năm, cho đến nay ước tính đã có khoảng 200.000 trẻ ra đời ở Việt Nam từ kỹ thuật này.
Đây được xem là thị trường y tế siêu lợi nhuận mang lại hàng triệu USD mỗi năm. Tuy nhiên, nhiều bác sĩ lo ngại kỹ thuật hỗ trợ sinh sản sẽ bị thương mại hóa.
VietNamNet xin đăng tuyến bài: ‘Nở rộ’ trung tâm hỗ trợ sinh sản, người hiếm muộn thành khách hàng tiềm năng để phản ánh về thực tế bức tranh điều trị vô sinh hiếm muộn tại nước ta.
Kỳ 1: Nở rộ trung tâm hỗ trợ sinh sản
Theo Bộ Y tế, tỷ lệ vô sinh hiếm muộn ở Việt Nam hiện nay là 7,7% tương đương khoảng một triệu cặp vợ chồng vô sinh, hiếm muộn. Mỗi lần thực hiện phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm, họ sẽ phải tốn chi phí từ 80-100 triệu đồng. Người có thêm bệnh lý đi kèm phải xét nghiệm gene, sàng lọc phôi, số tiền có thể lên tới 200-300 triệu đồng.
Về quy định, các yếu tố để được thành lập trung tâm hỗ trợ sinh sản lưu trữ tinh trùng và phôi là:
– Cơ sở phụ sản, sản – nhi của Nhà nước từ tuyến tỉnh trở lên, bệnh viện đa khoa tư nhân có khoa sản, khoa sản – nhi, bệnh viện chuyên khoa phụ sản, chuyên khoa sản – nhi tư nhân, bệnh viện chuyên khoa nam học và hiếm muộn.
– Có tối thiểu các trang thiết bị y tế gồm 2 tủ cấy CO2, 2 tủ ấm, 1 bình trữ tinh trùng, 1 máy ly tâm, 1 bình trữ phôi đông lạnh, 1 máy siêu âm có đầu dò âm đạo, 1 kính hiển vi đảo ngược, 2 kính hiển vi soi nổi, 1 bộ tủ thao tác.
– Về nhân sự, có ít nhất 2 bác sĩ được đào tạo về kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm và 2 cán bộ có trình độ đại học y, dược hoặc sinh học được đào tạo về phôi học lâm sàng.
Do đó, về mặt kinh tế, điều trị hiếm muộn bằng phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm mang lại “siêu lợi nhuận” với hàng loạt trung tâm hỗ trợ sinh sản ra đời.
Ngày càng nhiều người ‘chuộng’ thụ tinh ống nghiệm
Chị N.T.H (30 tuổi, trú tại thành phố Sơn La) xuống Bệnh viện Nam học và Hiếm muộn Hà Nội để tìm hiểu về dịch vụ thụ tinh trong ống nghiệm. Đã có một con gái, một năm nay, vợ chồng chị muốn sinh thêm bé thứ hai nhưng đợi mãi chưa có tin vui. Do đó, chị và chồng dự tính xuống Hà Nội làm thụ tinh trong ống nghiệm để “chắc chắn mang thai thay vì chờ đợi tự nhiên”.
Không riêng gì chị H., tại khu vực khám của bệnh viện này, các cặp đôi đều hy vọng được làm thụ tinh trong ống nghiệm luôn thay vì trị tận gốc nguyên nhân hiếm muộn.
Tương tự, tại Trung tâm hỗ trợ sinh sản của Bệnh viện Đại học Y Hà Nội, một cặp vợ chồng quê ở Vĩnh Phúc, tìm tới dịch vụ hỗ trợ sinh sản. Theo chia sẻ của người chồng, họ muốn có con ngay vì đã ở với nhau 3 tháng nhưng vợ vẫn chưa mang bầu. Họ mong có con vào tháng 3/2024 nên thời điểm này thực hiện chu kỳ thụ tinh trong ống nghiệm là phù hợp.
Một bác sĩ điều trị hiếm muộn nhiều năm tại Hà Nội chia sẻ nếu như 10 năm trước một cặp vợ chồng hiếm muộn họ có thể kiên trì điều trị tận gốc nguyên nhân. Hiện tại, những cặp vợ chồng chỉ cần chậm có thai là sẵn sàng làm thụ tinh trong ống nghiệm, thậm chí chưa cần bác sĩ chỉ định làm IVF họ đã “tự chỉ định cho mình”. Vì quá nhiều trung tâm, nếu bác sĩ từ chối họ sẽ sang nơi khác.
Ví dụ, trước đây, trường hợp người vợ bị tắc dính vòi trứng sẽ được làm phẫu thuật bóc tách, nhưng hiện nay họ sẽ làm luôn IVF “cho chắc”. Một ca mổ do dính tắc vòi trứng hay các bệnh lý khác để có con tốn khoảng 10-20 triệu đồng. Với kỹ thuật IVF, chi phí sẽ cao hơn gấp nhiều lần.
Chuyên gia này cũng cho biết: “Người bệnh hiếm muộn đến khám và tư vấn nghe bác sĩ nói về uống thuốc, thay đổi lối sống để chờ có con tự nhiên là họ chán và đặt vấn đề làm IVF luôn”.
Chính vì nhu cầu này nên các trung tâm hỗ trợ sinh sản ra đời ngày càng nhiều cả ở hệ thống y tế công lập và tư nhân. Theo Thạc sĩ, bác sĩ Nguyễn Việt Quang, Giám đốc Trung tâm Hỗ trợ sinh sản Quốc gia, Bệnh viện Phụ sản Trung ương, hiện nay, cả nước có 53 trung tâm hỗ trợ sinh sản thực hiện kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm.

Quy trình rã đông phôi trước khi chuyển tại một trung tâm hỗ trợ sinh sản. Ảnh: Phương Thúy.
Ngành “công nghiệp” siêu lợi nhuận
Bác sĩ Quang nhấn mạnh điều trị hiếm muộn của Việt Nam nói chung và dịch vụ IVF nói riêng đang trở thành ngành công nghiệp siêu lợi nhuận, được đánh giá tăng trưởng mạnh. Tuy nhiên, việc coi người bệnh thành “Thượng đế” sẽ có nhiều hệ lụy.
Ông cho biết thực tế hiện nay, tỷ lệ làm thụ tinh trong ống nghiệm ở Việt Nam cao nhất trong khu vực. Nguyên nhân của tình trạng này là chi phí ở Việt Nam thấp hơn. Do đó, nhiều người từ các nước khác cũng đến Việt Nam để thực hiện thụ tinh trong ống nghiệm.
Ví dụ, một chu kỳ làm thụ tinh trong ống nghiệm tại Việt Nam mức giá khoảng 3.200 đến 4.200 USD, tại Thái Lan là 8.000-10.000 USD, Campuchia 7.000 USD, tại Singapore 10.000 USD, tại Anh có thể lên tới 15.000 USD. Tại Trung tâm Hỗ trợ sinh sản quốc gia, Bệnh viện Phụ sản Trung ương, trung bình chi phí thuốc kích trứng từ 15 đến 30 triệu đồng/ca. Chi phí làm IVF tại đây được coi là giá “nhà nước” chỉ trên dưới 60 triệu đồng.
Bảng giá tham khảo kỹ thuật hỗ trợ sinh sản IVF tại một số bệnh viện ở Hà Nội:
| Tên bệnh viện | Chi phí IVF (triệu đồng) | Ghi chú |
| Bệnh viện Phụ sản Trung ương | 50-60 | Một chu kỳ IVF |
| Bệnh viện Đại học Y Hà Nội | 70-110 | Tùy từng trường hợp |
| Bệnh viện Tâm Anh | 75-95 | Một chu kỳ IVF |
| Bệnh viện Nam học và Hiếm muộn Hà Nội | 25-30 | Một lần IVF (chưa bao gồm thuốc kích trứng, ủ noãn, chọc trứng, lọc tinh trùng…) |
Dù chi phí này thấp hơn so với các nước trong khu vực nhưng với mặt bằng thu nhập của người Việt Nam vẫn còn rất cao. Bác sĩ Quang cho biết một chu kỳ làm IVF có thể tốn tới hàng trăm triệu đồng nhưng cũng có cặp vợ chồng làm tới 5-7 chu kỳ, họ phải bán cả nhà đi chữa hiếm muộn. 13 năm gắn bó với chuyên ngành này, ông đã gặp nhiều bệnh nhân kiên trì làm IVF hàng chục lần.

Một cặp vợ chồng không phải làm một lần IVF có thể thành công ngay. Ảnh: Phương Thúy.
Cũng theo bác sĩ Quang, một phần nguyên nhân khiến tỷ lệ này tăng cao là do chỉ định IVF đang quá rộng. Ông đã tiếp nhận nhiều cặp vợ chồng trẻ thậm chí chưa cưới nhưng muốn có con ngay và đặt yêu cầu bác sĩ làm IVF. Bác sĩ giải thích về “thuận tự nhiên” nhưng họ không đồng ý.
Hiện nay, người bệnh hiếm muộn chọn đường tắt. Nhiều bệnh nhân cho rằng nếu điều trị nguyên nhân yếu tinh trùng hay do các tổn thương thực thể khác thì 2-3 năm sau họ vẫn phải làm IVF nên muốn làm luôn.
Tuy nhiên, việc lạm dụng chỉ định IVF cũng khiến người bệnh đối diện với nguy cơ mắc các biến chứng nguy hiểm. Ví dụ, nguy cơ quá kích buồng trứng có thể khiến bà mẹ phải trả giá cả tính mạng như tràn dịch ổ bụng, dịch màng phổi rất nhiều, tràn dịch màng tim, suy thận, thuyên tắc mạch…
Giáo sư Nguyễn Viết Tiến, nguyên Thứ trưởng Bộ Y tế, cũng cho biết hiện nay có tình trạng nhiều bác sĩ “tay ngang” sang lĩnh vực hỗ trợ sinh sản. Đó là những người đi học vài tháng về và làm dịch vụ này đã khiến nhiều trường hợp tiền mất tật mang. Thậm chí, nhiều trung tâm có hiện tượng “giữ” bệnh nhân và chỉ định ngay IVF.
Do đó, bác sĩ Quang cho rằng cần thận trọng và quản lý chặt chẽ hơn các trung tâm hỗ trợ sinh sản tránh các tình trạng thương mại hóa quá mức dịch vụ IVF.
Hệ lụy khi chỉ định IVF tràn lan
Các trung tâm điều trị hiếm muộn ra đời ngày càng nhiều, người bệnh có cơ hội tiếp cận với các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản hiện đại nhưng cũng tiềm ẩn nhiều hạn chế. Người hiếm muộn không trị tận gốc nguyên nhân gây vô sinh có thể dẫn tới nhiều biến chứng trong quá trình làm thụ tinh trong ống nghiệm.
Kỳ 2: Đánh đổi sức khỏe, tiền bạc tìm con của đôi vợ chồng
***
VNN – Phương Thuý – Thứ năm, 22/06/2023 – 10:31
Kỳ 2 – Nguy hiểm khi lạm dụng thụ tinh ống nghiệm để ‘vừa nhanh, vừa dễ thu tiền’
Sau nhiều năm theo đuổi chữa vô sinh, chị Ngọc “chết điếng” khi bác sĩ thông báo mình rất khó có thêm con vì tác dụng phụ sau khi tiêm thuốc kích trứng để chuẩn bị thụ tinh ống nghiệm.
LỜI TÒA SOẠN
Năm 1997, lần đầu tiên tại Việt Nam, kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm (IVF) được thực hiện. Một năm sau, các em bé chào đời. Mặc dù bắt đầu muộn so với thế giới (1978) và khu vực (1984), nhưng hiện nay, Việt Nam là nước thực hiện IVF nhiều nhất khu vực ASEAN và là nước đi đầu về kỹ thuật này của khu vực. Nước ta có khoảng 50.000 trường hợp IVF mỗi năm, cho đến nay ước tính đã có khoảng 200.000 trẻ ra đời ở Việt Nam từ kỹ thuật này.
Đây được xem là thị trường y tế siêu lợi nhuận mang lại hàng triệu USD mỗi năm. Tuy nhiên, nhiều bác sĩ lo ngại kỹ thuật hỗ trợ sinh sản sẽ bị thương mại hóa.
VietNamNet xin đăng tuyến bài: ‘Nở rộ’ trung tâm hỗ trợ sinh sản, người hiếm muộn thành khách hàng tiềm năng để phản ánh về thực tế bức tranh điều trị vô sinh hiếm muộn tại nước ta.
Kỳ 1: Dịch vụ thụ tinh ống nghiệm: Ngành ‘công nghiệp’ siêu lợi nhuận?
Suýt mất mạng khi tiêm thuốc, chọc trứng
Suốt 7 năm kiên trì chữa vô sinh, với vợ chồng chị Ngọc, anh Hoan, đây là khoảng thời gian vừa thấp thỏm hy vọng đợi chờ, rồi lại rơi vào thất vọng và cuối cùng là đau đớn vì mong ước làm cha mẹ thêm một lần nữa vẫn rất gian nan.
Anh Hoan kể lại từ năm 2014 hai vợ chồng anh chị dự định sinh thêm con thứ hai nhưng “thả” mãi không được. “Tôi đi cắt thuốc nam, thuốc bắc. Ai mách thuốc nào là vợ chồng đều tìm đến với hy vọng kiếm thêm mụn con”, anh chia sẻ.
Nhiều năm kiên trì uống đủ các loại thuốc bổ, thực phẩm chức năng đều không có tác dụng. Cuối năm 2020, vợ chồng anh đi khám hiếm muộn tại một bệnh viện ở Hà Nội. Bác sĩ chẩn đoán khả năng sinh sản của anh Hoan bình thường nhưng vợ có u xơ tử cung, lạc nội mạc tử cung nên khó mang thai tự nhiên. Cách để họ có con là làm thụ tinh trong ống nghiệm (IVF).
Mừng rỡ vì cuối cùng đã có hướng giải quyết, hai vợ chồng anh Hoan đồng ý làm kỹ thuật hỗ trợ sinh sản bằng IVF. Để thực hiện kỹ thuật này, vợ anh Hoan phải tiêm ba liều thuốc kích trứng. Tuy nhiên, khi tiêm, thuốc làm thay đổi nội tiết nên lạc nội mạc tử cung của chị Ngọc phát triển nhanh chóng, u xơ cũng to dần lên theo thời gian.

Bệnh nhân hiếm muộn tới khám tại một bệnh viện ở quận Hoàng Mai, Hà Nội. Ảnh Phương Thúy.
Ngày chọc trứng, bác sĩ lấy được 5 quả nhưng đổi lại vợ anh bị nhiễm trùng buồng trứng dẫn tới phải vào cấp cứu tại Bệnh viện Phụ sản Trung ương (Hà Nội).
Nhớ lại thời điểm đó, anh Hoan tâm sự: “Vợ tôi yếu lắm, tôi còn tưởng cô ấy không vượt qua được. Khi tư vấn, bác sĩ có nói những biến chứng có thể xảy ra nhưng không ngờ mình lại rơi vào trường hợp hiếm hoi đó. Bụng cô ấy cứng đanh, chướng to, tiêm đủ các loại thuốc cũng không giảm, người gày xanh như con cá mắc cạn. Mỗi liều thuốc tiêm có giá đến 4,5 triệu đồng”.
Sau đó, vợ anh Hoan được chuyển lên bệnh viện tuyến trên phẫu thuật. Hiện tại, tình hình sức khỏe không cho phép chị được can thiệp gì thêm để có con.
Với 5 phôi có được từ lần chọc trứng, gia đình làm thêm kỹ thuật sàng lọc phôi. Nhưng 3 ngày sau, phôi thui chột chỉ còn 3. Đến ngày thứ 5 chỉ còn 1 phôi.
Gần 2 năm qua, vợ chồng anh Hoan vẫn chờ đợi có cơ hội mang thai bằng một phôi còn lại. Tuy nhiên, sức khỏe của người vợ quá yếu, u xơ tử cung đã xử lý trước đó lại tái phát rất to. Bác sĩ cho biết họ không thể chuyển phôi lúc này. Cơ hội có con của hai người dường như bằng 0.

Một chu kỳ làm thụ tinh trong ống nghiệm, người bệnh phải trả hàng chục hơn 100 triệu đồng. Ảnh: Phương Thúy.
Với số tiền hơn 300 triệu đồng để tìm kiếm con, đôi vợ chồng này vẫn “trắng tay”. Mỗi lần nhắc tới chuyện con cái, vợ anh Hoan chỉ khóc. Công cuộc tìm con khiến chị suýt đánh đổi cả mạng sống của mình.
Một chuyên gia về hỗ trợ sinh sản ở Hà Nội tiếp nhận điều trị biến chứng cho vợ chồng anh Hoan nhấn mạnh trường hợp bệnh nhân nếu xử lý tình trạng lạc nội mạc tử cung và u xơ tử cung trước khi tiêm kích trứng sẽ giảm nguy cơ biến chứng lạc nội mạc và u xơ tử cung phát triển.
“Đây là một ca điển hình mà nhiều trung tâm hỗ trợ sinh sản hiện nay đang ‘lười’ phẫu thuật, họ thích làm IVF vừa nhanh, vừa dễ thu tiền. Khi biến chứng xảy ra, người bệnh lãnh đủ cả về mặt tiền bạc và sức khỏe”, chuyên gia này nhận định.
Hỗ trợ sinh sản không phải chỉ là “chọc trứng, trộn phôi”
Nhận định về chuyên ngành hỗ trợ sinh sản tại nước ta, Giáo sư Nguyễn Viết Tiến, nguyên Thứ trưởng Bộ Y tế, nguyên Giám đốc Bệnh viện Phụ sản Trung ương, khẳng định đã có sự phát triển vượt bậc với hàng loạt trung tâm hỗ trợ sinh sản ra đời.
Cụ thể, theo Vụ Sức khỏe Bà mẹ Trẻ em, Bộ Y tế, cả nước hiện có 53 trung tâm hỗ trợ sinh sản làm thụ tinh trong ống nghiệm và mang thai hộ.
Nghiên cứu cấp nhà nước của nước ta từ 10 năm trước cũng cho thấy tỷ lệ vô sinh hiếm muộn của các đôi vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ ở Việt Nam là 7,7%. Hiện nay, tỷ lệ này tăng cao hơn ở mức dưới 10% tương đương khoảng một triệu cặp đôi. Trong đó, hơn 50% là hiếm muộn thứ phát, tức đã có thai hoặc đẻ con ít nhất một lần nhưng không thể có con tiếp, tăng 15-20% mỗi năm. Khoảng 20% cặp vợ chồng vô sinh không tìm được nguyên nhân. Khi họ ly hôn và kết hôn với một người khác lại có con. Tỷ lệ này không phải là hiếm gặp.
Sau 25 năm kể từ khi kỹ thuật hỗ trợ sinh sản thụ tinh trong ống nghiệm có mặt ở Việt Nam, trong số 1-1,4 triệu trẻ em ra đời mỗi năm, tỷ lệ trẻ sinh ra nhờ hỗ trợ sinh sản IVF khoảng 3% (30.000-42.000 bé).

Giáo sư Nguyễn Viết Tiến – nguyên Thứ trưởng Bộ Y tế. Ảnh: BSCC.
Tuy nhiên, ông Tiến cũng nhấn mạnh về quy tắc, trước khi thực hiện IVF, người phụ nữ cần thăm khám toàn diện để kiểm tra và đánh giá về tình trạng sức khỏe cũng như khả năng sinh sản. Trong đó, các bác sĩ cần đặc biệt lưu ý tiền sử bệnh lý phụ khoa của người mẹ vì các yếu tố này ảnh hưởng trực tiếp đến tỷ lệ thành công của phác đồ IVF.
“Một số bệnh lý phụ khoa không điều trị triệt để sẽ ảnh hưởng đến quá trình phôi làm tổ, gây thất bại IVF như u xơ tử cung, lạc nội mạc tử cung, dính buồng tử cung, tụ dịch vết mổ… Việc thăm khám trước khi thực hiện IVF là để đánh giá chính xác nhất về tình trạng sức khỏe của người phụ nữ, đủ điều kiện mang thai hay không hoặc có những bệnh lý chống chỉ định mang thai. Nếu chúng ta không làm chặt chẽ, chỉ định IVF nhanh, vội nguy cơ tai biến sản khoa sẽ tăng lên như sảy thai, lưu thai, đẻ non”, bác sĩ Tiến cho biết.
Do đó, ông Tiến cho rằng: “Chỉ chọc trứng, trộn phôi làm thụ tinh trong ống nghiệm thì lĩnh vực hỗ trợ sinh sản quá dễ dàng. Ngược lại, bác sĩ cần tư vấn cho người bệnh làm như thế nào để mang thai cho gần với tự nhiên nhất. Ví dụ, người bệnh có thể làm thụ tinh nhân tạo (IUI), bác sĩ nên thực hiện phương pháp này thay vì vẫn chỉ định IVF vừa tốn kém và có thể gặp biến chứng”.
Hiếm muộn chưa được coi là bệnh nên không được BHYT thanh toán
Dù chi phí rẻ nhưng IVF ở Việt Nam vẫn cao với người dân, một người có thể tốn 100 -200 triệu là có con ngay nhưng cũng có gia đình tốn cả tỷ đồng. “Nhiều bệnh nhân tìm tới tôi khi họ đã khánh kiệt không còn tiền để tiếp tục điều trị vô sinh. Có một nghịch lý nếu u xơ, bóc u thì được BHYT chi trả nhưng bóc u trị vô sinh thì không”, Giáo sư Nguyễn Viết Tiến, nguyên thứ trưởng Bộ Y tế, cho biết.
Kỳ 3: Hiếm muộn chưa được coi là bệnh: Quy định cần thay đổi
***
VNN – Phương Thuý – Thứ sáu, 23/06/2023 – 10:11
Kỳ 3 – Hiếm muộn chưa được coi là bệnh: Chính sách cần thay đổi
Dù chi phí điều trị vô sinh, hiếm muộn, đặc biệt là khi thụ tinh trong ống nghiệm, thụ tinh nhân tạo tại Việt Nam thấp hơn các nước nhưng vẫn là “rào cản” lớn đối với nhiều cặp vợ chồng.
Lời tòa soạn
Năm 1997, lần đầu tiên tại Việt Nam, kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm (IVF) được thực hiện. Một năm sau, các em bé chào đời. Mặc dù bắt đầu muộn so với thế giới (1978) và khu vực (1984), nhưng hiện nay, Việt Nam là nước thực hiện IVF nhiều nhất khu vực ASEAN và là nước đi đầu về kỹ thuật này của khu vực. Nước ta có khoảng 50.000 trường hợp IVF mỗi năm, cho đến nay ước tính đã có khoảng 200.000 trẻ ra đời ở Việt Nam từ kỹ thuật này.
Đây được xem là thị trường y tế siêu lợi nhuận mang lại hàng triệu USD mỗi năm. Tuy nhiên, nhiều bác sĩ lo ngại kỹ thuật hỗ trợ sinh sản sẽ bị thương mại hóa.
VietNamNet xin đăng tuyến bài: ‘Nở rộ’ trung tâm hỗ trợ sinh sản, người hiếm muộn thành khách hàng tiềm năng để phản ánh về thực tế bức tranh điều trị vô sinh hiếm muộn tại nước ta.
Kỳ 1: Dịch vụ thụ tinh ống nghiệm: Ngành ‘công nghiệp’ siêu lợi nhuận?
Kỳ 2: Nguy hiểm khi lạm dụng thụ tinh ống nghiệm để ‘vừa nhanh, vừa dễ thu tiền’
‘Có người chấp nhận uống nước giếng thay vì đến trung tâm hỗ trợ sinh sản’
Chị Phạm Hà Mai, trú tại Hà Nội, vừa đón “công chúa” sau nhiều năm nỗ lực trị hiếm muộn. Tập hồ sơ chữa hiếm muộn trong nhiều năm qua được vợ chồng chị Mai lưu lại hết. Do bị dính vòi trứng, chị từng phải phải trải qua ca phẫu thuật trước khi có con trai đầu lòng vào năm 2012 bằng phương pháp thụ tinh ống nghiệm.
Đến lần sinh thứ hai, chị Mai “thả” mãi nhưng không có con. Vợ chồng chị lại đến bệnh viện khám, bác sĩ chẩn đoán “vô sinh không rõ nguyên nhân”. Cơ hội có con của họ chỉ còn làm thụ tinh trong ống nghiệm.
Từ năm 2016, chị Mai liên tục làm các chu kỳ kích trứng – chọc trứng – chuyển phôi. Chị không nhớ mình đã chuyển bao nhiêu lần. Số tiền hai vợ chồng kiếm được bao nhiêu đều dành cho chữa hiếm muộn. Có thời điểm, chị chán nản không muốn làm tiếp.
Năm 2022, khi đã gần 40 tuổi, người phụ nữ này quyết định chuyển phôi lần cuối. Chị Mai tâm sự: “Lúc định buông thì may mắn tới. Tôi có thai và sinh được một công chúa kháu khỉnh”.
Sự kiên trì cùng với điều kiện kinh tế cho phép đã giúp chị thực hiện được mong ước làm mẹ. Tuy nhiên, với nhiều cặp vợ chồng khác, chi phí lại là vấn đề nan giải khiến họ không thể tiếp cận các phương pháp này.

Vợ chồng chị Mai và hành trình sinh hai bé nhờ kỹ thuật hỗ trợ sinh sản. Ảnh: NVCC.
Thạc sĩ, bác sĩ Nguyễn Việt Quang, Giám đốc Trung tâm Hỗ trợ sinh sản Quốc gia, Bệnh viện Phụ sản Trung ương, cho biết bài toán chi phí là “rào cản” với người điều trị hiếm muộn. “Có bệnh nhân khi còn trẻ không đủ tiền chữa hiếm muộn, khi họ có tiền, tuổi lại nhiều, cơ hội có con giảm dần”, bác sĩ Quang nói.
Từng thăm khám cho hàng nghìn cặp vợ chồng hiếm muộn, vị bác sĩ này còn chia sẻ ông đã từng chứng khiến nhiều người tìm tới các bài thuốc nam, thuốc bắc thậm chí ở đâu có “giếng thần” được cho là sẽ giúp mang thai họ cũng đến uống. Kết quả, dù đã áp dụng mọi cách, họ vẫn không có con. Mẫu số chung của các bệnh nhân này đó là sợ tốn kém khi làm các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản.

Thạc sĩ, bác sĩ Nguyễn Việt Quang, Giám đốc Trung tâm Hỗ trợ sinh sản Quốc gia chuyển phôi cho bệnh nhân. Ảnh: BVCC.
Cần thay đổi chính sách
Giáo sư Nguyễn Viết Tiến, nguyên Thứ trưởng Bộ Y tế, cho biết hiện nay, tại Việt Nam, hiếm muộn chưa được coi là bệnh nên không được BHYT thanh toán. Bệnh nhân đi khám hiếm muộn đều phải tự chi trả các chi phí từ xét nghiệm tới phẫu thuật, làm thụ tinh nhân tạo hay thụ tinh trong ống nghiệm. Do đó, ông Tiến đã nhiều lần phải chứng kiến cảnh người bệnh khánh kiệt, thậm chí bán nhà đi chữa hiếm muộn.
Ngoài ra, bác sĩ này còn chỉ ra một vấn đề đó là: “Một nghịch lý đang xảy ra là nếu bóc u xơ điều trị bình thường bệnh nhân được BHYT thanh toán, cùng u xơ đó nếu bóc vì mục đích có con, họ sẽ phải tự chi trả”.
Một số quốc gia kinh phí đóng BHYT cao hơn nên người hiếm muộn được chi trả một phần chi phí điều trị. Ví dụ, tại Pháp, người hiếm muộn được hỗ trợ chi trả 3-4 lần làm IVF, từ các lần sau người hiếm muộn được chi trả 1 phần hoặc phải tự trả. Giáo sư Tiến cho rằng trong tương lai cần thay đổi thêm một số điều kiện về BHYT để người chữa hiếm muộn có thể được đồng chi trả.
Theo bác sĩ Hồ Mạnh Tường, Tổng thư ký Hội Nội tiết sinh sản và vô sinh TP.HCM, chi phí thụ tinh trong ống nghiệm ở Việt Nam hiện nay ở mức thấp so với khu vực và thế giới, khoảng 1/8 so với ở Mỹ, 1/4 so với châu Âu, 1/3-1/2 so với các nước trong khu vực ASEAN.
Trong thời gian dài trước đây, chính sách dân số quan trọng của Việt Nam là giảm sinh. Do đó, việc điều trị hiếm muộn không được quan tâm, các chi phí khám và điều trị hiếm muộn không được BHYT chi trả.
“Tốc độ gia tăng dân số của Việt Nam đã được kiểm soát và dự kiến có thể bắt đầu chuyển sang xu hướng giảm trong tương lai. Tôi nghĩ với sự phát triển của kinh tế và xã hội của Việt Nam trong những năm gần đây, các chính sách quốc gia về dân số nói chung và BHYT cho khám, điều trị hiếm muộn cũng cần thay đổi phù hợp”, bác sĩ Tường cho hay.
Trao đổi với VietNamNet, ông Lê Văn Phúc, Trưởng Ban Thực hiện chính sách BHYT – Bảo hiểm Xã hội Việt Nam, cho biết đến nay theo Luật BHYT các trường hợp điều trị hiếm muộn nằm ngoài đối tượng thanh toán. Theo ông, dù tỷ lệ vô sinh hiếm muộn tăng lên hàng triệu ca, người điều trị gặp khó khăn nhưng quỹ BHYT hạn chế nên rất khó để đưa nhóm đối tượng này vào quỹ chi trả. Trong tương lai, ông Phúc nhìn nhận chính sách thay đổi cho người hiếm muộn được BHYT hỗ trợ đồng chi trả cũng vô cùng khó vì “còn nhiều thứ phải chi cấp thiết hơn”.