“Bắt cóc online” – Hiểm họa rình rập trẻ em trên không gian mạng 

  • DTvPT “Bắt cóc Online”: Từ cú điện thoại đến hiểm họa khôn lường
  • TPOChuyên gia tội phạm học bày cách lật tẩy kẻ lừa đảo ‘bắt cóc online, dụ dỗ bỏ nhà’
  • NDQuyết liệt bảo vệ trẻ em trên môi trường mạng xã hội

***

“Bắt cóc Online”: Từ cú điện thoại đến hiểm họa khôn lường

DTvPT – Hồng Phúc – 18:02, 28/07/2025

Trong thời đại số, mạng xã hội không chỉ là công cụ kết nối mà còn trở thành nơi ẩn nấp lý tưởng cho những kẻ có hành vi xâm hại, bắt cóc trẻ em. Chỉ với vài tin nhắn làm quen, một cuộc gọi video, hay lời hứa hẹn ngọt ngào, nhiều đứa trẻ đã tự ý rời khỏi nhà để gặp người lạ. Những kẻ bắt cóc giờ đây không cần rình rập ngoài cổng trường, bởi chúng đã có “chìa khóa” tiếp cận nạn nhân ngay từ chiếc điện

Nữ sinh Q. thời điểm được Công an TP.HCM giải cứu khi đang tự nhốt mình vì tưởng đang phối hợp với cơ quan Công an

 Bắt cóc không cần chạm mặt

Tối 25/7, Đội Đặc nhiệm – Đội 2, Phòng Cảnh sát Hình sự Công an TP.HCM đã tìm thấy nữ sinh ở một khách sạn trong trạng thái hoảng loạn, đưa về nhà. 

Được biết, trưa cùng ngày, mẹ nữ sinh này đã đến Công an phường Hòa Hưng (TP.HCM) trình báo con gái mất liên lạc sau khi nghe điện thoại của người lạ và xin ra ngoài. Vài giờ sau, tài khoản Zalo của nữ sinh nhắn về nói cô bị “giang hồ” bắt cóc, chuẩn bị đưa sang Campuchia, yêu cầu gia đình chuyển 150 triệu đồng tiền chuộc. Người mẹ hoảng sợ, chuyển trước 17 triệu đồng nhưng không được gặp con.

Trước đó, nữ sinh bị một đối tượng giả danh công an gọi điện, dọa rằng thông tin cá nhân của em bị lộ, liên quan đến vụ rửa tiền. Để chứng minh vô tội, em phải chuyển tiền và giữ bí mật tuyệt đối. Các đối tượng yêu cầu nữ sinh liên tục thay đổi chỗ ở, thuê khách sạn một mình để dễ kiểm soát.

Còn nhớ vụ việc ngày 22/7, Công an phường Ô Chợ Dừa, TP. Hà Nội, đã kịp thời ngăn chặn vụ lừa đảo, giả danh Công an đe dọa 1 nữ sinh nhằm thực hiện việc “bắt cóc Online”.

Theo đó, ông L.H.T. đã trình báo công an về việc cháu họ ông là cháu M. (SN 2006; sinh viên đại học) bị bắt cóc, tống tiền. Ông T. cho biết, khoảng 10 giờ cùng ngày, mẹ của cháu ở quê gọi điện cho ông thông báo về việc cháu M. gọi về gia đình qua Zalo cho biết, mình bị bắt cóc và cho xem video trên người cháu có nhiều vết thương. Theo cháu M., gia đình phải chuyển khoản 370 triệu đồng cho các đối tượng, nếu không M. sẽ bị “chặt ngón tay”.

Chỉ sau khoảng 1 giờ nhận tin báo, Công an phường Ô Chợ Dừa đã nhanh chóng tìm được em M. đang ở một mình tại một khách sạn trên đường La Thành và đưa về trụ sở để làm rõ. Tại cơ quan Công an, em M. cho biết bị một nhóm người tự xưng Công an gọi điện thông báo em M. liên quan đến hoạt động rửa tiền và buôn bán chất cấm. 

Các đối tượng yêu cầu em phải chuyển tiền vào tài khoản để phục vụ công tác điều tra. Do em M. không có tiền, các đối tượng hướng dẫn em phải tìm chỗ kín đáo để vẽ lên mặt, người các vết thương giống như bị đánh gây ra, rồi liên hệ về gia đình báo mình bị bắt cóc và yêu cầu gia đình chuyển tiền chuộc mới được thả.

Trẻ em nước ta có điện thoại sớm hơn 4 năm so với trẻ em trên thế giới

Hai vụ việc kể trên chỉ là lát cắt nhỏ trong hàng loạt chiêu thức “bắt cóc Online” đang âm thầm lan rộng, với kịch bản ngày càng tinh vi. Nạn nhân chủ yếu là học sinh, sinh viên – những người chưa có đủ kỹ năng tự vệ trên môi trường số, dễ tin người, dễ hoảng loạn khi bị dọa dẫm.

Theo khảo sát của Google thực hiện năm 2022, độ tuổi trung bình trẻ em Việt Nam sở hữu điện thoại di động là 9, trên thế giới là 13. Nghĩa là trẻ em nước ta có điện thoại sớm hơn 4 năm so với trẻ em trên thế giới. Những con số này, là hồi chuông cảnh báo về mức độ tiếp xúc sớm và thường xuyên của trẻ với không gian mạng nơi tiềm ẩn hàng loạt cạm bẫy nguy hiểm.

Không gian mạng an toàn cho trẻ – Trách nhiệm không của riêng ai

Từ thực tế, có thể thấy, đối tượng bị nhắm tới phần lớn là học sinh, sinh viên và người trẻ ít kinh nghiệm sống. Các em dễ bị tổn thương hơn nếu thiếu sự quan tâm từ gia đình, có tâm lý nổi loạn hoặc từng bị lạm dụng. Với đặc điểm tâm lý tuổi mới lớn, các em rất tò mò, thích khám phá nhưng thiếu kinh nghiệm sống và kỹ năng nhận diện nguy cơ. Trong khi đó, nhiều gia đình lại buông lỏng giám sát, gần như “giao phó con cho điện thoại thông minh” mà không hề biết con đang nói chuyện với ai.

Sức hút từ thế giới ảo – nơi có thần tượng, bạn bè, người lạ luôn sẵn sàng lắng nghe – khiến không ít trẻ sống thu mình, giấu bí mật với cha mẹ, trong khi lại dễ mở lòng với người lạ. Đó chính là kẽ hở để tội phạm công nghệ thâm nhập và thao túng.

Thượng tá, Tiến sĩ Đào Trung Hiếu trong một buổi chia sẻ với trẻ em về kỹ năng sử dụng mạng xã hội an toàn

Điểm đáng lo ngại không chỉ nằm ở việc trẻ bị dụ ra khỏi nhà, mà còn ở việc chính các em trở thành công cụ để lừa lại người thân – quay video giả vết thương, đọc lời khai theo kịch bản, nói dối cha mẹ về tình trạng của mình. Từ chỗ là nạn nhân, các em bị “điều khiển từ xa”, hoàn toàn mất kiểm soát, bởi niềm tin rằng mình đang “bị điều tra” hoặc “liên quan tội phạm”.

Về hiện tượng này, Thượng tá, Tiến sĩ Đào Trung Hiếu phân tích, hiện nay, các vụ “bắt cóc Online” không còn đơn thuần là những lời dụ dỗ ngây ngô qua tin nhắn, mà đã được “nâng cấp” thành các kịch bản tinh vi, kết hợp giữa công nghệ cao và thao túng tâm lý. Tội phạm có thể giả danh người quen trên mạng xã hội để rủ trẻ đi chơi, rồi thực hiện hành vi bắt cóc ngoài đời thật.

Chúng cũng thường xuất hiện dưới vỏ bọc người nổi tiếng trong Game, Livestream, hứa tặng quà hay vật phẩm ảo để lôi kéo nạn nhân gặp mặt trực tiếp. Gần đây, hình thức giả mạo cuộc gọi video, sử dụng Deepfake, thậm chí giả giọng khóc để đe dọa cha mẹ, tạo ra các tình huống “con bị bắt cóc” rồi tống tiền, dù thực tế không hề có vụ bắt cóc đang ngày càng phổ biến.

Ngoài ra, một số đối tượng còn dẫn dụ trẻ em vào các nhóm kín như Telegram, Discor… để làm quen, kiểm soát và thao túng, dần dần đưa các em rời khỏi vòng kiểm soát của gia đình.

Để phòng ngừa loại tội phạm này, Thượng tá, Tiến sĩ Đào Trung Hiếu cho rằng, trước hết gia đình cần thiết lập sự gắn bó và tin tưởng với con cái, tránh để trẻ cô đơn trong thế giới số. Trẻ cần được trang bị kỹ năng nhận diện rủi ro trên mạng, cách từ chối và cầu cứu người lớn khi cần thiết. Nhà trường cũng phải vào cuộc mạnh mẽ hơn, bằng việc đưa giáo dục kỹ năng số vào các buổi sinh hoạt lớp, tổ chức chuyên đề với Công an hoặc chuyên gia. 

Đồng thời, việc phát hiện sớm những học sinh có dấu hiệu lệ thuộc mạng xã hội, sống khép kín cũng rất quan trọng. Về phía cơ quan chức năng, cần tăng cường truy vết, xử lý các đường dây lừa đảo trẻ em qua mạng, đồng thời phối hợp với các nền tảng số để kiểm soát nội dung, cảnh báo rủi ro và giới hạn độ tuổi truy cập một cách thực chất.

Có thể thấy  “bắt cóc Online” không còn là một khái niệm mơ hồ, mà là hiểm họa có thật, tinh vi và khó lường. Trẻ em với sự non nớt và nhạy cảm sẽ tiếp tục là nạn nhân nếu không được trang bị “lá chắn số” vững vàng từ gia đình, nhà trường và toàn xã hội.

***

Chuyên gia tội phạm học bày cách lật tẩy kẻ lừa đảo ‘bắt cóc online, dụ dỗ bỏ nhà’

Thanh Hà, 31/07/2025 08:18

TPO – Dù cơ quan chức năng đã có hàng loạt cảnh báo song tội phạm “bắt cóc online” vẫn nở rộ, khai thác vào tâm lý sợ hãi, thiếu kỹ năng phản biện và sự cô lập trong thế giới số của giới trẻ.

Tiến sĩ Đào Trung Hiếu – Chuyên gia tội phạm học.

Thời gian qua, liên tiếp các vụ việc học sinh, sinh viên bị các đối tượng giả danh cán bộ Công an gọi điện thông báo hợp tác điều tra do liên quan đến vụ án, đồng thời yêu cầu đến nhà nghỉ, khách sạn để phục vụ công tác điều tra với mục đích “bắt cóc online” chiếm đoạt tiền từ gia đình. Phóng viên đã có cuộc trao đổi với Tiến sĩ Đào Trung Hiếu – Chuyên gia tội phạm học xung quanh vấn đề trên.

Vì sao nạn nhân dễ tin vào kẻ giả danh Công an

Phóng viên: Thủ đoạn giả danh Công an để “bắt cóc online” nhắm vào học sinh, sinh viên nhằm chiếm đoạt tài sản đang ‘nở rộ’ trong thời gian qua. Vậy điều gì đã khiến các em dễ tin vào kẻ mạo danh như vậy, thưa ông?

Tiến sĩ Đào Trung Hiếu: Tâm lý của học sinh – sinh viên là sợ quyền lực, nể danh tiếng và thiếu khả năng kiểm chứng thực tế. Khi một người xưng danh Công an, nói giọng nghiêm nghị, dùng từ chuyên môn, đe dọa về “hồ sơ”, “đường dây rửa tiền”, “có lệnh triệu tập”… thì nạn nhân lập tức rơi vào trạng thái hoảng loạn – đó là phản ứng tâm lý thu mình vì sợ bị trừng phạt.

Các đối tượng thường dùng kịch bản mồi dẫn như: “Em có liên quan đến một vụ án”, “Chúng tôi cần xác minh tài khoản của em có bị hacker lợi dụng hay không”, “Chuyển tiền vào tài khoản của cơ quan để chứng minh em vô tội”… Lúc đó, nếu nạn nhân thiếu tỉnh táo và không dám chia sẻ với người thân, bạn bè, thì một mình trong sợ hãi sẽ dẫn đến hành vi phi lý – chuyển tiền, gửi ảnh CCCD, thậm chí bỏ nhà ra đi.

Nhưng rõ ràng học sinh – sinh viên hiện nay tiếp cận internet rất nhanh, đọc báo, xem tin tức liên tục. Tại sao dù đã có nhiều cảnh báo, các em vẫn là nhóm dễ bị lừa đảo nhất, thưa ông?

Tiến sĩ Đào Trung Hiếu: Bởi sự phát triển nhận thức không đồng đều với khả năng phản biện. Trẻ có thể thông minh về kỹ thuật, giỏi thao tác công nghệ, nhưng lại non nớt về tâm lý và dễ tin người – nhất là những gì mang tính quyền lực hoặc cấp bách.

Ngoài ra, tâm lý “chắc không đến lượt mình”, hoặc “tin nhưng không hiểu cơ chế hoạt động của lừa đảo”, khiến các em không tạo sẵn rào chắn đề kháng nhận thức. Nhiều em thấy vụ việc qua báo chí, nhưng không biết đối tượng đã tiếp cận mình bằng hình thức tương tự – vì nó được ngụy trang rất khéo.

Hơn nữa, sự thiếu gắn kết với người thân, không có kênh chia sẻ đáng tin cậy, khiến khi rơi vào tình huống nghi ngờ – các em chọn cách đối diện một mình, dễ hoảng loạn và làm theo hướng dẫn của kẻ xấu.

Tiến sĩ Đào Trung Hiếu.

Cách nhận biết kẻ giả mạo Công an

Vậy làm sao để phân biệt giữa một cán bộ Công an thật và một kẻ mạo danh qua điện thoại hoặc mạng xã hội?

Tiến sĩ Đào Trung Hiếu: Nguyên tắc đầu tiên: Công an không làm việc qua mạng xã hội, không gửi “Zalo mời lên làm việc”, không yêu cầu chuyển tiền để xác minh.

Nếu có cán bộ thật gọi điện, họ sẽ: Xưng đầy đủ họ tên, cấp bậc, đơn vị; Có văn bản, giấy triệu tập đúng mẫu, đóng dấu đỏ; Làm việc tại trụ sở hoặc thông báo rõ ràng.

Trong khi đó, đối tượng lừa đảo thường che giấu thông tin thật, dùng số lạ, gửi link lạ, đòi “kết nối camera giám sát”, yêu cầu chụp CCCD, gấp rút chuyển tiền, hoặc dọa “nếu không làm theo sẽ bị bắt”.

Khi nhận cuộc gọi nghi ngờ, học sinh cần giữ bình tĩnh – ngắt liên lạc – báo với người thân – gọi công an địa phương để xác minh. Không làm theo bất kỳ yêu cầu nào trước khi có người lớn hỗ trợ.

Lời khuyên ông muốn gửi đến phụ huynh và học sinh – sinh viên trong bối cảnh tội phạm mạng ngày càng tinh vi?

Tiến sĩ Đào Trung Hiếu: Công nghệ không phải là kẻ thù, nhưng sự cả tin, thiếu hiểu biết và ngộ nhận về an toàn mới là lỗ hổng chết người. Chúng ta không thể cấm học sinh dùng mạng xã hội, nhưng phải trang bị cho các em “hệ miễn dịch kỹ thuật số” – bao gồm kiến thức, kỹ năng và cơ chế ứng phó.

Phụ huynh hãy đồng hành cùng con thay vì kiểm soát cứng nhắc. Nhà trường hãy chủ động giáo dục kỹ năng sống số như một môn học bắt buộc. Cơ quan chức năng cần xây dựng kênh tiếp nhận tố giác thân thiện, dễ tiếp cận với học sinh – sinh viên.

Chỉ khi mọi tầng lớp xã hội cùng vào cuộc, thì tội phạm công nghệ cao – dù có ngụy trang bao nhiêu lớp – cũng không thể bắt được con em chúng ta ngay trên nền tảng chúng sử dụng mỗi ngày.

Tin nhắn kẻ “bắt cóc online” gửi gia đình đòi tiền chuộc.

Kỹ thuật thao túng điển hình, gọi là “grooming”

Cách đây ít ngày, vụ việc một nữ sinh lớp 6 ở Hà Nội vừa bị dụ dỗ bỏ nhà đi chơi, thậm chí sang Campuchia, rồi may mắn được tìm thấy ở TP.HCM khiến nhiều gia đình tỏ ra lo lắng. Dưới góc độ tội phạm học, ông lý giải ra sao về thủ đoạn và cách thức thao túng nạn nhân trong vụ việc này?

Tiến sĩ Đào Trung Hiếu: Đây là một điển hình của hành vi dụ dỗ trẻ em vượt biên vì mục đích bất minh, vốn đang ngày càng gia tăng dưới hình thức “phi truyền thống” – tức là không bắt cóc bằng vũ lực, mà thao túng bằng tâm lý qua mạng.

Kẻ xấu không cần gặp mặt, không cần dùng súng, dao hay xe chở, mà chỉ cần một tài khoản mạng xã hội với danh tính giả, một chuỗi tin nhắn lôi kéo và một kịch bản đánh vào tâm lý yếu điểm của trẻ: đó có thể là sự tò mò, cô đơn, ham muốn đổi đời hoặc tâm lý nổi loạn.

Thủ đoạn điển hình là giả làm người thân quen, thần tượng, bạn trai, nhà tuyển dụng, hoặc “cơ hội đi du học, làm việc lương cao ở nước ngoài”. Quá trình tiếp cận ban đầu thường rất nhẹ nhàng, nuôi dưỡng cảm xúc tích cực. Kẻ xấu chủ động tạo niềm tin, khen ngợi, lắng nghe, chăm sóc… sau đó dần tách trẻ ra khỏi hệ giá trị của gia đình – nhà trường, bằng cách gieo vào đầu nạn nhân suy nghĩ: “Ba mẹ không hiểu em”, “Ở đây em chẳng có tương lai”, “Anh sẽ lo cho em”, “Chỉ cần em đi theo anh là đủ”.

Đây là kỹ thuật thao túng điển hình, gọi là “grooming” – mồi chài tâm lý trẻ vị thành niên, vốn rất phổ biến trong các đường dây buôn người xuyên quốc gia, buôn bán nội tạng hoặc xâm hại tình dục trẻ em.

Bé gái 13 tuổi bị người lạ quen qua mạng rủ từ Hà Nội vào miền Nam chơi, thậm chí là chuyến đi sang Campuchia.

Dấu hiệu trẻ đang bị kẻ xấu dụ dỗ

Vậy, dấu hiệu nào cho thấy một đứa trẻ đang bị kẻ xấu dụ dỗ rời khỏi gia đình với mục đích không minh bạch, thưa ông?

Tiến sĩ Đào Trung Hiếu: Dễ nhận thấy nhất là sự thay đổi hành vi, cảm xúc và thói quen sử dụng thiết bị số. Trẻ bắt đầu giấu giếm nội dung trò chuyện, đổi mật khẩu, lén lút nhắn tin về đêm, hoặc có những câu nói lạ lùng như: “Ở đây chán quá”, “Con muốn đi thật xa”, “Có người sẵn sàng đón con ở nơi khác”…

Ngoài ra, trẻ có xu hướng giấu hành lý nhỏ, chuẩn bị tiền bạc hoặc vật dụng cá nhân, đôi khi vẽ ra “một tương lai lý tưởng” ở nơi xa xôi – dù chưa từng trao đổi với bố mẹ. Trong nhiều trường hợp, các em bị kẻ xấu tiêm vào đầu sự sợ hãi, như: “Nếu con nói ra, họ sẽ bắt cha mẹ con”, hoặc ngược lại, vẽ ra thiên đường: “Chỉ cần con đi, đời con sẽ khác”…

Khi thấy con tách biệt với gia đình, cắt liên lạc với bạn bè, thần tượng ai đó không rõ danh tính trên mạng, hoặc bỗng dưng có nhu cầu ra ngoài, đi xa một cách bất thường, thì cha mẹ và giáo viên cần ngay lập tức cảnh giác.

Qua vụ việc thì trách nhiệm của phụ huynh và nhà trường trong việc sử dụng mạng xã hội, điện thoại thông minh của trẻ cần được nhìn nhận ra sao để phòng ngừa hiệu quả?

Tiến sĩ Đào Trung Hiếu: Đã đến lúc chúng ta không thể giao điện thoại cho trẻ như một công cụ “giữ con im lặng”, mà phải hiểu rằng thiết bị thông minh là con dao hai lưỡi. Nếu không đi kèm định hướng và giám sát, thì chính cha mẹ đang mở cửa cho kẻ xấu tiếp cận con mình.

Gia đình cần đặt ra quy tắc rõ ràng về việc sử dụng thiết bị số, như: thời lượng, ứng dụng được phép cài đặt, quyền kiểm tra định kỳ, lịch sử tin nhắn, truy cập tài khoản mạng xã hội của con… Không nên đánh đồng việc “tôn trọng quyền riêng tư” với “phó mặc hoàn toàn”. Với trẻ dưới 16 tuổi, quyền riêng tư phải đi kèm quyền được bảo vệ.

Bên cạnh đó, nhà trường cần xem an toàn mạng xã hội là nội dung bắt buộc trong chương trình kỹ năng sống, tổ chức các buổi tập huấn, nói chuyện chuyên đề có sự tham gia của công an, chuyên gia tâm lý. Không chỉ dừng lại ở khẩu hiệu “hãy cẩn thận trên mạng”, mà cần diễn tập các tình huống cụ thể, nhận diện thủ đoạn thật – giả, để học sinh có phản xạ nhận biết và phản ứng đúng.

***

Quyết liệt bảo vệ trẻ em trên môi trường mạng xã hội

Trước những hệ lụy ngày càng rõ rệt từ mạng xã hội đối với trẻ em, nhiều quốc gia đã áp dụng các biện pháp nghiêm ngặt, trong đó có lệnh cấm sử dụng với người dưới 16 tuổi. Việt Nam dù đã có hệ thống pháp lý tương đối đầy đủ, nhưng thực tiễn đang đặt ra yêu cầu phải hành động quyết liệt và toàn diện. 

ND – Thứ Hai, ngày 21/04/2025 – 06:30

Các em nhỏ tại điểm trường Hát Khoang (xã Mường Mùn, huyện Tuần Giáo, tỉnh Điện Biên). (Ảnh minh họa: THỦY NGUYÊN)
Các em nhỏ tại điểm trường Hát Khoang (xã Mường Mùn, huyện Tuần Giáo, tỉnh Điện Biên). (Ảnh minh họa: THỦY NGUYÊN)

Nguy cơ hiện hữu

Tác động tiêu cực của mạng xã hội tới trẻ em không còn là vấn đề xa lạ. Thực tế tại nhiều quốc gia trong đó có Việt Nam cho thấy mức độ tổn thương ngày càng lớn khi trẻ em tiếp xúc quá sớm với các nền tảng số thiếu kiểm soát.

Nghiên cứu năm 2020 của Tổ chức Plan International cho thấy tỷ lệ học sinh bị bắt nạt trên mạng tăng từ 12% vào năm 2016, lên 18% vào năm 2020; hơn 50% số trẻ em vị thành niên tại Việt Nam bị bắt nạt trực tuyến.

Các quốc gia như Pháp, Na Uy, Đức, Bỉ, Italia… đã áp dụng quy định giới hạn độ tuổi sử dụng mạng xã hội. Đặc biệt, cuối năm 2024, Australia trở thành nước đầu tiên thông qua luật cấm trẻ em dưới 16 tuổi tiếp cận các nền tảng này.

Thạc sĩ Nguyễn Thúy Quỳnh, giảng viên Khoa Tâm lý giáo dục, Trường đại học Sư phạm Hà Nội nhận định, khi áp dụng lệnh cấm, chính phủ Australia có những căn cứ chỉ ra tác động tiêu cực của mạng xã hội đến trẻ em dưới 16 tuổi. Việc áp dụng lệnh cấm này trên cơ sở đã nghiên cứu kỹ càng về mặt tâm lý-xã hội, có sự thử nghiệm và kiểm chứng cụ thể về hiệu quả. Đây được coi là một biện pháp cần để bảo vệ trẻ em trong môi trường số nhiều nguy cơ độc hại hiện nay.

Việt Nam có hơn 70 triệu tài khoản mạng xã hội, trong đó một phần ba là người chưa thành niên. Điều này đồng nghĩa với việc trẻ em phải đối mặt rất nhiều nguy cơ, đặt ra thách thức lớn cho công tác bảo vệ.

Trung tá Phí Văn Thanh, Cục An ninh mạng và Phòng chống tội phạm sử dụng công nghệ cao, Bộ Công an

Theo thống kê của Bộ Công an, tội phạm ở độ tuổi vị thành niên đang có dấu hiệu gia tăng; trung bình mỗi năm, cả nước có khoảng 13.000 trường hợp người vị thành niên vi phạm pháp luật. Tội phạm là người dưới 18 tuổi ngày càng trẻ hóa. Nguy hiểm hơn những hành vi này còn được các đối tượng đăng tải trên các trang mạng xã hội, coi đó như những chiến tích để khoe khoang, thách thức pháp luật.

Trung tá Phí Văn Thanh, Cục An ninh mạng và Phòng chống tội phạm sử dụng công nghệ cao, Bộ Công an cho biết, là quốc gia đứng thứ 16 thế giới về tỷ lệ người dùng internet, Việt Nam có hơn 70 triệu tài khoản mạng xã hội, trong đó một phần ba là người chưa thành niên. Điều này đồng nghĩa với việc trẻ em phải đối mặt rất nhiều nguy cơ, đặt ra thách thức lớn cho công tác bảo vệ.

Từ cơ chế chính sách đến hành động của doanh nghiệp

Tại Việt Nam đã có nhiều quy định quan tâm đến việc bảo vệ trẻ em trên môi trường mạng với khung pháp lý khá đầy đủ như: Luật Trẻ em, Luật An ninh mạng; mới đây nhất là Nghị định số 147/2024/NĐ-CP về quản lý cung cấp, sử dụng dịch vụ internet và thông tin trên mạng… Các quy định nêu ra trong các văn bản pháp luật rõ ràng, chặt chẽ, đầy đủ trách nhiệm của các chủ thể liên quan.

Tuy vậy, thực tế triển khai đòi hỏi chúng ta cần hành động quyết liệt hơn. Đơn cử như quy định người dùng dưới 16 tuổi sẽ không được phép tự đăng ký tài khoản mạng xã hội, đặt ra bài toán làm sao bảo đảm các nền tảng xác minh độ tuổi chính xác.

Ông Phan Phú Thuận, chuyên gia An ninh mạng, FPT Smart Cloud – thành viên Tập đoàn FPT cho rằng: Xác thực qua số điện thoại là bước đầu tiên cần thiết, nhưng chưa đủ để chắc chắn về tuổi thật của người dùng. Chúng ta cần xây dựng một hệ thống kiểm tra tuổi nhiều lớp, kết nối với cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư và căn cước công dân để bảo đảm thông tin chính xác và đồng nhất. Hệ thống này nên linh hoạt kết hợp nhiều cách thức như: Trí tuệ nhân tạo, sinh trắc học, người dùng tự khai thêm xác nhận của phụ huynh qua kiểm tra giấy tờ tùy thân hoặc mã OTP. Điều quan trọng là mọi thông tin cá nhân phải được bảo vệ nghiêm ngặt, xử lý công khai, an toàn và tôn trọng quyền riêng tư của mỗi người.

Thạc sĩ tâm lý Vũ Thu Hà, Viện nghiên cứu đào tạo và can thiệp tâm lý Việt Nam nêu quan điểm cho rằng, trẻ vị thành niên còn non nớt trong tư duy và xử lý tình huống nhất là trên không gian mạng. Việc cấm tiếp cận mạng xã hội là cần thiết trong bối cảnh nhiều gia đình không đủ thời gian quan tâm, giám sát các em. “Chúng ta không cấm sử dụng internet để các con tiếp cận tri thức nhưng có thể hạn chế game và mạng xã hội” – bà Hà chia sẻ.

Thực tế tại Việt Nam, mô hình “tứ giác đồng hành” gồm Nhà nước-doanh nghiệp công nghệ-nhà trường-phụ huynh trong bảo vệ trẻ em trên mạng xã hội đã khẳng định được vai trò quan trọng. Trong đó, Nhà nước cần tiếp tục hoàn thiện thể chế, yêu cầu quyết liệt và có biện pháp kiểm tra, giám sát mạnh mẽ các tập đoàn công nghệ trong và ngoài nước tuân thủ quy định bảo vệ trẻ em Việt Nam; đồng thời chủ động phát triển hoặc yêu cầu các nền tảng phát triển công cụ kiểm soát an toàn cung cấp cho phụ huynh, đi kèm với các chương trình nâng cao kỹ năng số cho người dân.

Cùng với cơ chế, chính sách, các doanh nghiệp cần chủ động đồng hành trong việc bảo vệ trẻ em trên không gian mạng, coi việc xây dựng nền tảng an toàn cho các em là một cam kết đạo đức. Trẻ em vẫn được hiện diện trong không gian số, nhưng là không gian định danh, định hướng và có giám sát phù hợp. Có thể doanh nghiệp phải đầu tư thêm nguồn lực, nhưng đây cũng là cách góp phần xây dựng tương lai bền vững, nơi công nghệ phục vụ con người.

Việt Nam, dù chưa lựa chọn giải pháp cấm triệt để, cũng cần tiếp tục có các hành động mạnh mẽ, quyết liệt hơn để bảo vệ trẻ em trong môi trường số – nơi song hành giữa cơ hội tiếp cận tri thức và những nguy cơ khó lường.

QUANG HUY

Bình luận về bài viết này