Background on Southeast Asian Parenting: Helping Youth Succeed: Bicultural Parenting for Southeast Asian Families

University of Minnesota – Extension  

Background on Southeast Asian Parenting

Daniel Detzner, College of Human Ecology, University of Minnesota; Blong Xiong, College of Human Ecology, University of Minnesota; Patricia A. Eliason, General College, University of Minnesota

Reviewed April 2010 by the author (Daniel Detzner).

Eastern Values and Beliefs

To understand Southeast Asian parenting and chlld-rearing practices, we must first understand the cultural values and beliefs that influence parents, especially regarding family life and interpersonal relationships.

Traditionally, Southeast Asians tend to have a large extended family, usually up to three or four generations living together (Vandeusen et al., 1980). Nuclear families typically have four to eight children, depending on socioeconomic status and ethnic group. Tiếp tục đọc “Background on Southeast Asian Parenting: Helping Youth Succeed: Bicultural Parenting for Southeast Asian Families”

Nam quyền trong chế độ mẫu hệ ở Việt Nam

TS. LÝ TÙNG HIẾU (Khoa Văn hoá học, Trường Đại học KHXH & NV TP.HCM)

cropped-cropped-cropped-cropped-cropped-74146_546684182016722_1702640601_n21.jpg

CS – Ở Việt Nam, xét về văn hoá tổ chức đời sống cộng đồng dựa trên tương quan nam nữ, đang tồn tại cả ba chế độ gia đình phụ hệ, song hệ, và mẫu hệ, không kể những hình thức chuyển tiếp, tàn dư. Trong đó, phổ biến nhất là chế độ gia đình phụ hệ; từ người Việt đa số đến các tộc người thiểu số cư trú ở các vùng miền như Thái, Mường, Tày, Nùng, Dao, Mông, Brũ, Ta-ioh, Katu, Mạ, Stiêng, Hoa, v.v. đều theo chế độ gia đình phụ hệ từ lâu. Tiếp tục đọc “Nam quyền trong chế độ mẫu hệ ở Việt Nam”

Dân Ca Dân Nhạc VN – Dân ca La Hủ

Đọc các bài cùng chuỗi, xin click vào đây.

Chào các bạn,

Hôm nay mình giới thiệu đến các bạn Dân ca La Hủ.

Dân tộc La Hủ, còn có các tên gọi khác như Xá Lá Vàng, Cò Xung, Khù Sung, Khả Quy; trong đó La Hủ hay Ladhulsi (La Hủ tộc) hay Kawzhawd là những tên tự gọi. Tộc La Hủ sinh sống tại Trung Hoa, Việt Nam, Thái Lan, Myanma và Lào.

Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người La Hủ ở Việt Nam có dân số 9.651 người, cư trú tại 16 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố. Tuyệt đại đa số gười La Hủ cư trú tập trung tại tỉnh Lai Châu (9.600 người, chiếm 99,47% tổng số người La Hủ tại Việt Nam), ngoài ra còn có ở Thái Nguyên (20 người), các tỉnh còn lại có không nhiều hơn 10 người. Tiếp tục đọc “Dân Ca Dân Nhạc VN – Dân ca La Hủ”

Dân Ca Dân Nhạc VN – Dân ca La Ha

Đọc các bài cùng chuỗi, xin click vào đây.

Chào các bạn,

Tiếp theo Dân ca La Chí, mình giới thiệu đến các bạn Dân ca La Ha hôm nay.

Dân tộc La Ha có tên tự gọi: La Ha, Klá, Phlạo. Họ còn được gọi với một số tên khác nhau như: Xá Cha, Xá Bung, Xá Khao, Xá Táu Nhạ, Xá Poọng, Xá Uống, Bủ Hà, Pụa. Với các nhóm địa phương: La Ha cạn (Khlá Phlao), La Ha Nước (La Ha Củng). Tiếng La Ha thuộc nhóm ngôn ngữ Kadai của hệ ngôn ngữ Tai-Kadai.

Người La Ha có mặt sớm ở miền Tây Bắc Việt Nam. Theo những tài liệu chữ Thái cổ thì vào thế kỷ XI, XII khi người Thái Ðen thiên di tới vùng đất này, họ đã gặp tổ tiên của người La Ha hiện nay. Chính vì vậy, khi làm lễ cúng Mường, người Thái vẫn còn tục đặt cỗ “trâu trắng” để tế thần Im Poi – một thủ lĩnh nổi tiếng của người La Ha vào đầu thế kỷ XI. Tiếp tục đọc “Dân Ca Dân Nhạc VN – Dân ca La Ha”

Dân ca dân nhạc VN – Dân ca La Chí

Đọc các bài cùng chuỗi, xin click vào đây.

Chào các bạn,

Tiếp theo Dân ca Khơ Mú, mình giới thiệu đến các bạn Dân ca La Chí hôm nay.

Người La Chí là một tộc người sống ở miền núi phía Bắc Việt Nam từ lâu. Theo truyền thuyết của người La Chí thì họ là con cháu của Hoàng Dìn (Vần) Thùng là một Thổ Tù (Tù Trưởng) ở xã Tụ Long tỉnh Tuyên Quang từ cuối thế kỷ XVIII. Họ có tên tự gọi là: Cù tê. Các tên gọi khác: Thổ Ðen, Mán, Xá, La Quả.

Ngôn ngữ của người La Chí thuộc nhóm ngôn ngữ Ka Ðai (ngữ hệ Thái – Ka Ðai), cùng nhóm với tiếng La Ha, Cơ Lao, Pu Péo. Tiếp tục đọc “Dân ca dân nhạc VN – Dân ca La Chí”

Cung cách ngồi của người Việt xưa

DVCP – June 4, 2016

Như đã từng đề cập trong bài về sập, phản, chõng, người Việt thời xưa thường có thói quen ngồi rất đặc trưng và phổ biến: ngồi bệt – tức là ngồi trên một mặt phẳng có diện tích rộng như sập, phản hay sàn (trải chiếu). Dựa vào các tư liệu tranh ảnh và việc quan sát thói quen sinh họat người dân thời Lê, Nguyễn ta có thể thấy rõ điều này. Thường nhật khi ăn uống, nghỉ ngơi, giải trí v.v. người Việt đều ngồi trên sập, phản, có những dịp như khi ăn cỗ, ăn lễ thì người ta còn trải chiếu lên sàn đất, sàn gạch mà ngồi.

Dân ca dân nhạc VN – Dân ca Khơ Mú

Đọc các bài cùng chuỗi, xin click vào đây.

Chào các bạn,

Tiếp theo Dân ca Khmer, mình giới thiệu đến các bạn Dân ca Khơ Mú hôm nay.

Người Khơ Mú (tên gọi khác: Xá Cẩu, Mứn Xen, Pu Thênh, Tềnh, Tày Hạy), tiếng Thái: กำหมุ hay กำมุ, là một trong những nhóm sắc tộc lớn nhất sinh sống tại khu vực miền bắc Lào. Họ cũng có thể thấy tại Myanma, Tây nam Trung Hoa (trong châu tự trị Tây Song Bản Nạp thuộc tỉnh Vân Nam), Thái Lan, Việt Nam.

Tại Việt Nam, họ được công nhận là một trong số 54 dân tộc của Việt Nam, tuy nhiên tại Trung Hoa thì họ lại không được công nhận chính thức như là một dân tộc tách biệt mà được đặt trong một thể loại rộng là các nhóm sắc tộc không phân loại. Ngôn ngữ của họ là tiếng Khơ Mú, một ngôn ngữ trong ngữ tộc Môn-Khmer của ngữ hệ Nam Á. Tiếp tục đọc “Dân ca dân nhạc VN – Dân ca Khơ Mú”

Dân ca dân nhạc VN – Dân ca Khmer

Đọc các bài cùng chuỗi, xin click vào đây.

Chào các bạn,

Tiếp theo Dân ca Kháng, mình giới thiệu đến các bạn Dân ca Khmer hôm nay.

Đặc biệt mình riêng tặng bài này cho gia đình dòng tộc bên Nội của mình.

Người Khmer (hay còn gọi là Khmer Krom, Khơ Me K’rôm, Khơ-me Crộm, Khơ-me hạ, Khơ-me dưới) là bộ phận dân tộc Khmer sống ở đồng bằng sông Cửu Long Việt Nam. Danh từ này có thời gọi là người Việt gốc Miên.

Người Khmer có rất nhiều họ khác nhau. Những họ do triều Nguyễn trước đây đặt ra như: Danh, Kiên, Kim, Sơn, Thạch. Những họ tiếp thu từ người Việt và người Hoa như: Trần, Nguyễn, Dương, Trương, Mã, Lý… Lại có những họ thuần tuý Khmer như U, Khan, Khum. Tiếp tục đọc “Dân ca dân nhạc VN – Dân ca Khmer”

Dân ca dân nhạc VN – Dân ca Kháng

Đọc các bài cùng chuỗi, xin click vào đây.

Chào các bạn,

Tiếp theo Dân ca Hrê, mình giới thiệu đến các bạn Dân ca Kháng hôm nay.

Dân tộc Kháng, tên tự gọi: Mơ Kháng, còn có các tên gọi khác là: Xá Khao, Xá Xúa, Xá Đôn, Xá Dâng, Xá Hộc, Xá Ái, Xá Bung, Quảng Lâm, Háng, Xá, Brển.

Nhóm địa phương: Kháng Dẩng, Kháng Hoặc, Kháng Dón, Kháng Súa, Ma Háng, Bư Háng, Ma Háng Bẻng, Bư Háng Cọi… ở Sơn La cư trú tại các huyện Mường La, Quỳnh Nhai, Thuận châu. Tiếng Kháng thuộc nhóm ngôn ngữ Môn – Khơ me, ngữ hệ Nam Á. Người Kháng chưa có chữ viết riêng.

Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người Kháng ở Việt Nam có dân số 13.840 người, cư trú tại 25 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố. Người Kháng cư trú tập trung tại các tỉnh: Sơn La (8.582 người, chiếm 62,0% tổng số người Kháng tại Việt Nam), Điện Biên (4.220 người, chiếm 30,5% tổng số người Kháng tại Việt Nam), Lai Châu (960 người). Tiếp tục đọc “Dân ca dân nhạc VN – Dân ca Kháng”

Về lịch sử người Minh Hương và người Hoa ở Nam bộ

Nguyễn Đức Hiệp

Đình Minh Hương Gia Thạnh, số 380 đường Trần Hưng Đạo, phường 11, quận 5, thành phố Hồ Chí Minh.

Trong lịch sử khẩn hoang ở Nam bộ, sự đóng góp của người Minh Hương và Hoa từ xưa đến nay về kinh tế, văn hóa thật là to lớn. Bao nhiêu danh nhân Việt nam trong lịch sử là có gốc Minh Hương, từ Trịnh Hoài Đức, Ngô Nhân Tịnh, Võ Tánh, Ngô Tùng Châu, Châu Văn Tiếp, Phan Thanh Giản, Phan Xích Long.. đến những nhân vật có tên tuổi trong văn hóa nghệ thuật gần đây như Hồ Dzếnh, Trịnh Công Sơn, Vương Hồng Sển, Lý Lan… Họ đã hòa nhập thành người Việt. Đã có nhiều tư liệu viết về Mạc Cửu và xứ Hà Tiên, với văn học Hà Tiên độc đáo, đỉnh cao của người Minh Hương đến khai khẩn Nam bộ. Ở đây tôi sẽ chú trọng về người Minh Hương và Hoa ở những vùng khác trên Nam bộ, chủ yếu là vùng Đồng Nai-Gia Định. Tiếp tục đọc “Về lịch sử người Minh Hương và người Hoa ở Nam bộ”

Hồi giáo của người Chăm ở Việt Nam – Những yếu tố bản địa

TCNVVH – NGUYỄN THỊ THANH VÂN 

Tóm tắt

Người Chăm là dân tộc duy nhất ở Việt Nam theo Hồi giáo. Hồi giáo thế giới có những luật lệ khắt khe nhưng khi du nhập vào cộng đồng người Chăm nó đã bị biến đổi rất nhiều và mang đậm tính nhân văn tộc người bởi sức sống mãnh liệt của truyền thống văn hóa bản địa. Đó chính là đặc trưng văn hóa Chăm – Nền văn hóa gắn liền và bị chi phối một cách mạnh mẽ bởi sự đan xen và dung hòa của tín ngưỡng và tôn giáo.

Người Chăm ở Ninh Thuận

Tiếp tục đọc “Hồi giáo của người Chăm ở Việt Nam – Những yếu tố bản địa”

Lái xe trên đất Lào 

27/04/2016 16:02 GMT+7

TTCTMột hình ảnh rất khó tin xảy ra trên đường sá Việt Nam nhưng lại quá bình thường ở Lào: hai chiếc xế hộp mới cáu qua đường sơ ý phang nhau cái rầm. Hai tài xế bình thản tháo dây đai, cùng vào lề đường ngồi nói chuyện trong hòa bình!

Lái xe trên đất Lào 
Đường phố Vientiane đông đúc người xe nhưng luôn trật tự-GIA TIẾN

Tiếp tục đọc “Lái xe trên đất Lào “

Dân ca Dân nhạc VN – Dân ca Hrê (H’rê)

Đọc các bài cùng chuỗi, xin click vào đây.

Chào các bạn,

Tiếp theo Dân ca Hoa, mình giới thiệu đến các bạn Dân ca Hrê.

Dân tộc Hrê còn có tên gọi khác là Chăm Rê, Chom Krẹ, Lùy. Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Môn – Khơ Me, ngữ hệ Nam Á.

Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người Hrê ở Việt Nam có dân số 127.420 người, cư trú tại 51 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố. Người Hrê cư trú tập trung tại các tỉnh: Quảng Ngãi (115.268 người, chiếm 90,5% tổng số người Hrê tại Việt Nam), Bình Định (9.201 người), Kon Tum (1.547 người), Đắk Lắk (341 người), Gia Lai (128 người),

Người Hrê làm lúa nước từ lâu đời, kỹ thuật canh tác lúa nước của người Hrê tương tự như vùng đồng bằng Nam Trung bộ. Người Hrê chăn nuôi trước hết nhằm phục vụ các lễ cúng bái, riêng trâu còn được dùng để kéo cày, bừa. Nghề đan lát, dệt khá phát triển, nhưng nghề dệt đã bị mai một qua mấy chục năm gần đây. Tiếp tục đọc “Dân ca Dân nhạc VN – Dân ca Hrê (H’rê)”

Dân ca Dân nhạc VN – Dân ca Hoa

Đọc các bài cùng chuỗi, xin click vào đây.

Chào các bạn,

Tiếp theo Dân ca Hà Nhì, hôm nay mình giới thiệu đến các bạn Dân ca Hoa.

Dân tộc Hoa (Trung văn giản thể: 华; Trung văn phồn thể: 華) là những người gốc Trung Hoa định cư ở Việt Nam và đa số có quốc tịch Việt Nam. Các tên gọi khác: Khách Trú, người Hán, người Tàu, Ba Tàu. Nếu xếp theo phân loại của nước Trung Hoa hiện thời thì họ là dân tộc Hán. Đây là một trong các dân tộc tại Việt Nam có dân số giảm trong 10 năm (1999-2009) theo số liệu của Tổng cục Thống kê Việt Nam. Tiếp tục đọc “Dân ca Dân nhạc VN – Dân ca Hoa”

Dân ca dân nhạc VN – Dân ca Hà Nhì

Đọc các bài cùng chuỗi, xin click vào đây.

Chào các bạn,

Tiếp theo Dân ca Gié Triêng, mình giới thiệu đến các bạn Dân ca Hà Nhì hôm nay.

Người Hà Nhì (tên tự gọi: Haqniq, tiếng Hán: 哈尼族 Hānízú, Cáp Nê tộc), tên gọi khác: U Ní, Xá U Ní là một trong 54 dân tộc sống trên đất nước Việt Nam.

Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người Hà Nhì ở Việt Nam có dân số 21.725 người, cư trú tại 32 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố. Người Hà Nhì cư trú tập trung tại các tỉnh: Lai Châu (13.752 người, chiếm 63,3% tổng số người Hà Nhì tại Việt Nam), Lào Cai (4.026 người), Điện Biên (3.786 người), gồm 3 nhóm địa phương: Cồ Chồ, Là Mi và Hà Nhì Đen. Tiếp tục đọc “Dân ca dân nhạc VN – Dân ca Hà Nhì”