- Báo VNE : Sốc học phí đại học
- Báo TS : Tự chủ đại học dựa trên học phí?
- Báo VNN : Học phí 2 trường y hàng đầu phía Nam, cùng một ngành chênh hàng chục triệu
- Báo GDVN : Trường ĐH chỉ ra nhiều bất cập trong chính sách tín dụng đối với SV hiện nay
***
Sốc học phí đại học
VNE – Thứ sáu, 1/8/2025, 00:00 (GMT+7)

Nguyễn Thành Hưng, Giảng viên, Thạc sĩ Chính sách Công
Khi mới tiếp nhận công tác tuyển sinh, tôi được sếp dặn: “Tuyệt đối không để thí sinh và gia đình phải nhận những bất ngờ bất lợi, không được có chi phí ẩn, mọi thứ phải minh bạch”.
Tôi lắng nghe và coi đó như sự tử tế tất yếu của mọi cơ sở giáo dục. Nhưng từng mùa tuyển sinh trôi qua, ở lâu trong ngành, tôi nhận thấy không phải ở đâu cũng dễ dàng có được sự minh bạch.
Tấm giấy báo trúng tuyển đại học vào tháng 8 mang tới niềm vui cho nửa triệu gia đình nhưng cũng ẩn giấu không ít “bất ngờ bất lợi”, là những khoản chi phí vô hình sẽ thách thức khả năng tài chính của không ít gia đình trong suốt bốn năm tới.
Mức học phí công bố cho năm đầu tiên thường chỉ là một con số khởi điểm hấp dẫn. Yếu tố ảnh hưởng lớn nhất đến kế hoạch tài chính của các gia đình, cũng là thông tin khó ngờ nhất chính là lộ trình tăng học phí những năm tiếp theo.
Thực tế cho thấy những cú sốc học phí không phải là hiếm. Nhiều trường dù cam kết chỉ tăng học phí ở mức “trong tầm kiểm soát” 10-15% mỗi năm, nhưng hiệu ứng lãi kép vẫn tạo ra một gánh nặng khổng lồ. Ví dụ, một chương trình có học phí khởi điểm 40 triệu đồng, với mức tăng đều 15% hàng năm, sẽ tiêu tốn của gia đình gần 200 triệu đồng sau bốn năm, cao hơn khoảng 40 triệu. Khoản chênh lệch này đủ sức làm đảo lộn mọi kế hoạch chi tiêu.
Để làm dịu đi cảm giác “đắt đỏ” ban đầu, nhiều trường tung ra các “bẫy ngọt” như giảm 10% học phí nếu đóng trọn năm nhất hay tặng học bổng nhập học vài triệu đồng. Thoạt nhìn, đây là những món quà mừng, nhưng thực chất chúng là chiến lược marketing tinh vi, kéo mức đóng ban đầu xuống thấp để tạo ra một cảm giác an toàn, khiến phụ huynh và thí sinh chủ quan trước khi thấm thía gánh nặng thật sự.
Tảng băng chi phí còn nhiều cạnh sắc khác. Học phí thường chênh lệch giữa các học phần, với môn đại cương năm nhất rẻ hơn đáng kể so với các môn chuyên ngành, hay sự khác biệt giữa môn lý thuyết và môn thực hành vốn đòi hỏi cơ sở vật chất tốn kém. Nhiều ngành học đặc thù như Du lịch còn kèm theo các chi phí đi thực tế đắt đỏ không được liệt kê trong thông báo tuyển sinh. Đó là chưa kể các lệ phí hành chính, chi phí tài liệu, tiền in ấn và vật tư cho các bài tiểu luận, khóa luận.
Bức tranh sẽ không hoàn chỉnh nếu thiếu đi khoản sinh hoạt phí khổng lồ mà các gia đình ở tỉnh lẻ thường đánh giá thấp. Chỉ riêng tiền thuê nhà, ăn uống, đi lại tại Hà Nội hay TP HCM đã ngốn ít nhất 4-5 triệu đồng mỗi tháng, tương đương 50 triệu đồng một năm học. Khi cộng tất cả lại, tổng chi phí thực tế cho một năm học có thể chạm ngưỡng 100 triệu đồng. Con số này vượt qua thu nhập cả năm của một lao động nông thôn, vốn chỉ khoảng 80 triệu đồng vào năm 2024 (theo số liệu của Tổng cục Thống kê). Chi phí cho một đứa con đi học một năm có thể lớn hơn cả một năm lao động vất vả của bố, mẹ ở quê nhà.
Vậy tại sao lỗ hổng thông tin này lại tồn tại trong thị trường giáo dục đại học Việt Nam?
Nghịch lý của câu chuyện nằm ở chỗ, dù các quy định pháp lý có vẻ chặt chẽ, chúng lại tồn tại những “khe hở” cho phép tình trạng thiếu minh bạch. Về lý thuyết, pháp luật yêu cầu các trường phải công khai lộ trình học phí toàn khóa cho thí sinh (theo Nghị định 81/2021/NĐ-CP và văn bản sửa đổi). Tuy nhiên, quy định này thường bị chi phối bởi hai áp lực trái chiều. Một mặt, áp lực tự chủ tài chính buộc các trường phải xem học phí là nguồn sống còn. Mặt khác, quy định tại Điều 11, Nghị định 81 cho phép các trường tự chủ được thu học phí cao gấp 2 đến 2,5 lần mức trần, giúp các trường hợp pháp hóa việc tăng “bất ngờ” học phí.
Khi các trường lách luật, hàng rào pháp lý lại tỏ ra quá yếu ớt. Mức phạt cho hành vi không minh bạch chỉ mang tính hình thức, 10-20 triệu đồng, không đủ sức răn đe (Điều 32 Nghị định 04/2021/NĐ-CP). Thêm vào đó, việc tính học phí dựa trên “định mức kinh tế – kỹ thuật” cũng là một điểm mờ chính sách, khiến xã hội gần như không thể giám sát.
Tự chủ đại học, vốn là một định hướng đúng đắn nhằm giải phóng các trường khỏi cơ chế hành chính truyền thống, tại Việt Nam lại bị nghiêng quá nhiều về khía cạnh tài chính. Thay vì tập trung vào sứ mệnh cốt lõi là đào tạo và nghiên cứu, lãnh đạo các trường buộc phải hành xử như những nhà quản trị doanh nghiệp, vật lộn với bài toán cân đối dòng tiền và áp lực từ chỉ tiêu tuyển sinh. Áp lực này đã vô tình biến các trường thành doanh nghiệp, luôn tìm mọi cách để tăng nguồn thu từ học phí, làm méo mó bản chất của giáo dục.
Chính sách này, khi vận hành trong thực tế, còn tạo ra một thất bại thị trường kinh điển: tình trạng bất cân xứng thông tin, nơi nhà trường nắm giữ mọi thông tin quan trọng về chi phí, còn thí sinh và phụ huynh gần như mù mờ. Khi mỗi trường đều chọn cách minh bạch ít hơn một chút để không bị “hớ” so với đối thủ, họ đã vô tình tạo ra một cuộc “chạy đua xuống đáy” về tính minh bạch. Người chịu thiệt cuối cùng không ai khác chính là các gia đình và toàn xã hội. Các quy định pháp lý, dù yêu cầu thông tin phải “đầy đủ, rõ ràng, tin cậy”, lại không định nghĩa thế nào là “đầy đủ”. Hệ quả là các trường có thể dễ dàng lách luật bằng cách công bố học phí theo từng tín chỉ hoặc thông qua những văn bản chồng chéo, khó hiểu.
Quyền lực thông tin đôi khi còn bị vũ khí hóa. Năm 2023, một trường đại học công lập ở miền Trung, dù đã có lộ trình học phí được phê duyệt, lại chọn thời điểm thông báo tăng học phí ngay sau khi thí sinh vừa hoàn tất thủ tục nhập học. Hàng trăm sinh viên và phụ huynh đã phản ứng gay gắt, nhưng rồi mọi việc cũng chìm vào im lặng. Thí sinh ở vào thế “đâm lao phải theo lao”, không thể quay đầu, còn nhà trường thì vẫn “đúng quy trình”. Sự việc cho thấy minh bạch không chỉ nằm ở việc công bố, mà còn là sự sòng phẳng về thời điểm và cách thức công bố.
Hệ quả nguy hiểm nhất của tình trạng này là điều các nhà kinh tế gọi là “lựa chọn ngược”. Khi người mua không đủ thông tin để phân biệt chất lượng, họ có xu hướng chọn thứ có vẻ rẻ nhất. Trong giáo dục, điều này tạo ra một bi kịch khi chính những gia đình có tài chính eo hẹp nhất, nhạy cảm nhất với học phí ban đầu, lại dễ bị thu hút bởi các trường có “giá niêm yết” thấp mà không lường hết rủi ro. Thị trường, bằng cơ chế vô hình, đã “chọn” đúng những người dễ tổn thương nhất để đẩy họ vào những cam kết tài chính bấp bênh nhất. Đây là điều đi ngược lại mục tiêu cốt lõi của giáo dục là thúc đẩy công bằng xã hội.
Cái giá phải trả cho sự thiếu minh bạch không chỉ dừng lại ở từng gia đình. Các con số thống kê đã vẽ nên bức tranh đáng báo động. Theo số liệu của Bộ Giáo dục và Đào tạo, năm 2024, có 122.107 thí sinh trúng tuyển nhưng không xác nhận nhập học, chiếm 18,13% tổng số thí sinh trúng tuyển đợt 1. Dù chưa có số liệu chính thức của năm nay, con số hơn 311.000 trong hơn 1,16 triệu thí sinh (chiếm gần 27%) không đăng ký nguyện vọng cũng là một tỷ lệ đáng quan ngại.
Đó là chưa kể tại nhiều trường có gần 10% thí sinh khác dù xác nhận nhưng chưa bao giờ đặt chân vào giảng đường. Đây là dấu hiệu phần nào cho thấy “bộ lọc tài chính” khắc nghiệt đang vận hành.
Là người làm tuyển sinh, tôi hiểu áp lực cạnh tranh trên “thị trường” giáo dục. Nhưng cạnh tranh dù có khốc liệt đến mấy cũng không thể biện minh cho việc đặt hy vọng của người trẻ trên một nền tảng tài chính chông chênh.
Mùa tuyển sinh phải là mùa của hy vọng, nhưng hy vọng đó phải được đặt trên nền tảng của thực tế. Trong thời chi phí leo thang, giá trị của một trường đại học không chỉ nằm ở thứ hạng hay cơ sở vật chất mà còn ở sự chính trực. Chỉ khi toàn bộ “tảng băng chi phí” được soi rọi, giọt nước mắt hạnh phúc ngày nhận tin trúng tuyển mới thực sự là khởi đầu cho một hành trình bền vững và công bằng. Đó cũng là sự “tử tế” cốt lõi mà giáo dục phải theo đuổi.
Nguyễn Thành Hưng
***
Tự chủ đại học dựa trên học phí ?
Tia sáng – 15-11-2024 – Võ Thị Hải Minh
Xuất phát từ chủ trương xã hội hóa các dịch vụ công cách đây gần 20 năm, việc các cơ sở giáo dục đại học đua nhau tăng học phí gần đây có thể khiến giáo dục đại học của Việt Nam phát triển không bền vững.

Khối ngành Y dược có học phí đắt nhất và tăng mạnh nhất trong những năm gần đây. Ảnh: Khoa Y dược, trường Đại học Y dược, Đại học Quốc gia Hà Nội.
Gần đây báo chí rầm rộ đưa tin mức học phí cho năm học 2024-2025 của nhiều trường đại học tăng đáng kể so với mức học phí năm học 2023-2024. Ví dụ, trường Đại học Y Dược (Đại học Quốc gia Hà Nội) tăng gấp đôi học phí so với năm học trước, lên đến 55 triệu đồng/năm. Sinh viên trường ĐH Luật TP.HCM năm học 2024-2025 phải đóng học phí cao hơn năm trước từ 4 triệu đến 16,5 triệu đồng/năm tùy chương trình. Trường ĐH FPT áp dụng mức học phí cho sinh viên nhập học mới năm 2024 với mức tăng học phí từ 1,8-2 triệu đồng/học kỳ.
Thật ra câu chuyện học phí đại học tăng không còn là điều mới lạ bởi tất cả đã nằm trong lộ trình do nhà nước đặt ra từ cách đây 14 năm qua Nghị định số 49/2010/NĐ-CP, Nghị định số 86/2015/NĐ-CP và gần đây là Nghị định số 81/2021/NĐ-CP quy định về mức trần học phí đối với các cơ sở đại học công lập. Ba nghị định này không chỉ cho phép các trường mỗi năm đều được tăng học phí mà mức độ tăng cũng khá “mạnh tay” theo thời gian. Chẳng hạn như từ năm học 2010-2011 đến 2014-2015, mức trần học phí mỗi năm tăng trung bình khoảng hơn 20%. Trong đó ngành y dược, khoa học tự nhiên, khoa học xã hội là tăng mạnh nhất, có lúc lên tới khoảng 30%. Từ năm 2015-2016 đến năm học 2020-2021, mức tăng đã bắt đầu chậm lại, khoảng 10% mỗi năm nhưng nhanh chóng lấy lại tốc độ “phi mã” sau năm học 2021. Trong đó, so với năm học 2021-2022, học phí của khối ngành y dược tăng gần gấp đôi vào năm 2022-2023. Trần học phí các khối ngành khác mức tăng thấp hơn, nhưng cũng ở mức 20%-30% trong năm học này.
Trong Nghị định 81 ban hành gần đây nhất, chính phủ đã xác định lộ trình này là để “tính đủ” chi phí với các cơ sở giáo dục đại học công lập. Theo đó, mức trần học phí được quy định trong nghị định này (sẽ lên đến gần 30 triệu/năm với khối ngành Y dược và gần 20 triệu/năm với đại đa số các ngành còn lại trong năm học tới 2024-2025) chỉ dành cho các trường vẫn nhận sự hỗ trợ từ ngân sách nhà nước cho chi thường xuyên. Những trường có khả năng tự đảm bảo chi thường xuyên có thể thu gấp đôi mức trần này. Còn các chương trình đào tạo đạt kiểm định chất lượng theo tiêu chuẩn của Bộ Giáo dục và Đào tạo hoặc tiêu chuẩn nước ngoài được tự xác định học phí. Bởi vậy, truyền thông có thể “ngỡ ngàng” trước học phí trường Đại học Y Dược (Đại học Quốc gia Hà Nội) trong năm học tới là hơn 50 triệu nhưng là một trường đã tự đảm bảo chi thường xuyên, họ có thể tăng học phí cao hơn nữa, tới 60 triệu, nếu thấy vẫn thu hút đủ sinh viên nhập học.

Mức trần học phí đại học tại các cơ sở giáo dục đại học công lập từ năm học 2010 – 2011 đến năm học 2020-2021 theo 49/2010/NĐ-CP, Nghị định số 86/2015/NĐ-CP như sau (Đơn vị: 1.000 đồng/tháng/sinh viên).

Mức trần học phí đối với cơ sở giáo dục đại học công lập theo Nghị định số 81/2021/NĐ-CP chưa tự bảo đảm chi thường xuyên được quy định cụ thể trong Nghị định như sau (Đơn vị: 1.000 đồng/tháng/sinh viên).
Chủ trương tăng học phí này thực ra được đặt trong một dụng ý lớn hơn nữa của chính phủ. Đó là mở rộng quyền tự chủ, mà chủ yếu giới hạn ở việc tăng cường tự lực tài chính của các cơ sở giáo dục đại học công lập. Đi kèm với quá trình này là nhà nước giảm dần hoặc không tiếp tục phân bổ tài chính cho các cơ sở giáo dục đại học công lập. Đổi lại các cơ sở giáo dục đại học công lập được quyền xác định mức thu học phí đại học trong giới hạn trần học phí và sử dụng các nguồn thu cho thu nhập tăng thêm của đội ngũ giảng viên. Dụng ý này được thể hiện thậm chí trước cả khi các nghị định ban hành mức trần học phí ra đời, cách đây gần 20 năm trong Nghị định 43/2006/NĐ-CP. Nghị định này vô hình trung khuyến khích các trường tăng học phí khi cho phép nơi nào có thể tự đảm bảo chi phí hoạt động mà không cần hỗ trợ từ ngân sách thì có thể tự quyết về thu nhập cho người lao động mà không phải chịu một ràng buộc nào từ phía nhà nước. Động lực càng thêm rõ nét trong những năm gần đây khi theo Nghị định 86/2015 của Chính phủ, các trường càng ít phụ thuộc vào ngân sách thì càng được thu học phí cao, thậm chí không giới hạn với các chương trình đào tạo chất lượng cao hay liên kết với nước ngoài.
Theo Nghị định 86/2015 của Chính phủ, các trường càng ít phụ thuộc vào ngân sách thì càng được thu học phí cao, thậm chí không giới hạn với các chương trình đào tạo chất lượng cao hay liên kết với nước ngoài.
Gần đây nhất, Nghị định 60/2021/NĐ-CP đã làm rõ hơn mục tiêu trao quyền tự chủ bằng cách phân loại dịch vụ sự nghiệp công theo tiêu chí dịch vụ sự nghiệp công sử dụng ngân sách tài chính và dịch vụ sự nghiệp công không sử dụng ngân sách tài chính. Theo đó, giáo dục đại học không được coi là dịch vụ sự nghiệp công “cơ bản”, “thiết yếu”, “đặc thù”. Điều đó có nghĩa là giáo dục đại học sẽ không còn được sử dụng ngân sách nhà nước mà phải thực hiện theo phương thức xã hội hóa và giá dịch vụ theo cơ chế thị trường do đơn vị tự định giá hoặc do nhà nước định giá. Nghị định này ban hành lộ trình tính giá dịch vụ sự nghiệp công sử dụng ngân sách nhà nước theo hướng giá dịch vụ tính đủ gần như các loại chi phí bao gồm tiền lương, chi phí trực tiếp, chi phí quản lý, khấu hao tài sản cố định và chi phí khác. Đối với dịch vụ công không sử dụng ngân sách nhà nước, đơn vị sự nghiệp công được định giá dịch vụ bảo đảm bù đắp chi phí và có tích lũy.
Có thể thấy các văn bản pháp lý về trao quyền tự chủ cho các cơ sở giáo dục đại học mục tiêu là để hướng các cơ sở giáo dục đại học tự lực về tài chính và không còn phải dựa vào ngân sách nhà nước. Nhìn rộng ra mục tiêu trao quyền tự chủ của các cơ sở giáo dục đại học chủ yếu chỉ hạn hẹp ở mục tiêu tự lực tài chính và không nằm ngoài mục tiêu xã hội hóa dịch vụ công mà nhà nước chủ trương đẩy mạnh trong thời gian qua. Theo con đường này, tự chủ hóa hay xã hội hóa nhanh chóng trở thành xu hướng tư nhân hóa khi mối quan hệ giữa cơ sở đào tạo và người học đã trở thành giao dịch thị trường thuần túy: giá cả do thị trường quyết định, “sức sống” của đơn vị cung cấp dịch vụ phụ thuộc hoàn toàn vào túi tiền của người dùng. Những biến tướng này làm thay đổi bản chất của dịch vụ công – là dịch vụ do nhà nước cung cấp và đảm bảo quyền tiếp cận bình đẳng của người dân.

Tỷ lệ tiếp cận giáo dục đại học ở Việt Nam ở lứa tuổi 18-22, dưới 30%, thuộc hàng thấp nhất trong số các nước Đông Á.
Mối đe dọa cho nguồn nhân lực chất lượng cao
Nhiều người sẽ tranh luận rằng để tăng khả năng tiếp cận giáo dục đại học của người dân, chỉ cần tạo ra những chính sách hỗ trợ học sinh có hoàn cảnh khó khăn là đủ, còn học phí vẫn có thể cao với những sinh viên có điều kiện chi trả. Thực tế không đơn giản như vậy. Hiện nay, Việt Nam chưa có một chương trình, chính sách hỗ trợ tài chính hiệu quả cho sinh viên học đại học nhưng đã vội quyết định tăng học phí. Với mức học phí lên đến gần 20 triệu/năm và có thể cao hơn nhiều nữa với các trường tự chủ về tài chính trong khi mức thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam là khoảng hơn 100 triệu đồng/năm, đây sẽ là gánh nặng cho những gia đình thu nhập trung bình và thấp, và sẽ càng khó khăn hơn với những gia đình có nhiều hơn một con cùng muốn theo học đại học.
Học phí quá cao so với mặt bằng chung của xã hội sẽ chỉ tạo ra bất bình đẳng trong cơ hội tiếp cận giáo dục đại học. Thực tế là phần lớn sinh viên đều đến từ các gia đình thu nhập cao trong xã hội. Theo thống kê của Bộ Giáo dục và Đào tạo, có khoảng gần 20% thí sinh trúng tuyển đại học năm 2023 và 2024 nhưng không xác nhận nhập học. Có nhiều nguyên do đằng sau thực trạng này, trong đó có một số thí sinh đi du học hay chọn trường đại học quốc tế. Tuy nhiên không thể phủ nhận một thực tế là có nhiều thí sinh trúng tuyển nhưng từ chối đến giảng đường vì rào cản học phí quá lớn. Các em có thể lựa chọn học nghề với thời gian học ngắn hơn hoặc đi xuất khẩu lao động bởi gia đình không đủ điều kiện tài chính để cho các em theo học đại học. Theo báo cáo của World Bank1, trong năm 2020, có gần 80% sinh viên trong nhóm có thu nhập cao nhất đã theo học các trường đại học, và hai nhóm có thu nhập cao nhất chiếm gần 2/3 tổng số tuyển sinh. Sinh viên từ hai nhóm thu nhập thấp nhất chỉ chiếm khoảng 10% tổng số sinh viên đại học.
Học phí quá cao so với mặt bằng chung của xã hội không chỉ khoét sâu thêm bất bình đẳng xã hội mà còn ảnh hưởng đến nguồn nhân lực của Việt Nam trong tương lai.
Điều này không chỉ khoét sâu thêm bất bình đẳng xã hội mà còn ảnh hưởng đến nguồn nhân lực của Việt Nam trong tương lai. Hiện nay, nguồn nhân lực tốt nghiệp đại học mới chỉ đáp ứng chưa được một nửa nhu cầu thị trường và có thể sẽ còn tồi tệ hơn trong tương lai. Tỷ lệ tiếp cận giáo dục đại học ở Việt Nam ở lứa tuổi 18-22, dưới 30%, thuộc hàng thấp nhất trong số các nước Đông Á. Lực lượng lao động có trình độ đại học của Việt Nam xếp thứ 75 trong Chỉ số Đổi mới Toàn cầu (GII) năm 2015 nhưng sau đó tụt 15 bậc xuống vị trí thứ 90 vào năm 2022. So với các nước trong khu vực và toàn cầu, Việt Nam đang dần mất đi lợi thế về nguồn cung lao động tay nghề cao.
Phát triển thiếu bền vững
Một số nghiên cứu các cơ sở giáo dục đại học cho thấy các trường có thể đang tận hưởng sự tự do khi thoát li khỏi ngân sách nhà nước, được tự quyết định học phí, thu nhập cho cán bộ và đầu tư cơ sở vật chất và như vậy, họ có thể thu hút nguồn nhân lực chất lượng, tăng chất lượng đào tạo. Nhưng rất có thể đó chỉ là “ảo giác” trong ngắn hạn. Nguồn thu của các trường đại học công lập ngày càng phụ thuộc vào học phí, trong khi ngân sách quốc gia dành cho giáo dục đại học khá thấp. Báo cáo thường niên năm 2021 của Đại học Bách khoa Hà Nội ước tính doanh thu gần 1,43 nghìn tỷ đồng (60 triệu USD), trong đó học phí hơn 775,8 tỷ đồng, chiếm khoảng 54,4%2. Trường Đại học Kinh tế TP.HCM có học phí chiếm 73,6% tổng doanh thu của năm 2021. Đại học Cần Thơ có tổng doanh thu năm 2022 hơn 1 nghìn tỷ đồng, trong đó học phí và các khoản phí khác chiếm gần 50% và ngân sách quốc gia của trường cắt giảm gần 40% so với năm 2021. Đại học Công Thương TP.HCM không còn nhận được ngân sách quốc gia nên học phí trở thành nguồn thu thiết yếu của họ.
Theo báo cáo của World Bank, năm 2017 ngân sách quốc gia chiếm 1/4 tổng doanh thu của các trường đại học công lập Việt Nam, trong khi đóng góp của sinh viên (học phí) chiếm 57%. Đến năm 2021, tỷ lệ học phí tăng lên 77%, trong khi ngân sách quốc gia chỉ còn 9%.

Hiện nay, nguồn nhân lực tốt nghiệp đại học mới chỉ đáp ứng chưa được một nửa nhu cầu thị trường và có thể sẽ còn tồi tệ hơn trong tương lai. Ảnh: Ngày hội Tuyển dụng tại Đại học RMIT/rmit.edu.vn
Việt Nam nằm trong nhóm các nước có ngân sách nhà nước dành cho giáo dục đại học thấp nhất so với các quốc gia có cùng trình độ phát triển kinh tế. Theo Bộ Tài chính, ngân sách nhà nước của Việt Nam cho giáo dục đại học năm 2020 chưa đến 17 nghìn tỷ đồng, chiếm 0,27% GDP. Tuy nhiên, Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Hoàng Minh Sơn cho biết chi tiêu thực tế chỉ khoảng 0,18% GDP.
Thu học phí cao hơn không đồng nghĩa với chất lượng tốt hơn. Trong một nghiên cứu của tôi có ý kiến cho rằng các chương trình chất lượng cao mà nhiều trường hiện nay theo đuổi là một sự biến dạng của chính sách tự chủ. Vì các chương trình này được “thả nổi” mức học phí, nên chúng như một phương tiện để các trường thu thêm tiền học phí của sinh viên. Nó giống như khám bệnh theo yêu cầu ở bệnh viện. Theo đó, trong một tổ chức tồn tại hai kiểu dịch vụ, một dịch vụ cho người “giàu” và cho người “bình thường”. Mặc dù được quảng cáo là “chất lượng cao”, là “theo yêu cầu”, nhưng không có gì đảm bảo một bên có “nội lực” cao hơn bên còn lại: ngoại trừ cơ sở vật chất hiện đại và “mới hơn”, bởi trình độ và tay nghề của người cung cấp dịch vụ đằng sau vẫn không đổi.
Việc lệ thuộc vào học phí quá mức là dấu hiệu thể hiện sự thiếu bền vững trong giáo dục đại học của Việt Nam. Số lượng người học thường phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố khó đoán, có thể thay đổi lên xuống, không thể đảm bảo một nguồn ổn định để các trường đầu tư ngược lại vào những gì cốt lõi như nghiên cứu, nhân lực, cơ sở vật chất. Bởi vậy, điều này về lâu dài có thể làm suy giảm chất lượng đào tạo.
Tự chủ của Việt Nam đang diễn ra hoàn toàn ngược hướng so với thế giới. Thay vì được trao quyền tự chủ nhân sự, lương, và đào tạo thì các cơ sở giáo dục đại học ở Việt Nam phải đi theo hướng tự chủ về quyết định mức học phí để tự lập tài chính.
Đảo ngược quá trình tự chủ
Tự chủ của Việt Nam đang diễn ra hoàn toàn ngược hướng so với thế giới. Thay vì được trao quyền tự chủ nhân sự, lương, và đào tạo thì các cơ sở giáo dục đại học ở Việt Nam phải đi theo hướng tự chủ về quyết định mức học phí để tự lập tài chính. Nguồn thu của các trường đại học Việt Nam chủ yếu từ học phí là bất thường và trái ngược hoàn toàn với các trường đại học khác trên thế giới, nơi ngân sách nhà nước đóng vai trò lớn nhất. Ở các nước phát triển, học phí chỉ chiếm khoảng tầm 20-40% thu nhập của các trường đại học. Ví dụ, ở New Zealand, 42% doanh thu của trường đại học đến từ chính phủ thông qua trợ cấp học phí, 28% từ học phí và 30% từ nghiên cứu khoa học, thương mại hóa và các nguồn khác. Ở Úc, gần 35% doanh thu của các trường đại học vào năm 2020 đến từ chính phủ, các nguồn thu khác đến từ học phí từ sinh viên nước ngoài, học phí sinh viên nội địa, tài trợ cho nghiên cứu khoa học và tiền lời từ đầu tư tài sản và tài chính3.
Nhà nước phải tăng đầu tư vào giáo dục đại học, cung cấp cho các trường một nguồn thu ổn định và giữ một mức học phí hợp lí, chứ không phải “rũ áo” để các trường và phụ huynh tự xoay sở.
Chính sách xã hội hóa các dịch vụ giáo dục và y tế hiện nay ở Việt Nam cần phải xem xét lại. Chính phủ, bộ, ngành làm chính sách phải nhìn ở tầm vĩ mô và dài hạn, và vì lợi ích chung. Không thể làm chính sách để phục vụ lợi ích của một nhóm nhỏ, nhóm giàu có được. Nhà nước phải tăng đầu tư vào giáo dục đại học, cung cấp cho các trường một nguồn thu ổn định và giữ một mức học phí hợp lí, chứ không phải “rũ áo” để các trường và phụ huynh tự xoay sở. Thực tế báo cáo của World Bank cũng đề xuất Việt Nam phải tăng tỉ lệ đầu tư cho giáo dục đại học từ 0.25% lên thành ít nhất là 1% GDP vào năm 2030 và dành ít nhất 30% khoản đầu tư khoa học công nghệ của cả nước cho nghiên cứu ở các trường đại học. Song song với đó, chính phủ vẫn cần thiết kế chương trình hỗ trợ cho vay hiệu quả cho sinh viên theo học đại học. Hiện nay hệ thống cho vay vốn học đại học ở Việt Nam vẫn theo hình thức trả góp truyền thống (chẳng hạn như chương trình của Ngân hàng Chính sách Xã hội) với thời hạn trả cố định. Nghiên cứu chỉ ra rằng hình thức này sẽ tạo ra gánh nặng kinh tế lớn đối với những người có thu nhập thấp. Hình thức cho vay hợp lí hơn, theo kinh nghiệm của thế giới là hình thức tín dụng dựa trên thu nhập. Theo đó, sinh viên chỉ bắt đầu trả nợ khi thu nhập đạt đến một mức nhất định và số tiền phải trả định kì sẽ chỉ chiếm một phần nhỏ thu nhập.□
——-
Có thể thấy các văn bản pháp lý về trao quyền tự chủ cho các cơ sở giáo dục đại học mục tiêu là để hướng các cơ sở giáo dục đại học tự lực về tài chính và không còn phải dựa vào ngân sách nhà nước. Theo con đường này, tự chủ hóa hay xã hội hóa nhanh chóng trở thành xu hướng tư nhân hóa khi mối quan hệ giữa cơ sở đào tạo và người học đã trở thành giao dịch thị trường thuần túy: giá cả do thị trường quyết định, “sức sống” của đơn vị cung cấp dịch vụ phụ thuộc hoàn toàn vào túi tiền của người dùng.
Chú thích
1 P17811209b96300a09154049 f2039bb6e0.docx (live.com)
2 Vietnamese universities’ reliance on tuition fees impedes equal education access – VnExpress International
Bài đăng Tia Sáng số 21/2024
Võ Thị Hải MinhTiến sĩ tốt nghiệp Đại học Victoria, Wellington, New Zealand. Hiện chị đang công tác trong lĩnh vực phân tích và tư vấn chính sách công cho Chính phủ New Zealand.
***
Học phí 2 trường y hàng đầu phía Nam, cùng một ngành chênh hàng chục triệu
VNN – Lê Huyền – Thứ Tư, 30/04/2025 – 15:00
Đại học Y Dược TPHCM và Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch đã công bố học phí năm học mới. Ở 2 trường y hàng đầu phía Nam này, cùng một ngành nhưng học phí chênh nhau hàng chục triệu đồng.
Học phí chênh nhau
Đại học Y Dược TPHCM phê duyệt phương án tuyển sinh đại học hệ chính quy năm 2025 và học phí. Theo phương án này, ngành Răng – Hàm – Mặt có mức học phí cao nhất là 84,7 triệu đồng; tiếp đến, ngành Y khoa 82,2 triệu đồng/năm; ngành Dược học là 60,5 triệu đồng/năm.
Các ngành Y học cổ truyền, Y học dự phòng, Hóa dược là 50 triệu đồng/năm. Các ngành có cùng mức thu 46 triệu đồng/năm gồm: Điều dưỡng, Điều dưỡng chuyên ngành gây mê hồi sức, Hộ sinh, Dinh dưỡng, Kỹ thuật phục hình răng, Kỹ thuật xét nghiệm y học, Kỹ thuật hình ảnh y học, Kỹ thuật phục hồi chức năng, Y tế công cộng. Ngành Công tác xã hội có học phí thấp nhất ở mức 30 triệu đồng/năm, là ngành mới mở năm nay.


Học phí ĐH Y Dược TPHCM 2025
Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch cũng đã đưa ra mức thu học phí năm 2025. Trong đó ngành Y khoa, Răng – Hàm – Mặt, Dược học, Y học cổ truyền có học phí là 55,2 triệu đồng/năm. Các ngành còn lại 41,8 triệu đồng/năm.

Học phí ĐH Y khoa Phạm Ngọc Thạch 2025
ĐH Y Dược TPHCM và ĐH Y khoa Phạm Ngọc Thạch là 2 trường y nổi tiếng nhất phía Nam hiện nay. Cả hai trường cùng thực hiện tự chủ tài chính. Tuy nhiên cùng một ngành nhưng học phí lại chênh nhau hàng chục triệu đồng.

Điểm chuẩn cũng chênh nhau
Điểm chuẩn ĐH Y dược TPHCM hàng năm luôn cao hơn điểm chuẩn ĐH Y khoa Phạm Ngọc Thạch từ 0,5 đến 1,5 điểm.
Cụ thể, năm 2024, ĐH Y Dược TPHCM ngành Y khoa xét tuyển từ điểm thi tốt nghiệp THPT có điểm chuẩn cao nhất là 27,8. Ngành Y khoa xét kết hợp chứng chỉ tiếng Anh có điểm chuẩn 26,95. Ngành Răng – Hàm – Mặt xét từ điểm thi tốt nghiệp THPT có điểm chuẩn 27,35. Ngành Răng – Hàm – Mặt xét kết hợp chứng chỉ tiếng Anh có điểm chuẩn 26,5.

Điểm chuẩn ĐH Y Dược TPHCM 2024
Tại Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch năm 2024, điểm chuẩn cao nhất 26,57 thuộc về ngành Y khoa. Như vậy ngành Y khoa của hai trường chênh nhau 1,23 điểm. Ngành Răng – Hàm – Mặt của hai trường cũng chênh nhau 0,86 điểm.

Điểm chuẩn ĐH Y khoa Phạm Ngọc Thạch 2024
***
Trường ĐH chỉ ra nhiều bất cập trong chính sách tín dụng đối với SV hiện nay
11/11/2023 06:39, Ngọc Mai
GDVN– Thực tế hiện nay cho thấy, nhiều sinh viên gặp khó khăn khi tiếp cận với chính sách tín dụng của Ngân hàng Chính sách xã hội.
Chính sách tín dụng đối với học sinh, sinh viên đã giúp hàng nghìn học sinh, sinh viên được vay vốn để phục vụ quá trình học tập.
Tuy nhiên, thực tế vẫn còn một số vướng mắc cục bộ như: thời gian làm thủ tục vay vốn lâu, rườm rà, mức vay thấp, thời hạn vay ngắn,… khiến sinh viên gặp khó khăn khi tiếp cận với chính sách tín dụng của Ngân hàng Chính sách xã hội.
Bàn về vấn đề này, trao đổi với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Tiến sĩ Bùi Liên Hà – Trưởng phòng Công tác chính trị và sinh viên, Trường Đại học Ngoại thương cho biết, chính sách tín dụng cho sinh viên của Ngân hàng Chính sách xã hội nhằm hỗ trợ các em hoàn cảnh khó khăn có tiền đóng học phí, mua dụng cụ, và các phương tiện phục vụ học tập.
![]() |
| Sinh viên Trường Đại học Ngoại thương. Ảnh nhà trường cung cấp. |
Tuy nhiên, khi đánh giá về đối tượng được hỗ trợ vay vốn sinh viên của Ngân hàng Chính sách xã hội, cô Hà cho rằng còn có hạn chế nhất định.
“Hiện nay đối tượng được vay vốn chỉ gói gọn trong Điều 2 Quyết định 157/2007/QĐ-TTg Về tín dụng đối với học sinh, sinh viên và khoản 1 Điều 1 Quyết định 05/2022/QĐ-TTg sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định 157/2007/QĐ-TTg.
Ở Trường Đại học Ngoại thương, trung bình 1 khóa học có khoảng 400 sinh viên thuộc các đối tượng được vay vốn của Ngân hàng Chính sách xã hội. Tuy nhiên, Phòng không thống kê số lượng bao nhiêu sinh viên đã và đang thực hiện vay.
Điều đáng nói là có những sinh viên của trường không thuộc đối tượng được vay vốn của Ngân hàng Chính sách xã hội nhưng thực tế lại có hoàn cảnh rất khó khăn và luôn mong muốn được tiếp cận với chính sách này”, cô Hà chia sẻ.
Nêu thực tế tại Trường Đại học Ngoại thương, cô Hà cho biết, với những sinh viên của trường không thuộc diện được vay vốn theo quy định sẽ được xem xét để nhận hỗ trợ của nhà trường. Đơn cử, đầu năm học 2023 – 2024, nhà trường có một sinh viên năm nhất bị mắc bệnh hiểm nghèo, bố mẹ em làm công chức nhà nước, chi phí phải trả để điều trị hàng tháng rất tốn kém. Sinh viên này đã làm đơn mong nhà trường hỗ trợ để giảm bớt gánh nặng tài chính cho gia đình. Sau khi xem xét, nhà trường quyết định miễn học phí đối với sinh viên này trong năm học 2023-2024.
Liên quan đến việc giám sát thực hiện chính sách tín dụng cho sinh viên, cô Hà cho biết, Phòng Công tác chính trị và sinh viên chỉ thực hiện nhiệm vụ xác nhận sinh viên đang theo học tại trường có đủ điều kiện vay vốn theo quy định hay không, mức học phí mà sinh viên này phải đóng là bao nhiêu. Còn việc Ngân hàng Chính sách xã hội cho sinh viên vay bao nhiêu, vay như thế nào, sinh viên có vay được hay không thì Phòng không nắm rõ.
Theo cô Hà, từ trước đến nay, chưa có phản ánh nào của Ngân hàng Chính sách xã hội về việc sinh viên của trường vay vốn nhưng sau khi tốt nghiệp lại không trả nợ.
Dưới góc độ thực hiện nhiệm vụ của Phòng, cô Hà kiến nghị cần phải giám sát việc cấp giấy chứng nhận sinh viên thuộc diện chính sách đảm bảo yêu cầu đúng đối tượng, tránh trường hợp sinh viên cứ đi học đại học là xin được giấy xác nhận hộ nghèo, cận nghèo từ địa phương để có điều kiện thực hiện vay vốn.
Thêm nữa, mức cho vay dành cho sinh viên hiện nay thấp, chưa đáp ứng được nhu cầu tối thiểu của các em. Bởi, học phí cao, mọi chi phí cho việc học ngày càng trở nên đắt đỏ trong khi mức cho vay chỉ đáp ứng một phần nào đó.
Cùng chia sẻ với phóng viên về vấn đề này, Thạc sĩ Dương Đông Giang – cán bộ Phòng Công tác sinh viên và Tư vấn việc làm, Trường Đại học Hoà Bình cho biết, những sinh viên thuộc đối tượng được hỗ trợ vay vốn của Ngân hàng Chính sách xã hội sẽ làm xác nhận theo mẫu chung của Ngân hàng Chính sách xã hội.
“Căn cứ vào mức thu học phí của trường và sinh hoạt phí theo vùng, Ngân hàng Chính sách xã hội quy định mức vay cụ thể. Hiện nay, sinh viên có mức vay tối đa là 4 triệu đồng/tháng. Các quy định về lãi suất hỗ trợ vay vốn sinh viên, thời hạn cho vay đều được xác định rõ. Vào đầu mỗi năm học hàng năm, trung bình nhà trường có khoảng 50-70 sinh viên thuộc đối tượng được vay vốn đến Phòng xin xác nhận”, thầy Giang chia sẻ.
Theo thầy Giang, khi sinh viên có nhu cầu vay vốn đều là những sinh viên đang trong giai đoạn khó khăn về tài chính. Do đó, đánh giá mức vay và lãi suất cho vay hiện tại, thầy Giang cho rằng, đối với sinh viên, mức vay cao, lãi suất thấp sẽ càng thuận lợi. Tuy nhiên, việc xác định lãi suất vay cũng phải phụ thuộc vào thị trường nên rất khó để kiến nghị điều chỉnh.
Khó khăn lớn nhất hiện nay đối với sinh viên và nhà trường là việc làm hồ sơ xét duyệt cho sinh viên được vay vốn. Bởi vì, có sinh viên không nắm được các quy định, quy chế nên khâu làm giấy tờ, hồ sơ gặp nhiều vướng mắc; hay một số hộ gia đình có nhu cầu vay để lo cho con ăn học nhưng không tiếp cận được với nguồn vốn do gặp vấn đề về thủ tục.
Thầy Giang cũng cho biết thêm, quy định về thời gian trả nợ theo Ngân hàng Chính sách xã hội được chia thành các kỳ hạn. Tuy nhiên, đối với sinh viên vay vốn cho khoảng 4 năm học đại học, thời hạn cho vay lúc này nên quy định là 3 năm sau khi tốt nghiệp. Bởi vì, 1 năm đầu tiên sau khi ra trường, sinh viên cần phải tìm kiếm việc làm, 2 năm tiếp theo tập trung vào công việc thì mới có tài chính để trả nợ ngân hàng.
Để chính sách tín dụng cho sinh viên của Ngân hàng Chính sách xã hội mở rộng đối tượng được vay vốn, theo thầy Giang, quỹ vốn của Ngân hàng Chính sách xã hội dành cho sinh viên vay phải tăng lên.
Đồng thời, mong muốn của nhà trường, sinh viên và phụ huynh là phía Ngân hàng Chính sách xã hội cần tối ưu thủ tục làm hồ sơ, có hướng dẫn chi tiết, thống nhất, rõ ràng để gia đình sinh viên chuẩn bị hồ sơ được đầy đủ, nhanh chóng, dễ dàng và đơn giản.
Bên cạnh đó, trong báo cáo theo năm của Ngân hàng Chính sách xã hội cũng nên thống kê trong năm học vừa qua có bao nhiêu sinh viên của trường đã vay vốn để nhà trường nắm được. Điều này cũng góp phần giám sát việc thực hiện chính sách tín dụng cho sinh viên của Ngân hàng Chính sách xã hội.
Theo quy định tại Điều 2 Quyết định 157/2007/QĐ-TTg và khoản 1 Điều 1 Quyết định 05/2022/QĐ-TTg, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn theo học tại các cơ sở giáo dục đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp hoặc các cơ sở đào tạo nghề được thành lập và hoạt động theo quy định của pháp luật Việt Nam là đối tượng được hỗ trợ vay vốn sinh viên. Cụ thể như sau:
Sinh viên mồ côi cả cha lẫn mẹ hoặc chỉ mồ côi cha hoặc mẹ nhưng người còn lại không có khả năng lao động.
Sinh viên là thành viên của hộ gia đình thuộc một trong các đối tượng: Hộ nghèo theo chuẩn quy định của pháp luật; Hộ cận nghèo theo chuẩn quy định của pháp luật; Hộ có mức sống trung bình theo chuẩn quy định của pháp luật.
Sinh viên mà gia đình gặp khó khăn về tài chính do tai nạn, bệnh tật, thiên tai, hỏa hoạn, dịch bệnh trong thời gian theo học có xác nhận của Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi cư trú.
Mức lãi suất hỗ trợ vay vốn sinh viên được quy định tại Điều 7 Quyết định 157/2007/QĐ-TTg và khoản 2 Điều 1 Quyết định 853/2011/QĐ-TTg như sau:
Lãi suất cho vay ưu đãi đối với sinh viên là 0,65%/tháng
Lãi suất nợ quá hạn được tính bằng 130% lãi suất khi cho vay
Ngọc Mai
