Động Vật Sách Đỏ: phân biệt rõ nuôi để bán và nuôi để bảo tồn

*Sách đỏ Việt Nam là danh sách các loài động vật, thực vật ở Việt Nam thuộc loại quý hiếm, đang bị giảm sút số lượng nghiêm trọng hoặc có nguy cơ tuyệt chủng.”

Xem Danh mục động thực vật trong Sách đỏ Việt Nam http://vnredlist.vast.vn

Nuôi để bán và nuôi bảo tồn

vnexpress.net

Trịnh Lê Nguyên Giám đốc Trung tâm Con người và Thiên nhiên – PanNature

Hơn 20 năm trước, tôi cùng đồng nghiệp và một số nhà báo điều tra từng thâm nhập các trang trại nuôi gấu lấy mật ở Phúc Thọ, Hà Nội.

Thời kỳ giá mật gấu lên cao, cả nước có đến hơn 4.000 cá thể gấu – nuôi nhốt trong những dãy chuồng sắt bẩn thỉu, hầm hập mùi thuốc thú y – bị bóc lột tối đa để thu lợi cho người nuôi. Hồi đó, nhiều ý kiến cho rằng việc nuôi gấu lấy mật vừa góp phần phát triển kinh tế, vừa giúp bảo tồn loài động vật hoang dã quý hiếm này.

Sau 20 năm, với nhiều nỗ lực của các cơ quan nhà nước và tổ chức phi chính phủ như Trung tâm Giáo dục Thiên nhiên (ENV), Free the Bears, Animals Asia… số lượng gấu nuôi đã giảm hơn 95%.

Nếu ai hỏi phong trào nuôi gấu đó có góp phần bảo tồn gấu không? Câu trả lời là: Không, không và không! Hai loài gấu của Việt Nam (gấu chó và gấu ngựa) hiện nay cực kỳ hiếm gặp trong thiên nhiên hoang dã. Vào thời hoàng kim của mật gấu, người ta vẫn thậm thụt chỉ cho nhau chỗ mua mật gấu tự nhiên vì tin rằng nó tốt hơn mật gấu nuôi.

Có trang trại nào nhân nuôi sinh sản được gấu để thả về tự nhiên không? Dĩ nhiên là không! Người ta nuôi gấu để mỗi ba tháng đè ra chích mật, thậm chí còn rút ngắn lại mỗi một tháng. Làm gì có chuyện bảo tồn ở đây khi đồng tiền là mục tiêu cao nhất?

Trước đó nữa, những thảo luận, bàn cãi về chuyện hổ nuôi nhốt cũng tương tự. Nhiều người, kể cả một số nhà khoa học, tranh luận rằng nuôi hổ, cho chúng sinh sản với số lượng lớn, thương mại hóa sẽ làm giảm nhu cầu săn bắt ngoài tự nhiên. Chúng tôi phải trao qua đổi lại để thuyết phục một số đại biểu quốc hội khi biết họ cũng ủng hộ chiều hướng này. Đến nay, hổ vẫn còn, khoảng 400 cá thể, ở các vườn thú, trung tâm cứu hộ, và các khu nuôi nhốt tư nhân. Trung tâm Cứu hộ động vật hoang dã Hà Nội đang nuôi cứu hộ 36 cá thể hổ, đa số là tang vật các vụ buôn bán, nuôi nhốt hổ trái phép.

Nhưng chúng ta gần như chắc chắn rằng hổ không còn ngoài tự nhiên ở Việt Nam nữa.

Có độc giả sẽ thắc mắc: Thế sao không thả chúng về tự nhiên? Hoặc sao không cho chúng sinh sản để sau này thả về rừng?

Các cơ quan bảo tồn cũng đối mặt với nhiều câu hỏi: Các cá thể này xuất xứ từ khu vực nào? Liệu chúng có phải là hổ tự nhiên hay sinh sản từ nuôi nhốt? Liệu nguồn gen chúng có thuần chủng hay lai tạp? Thả về đâu khi hầu hết khu bảo tồn của chúng ta ngày nay quá nhỏ bé trong khi mỗi đêm chúng có thể đi kiếm ăn ở phạm vi lên đến 32 km? Có những cá thể hổ đi kiếm ăn hoặc kiếm bạn tình đến 1.300 km trong vòng 5 tháng. Và rồi chúng ăn gì trong tự nhiên khi chuỗi thức ăn đã đứt gãy?

Thế nên, số lượng hổ nuôi nhốt hiện nay đang là gánh nặng lớn cho các bên khi mà chỉ có hai lựa chọn: tiếp tục nuôi hoặc tiêu hủy.

Loài người bắt đầu biết thuần hóa động vật hoang dã để làm vật nuôi từ khoảng 10.000-12.000 năm trước, trong thời kỳ chuyển đổi từ lối sống săn bắt hái lượm sang xã hội nông nghiệp. Qua bao cuộc thử và sai, con người đã nuôi được một số loài để làm bầu bạn hoặc làm thức ăn, từ chó, mèo, lợn, gà đến bò, trâu, dê… với tổng số 40-50 loài.

Thực tế cho thấy việc nhân nuôi sinh sản một số loài hoang dã không phải là quá khó. Đây đó người dân đã cho sinh sản được từ chim đến thú… Câu hỏi đặt ra là động vật hoang dã được sinh sản trong nuôi nhốt tự phát liệu có ích gì cho việc bảo tồn chúng hay không? Bên cạnh các ví dụ cụ thể ở trên, xin nêu ra một số khía cạnh khác để minh chứng cho câu trả lời, là KHÔNG.

Đối với các trường hợp nuôi vì mục đích thương mại, mục tiêu duy nhất là lợi nhuận, người ta không quan tâm đến nguồn gốc giống loài hay sức khỏe lâu dài của quần thể loài đó. Nuôi thương mại tập trung vào việc tăng số lượng nhanh chóng để bán, thường sử dụng giống không rõ nguồn gốc, có thể dùng cả thức ăn công nghiệp và thuốc kích thích sinh sản.

Ví dụ, với các loài họ Trĩ (như gà lôi, trĩ, công, gà rừng…), người nuôi có thể dễ dàng nhân giống nếu chỉ nghĩ đến số lượng, nhưng quá trình này dẫn đến giao tạp gen, làm mất đặc tính gốc và khiến thế hệ con cháu yếu ớt hơn.

Nuôi nhốt tập trung còn dễ lây lan bệnh dịch, ví dụ như cúm gia cầm. Động vật sinh sản trong nuôi nhốt dễ mất đi tập tính tự nhiên: không biết săn mồi hay trốn tránh kẻ thù. Nếu thả ra tự nhiên, chúng có thể mang bệnh hại cho đồng loại hoang dã hoặc không thể sống sót được.

Cái cần bảo tồn ở đây không phải là bản thân cá thể động vật đó mà là nguồn gen gốc quý hiếm – thứ mà thiên nhiên mất hàng triệu năm để hình thành. Nuôi thương mại, với cách tiếp cận chủ quan để đẩy năng suất, thường phá hủy chính nguồn gen này, gây đe dọa lên mục tiêu bảo tồn.

Từ góc độ bảo tồn, mục tiêu không phải nhằm gìn giữ “một cá thể” cụ thể mà là nguồn gen gốc, cấu trúc di truyền và tập tính sinh thái. Ngay cả khi giữ được độ thuần chủng di truyền, nhân nuôi vì mục tiêu bảo tồn vẫn là hành trình khó khăn và đắt đỏ. Hướng dẫn của các tổ chức bảo tồn quốc tế về hoạt động nhân nuôi sinh sản, tái thả và bảo tồn chuyển vị cho thấy đây là quá trình dài, phức tạp, nhiều rủi ro; chỉ nên tiến hành khi chứng minh được lợi ích bảo tồn rõ ràng, kèm kế hoạch giám sát dịch bệnh, quản lý phả hệ, huấn luyện tập tính tự nhiên. Quan trọng hơn là phải đảm sinh cảnh để tái thả an toàn. Không thể nhân nuôi động vật rồi thả ra tự nhiên mà bỏ qua tình trạng chuỗi thức ăn, nơi cư trú, áp lực săn bắt và buôn bán lên loài đó.

Hướng dẫn của Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Thế giới (IUCN) yêu cầu trước khi nhân nuôi và tái thả, cần có đánh giá về tình trạng của quần thể ngoài tự nhiên, vai trò của chương trình nhân nuôi trong chiến lược bảo tồn loài tổng thể, nguồn lực và chuyên môn sẵn có, khung pháp lý liên quan, sự tham gia của các bên, và phương án dừng chương trình nếu mục tiêu không đạt. Thiếu các chuẩn mực này, việc nhân nuôi và tái thả động vật hoang dã dễ trở thành một dự án tốn kém, rủi ro mà không đem lại lợi ích thực sự cho quần thể ngoài tự nhiên.

Khi thực hiện, dự án nhân nuôi cần được thiết kế có mục tiêu rõ ràng, chỉ số thành công đo đếm được, có kế hoạch theo dõi sau thả đủ dài để phát hiện sớm các dấu hiệu thất bại (chết sớm, không sinh sản, hành vi bất thường) rồi điều chỉnh cách làm. Các hướng dẫn kỹ thuật nhấn mạnh phải đảm bảo việc theo dõi giám sát sau khi thả động vật về tự nhiên, nếu không sẽ không biết nguyên nhân thất bại và rút ra bài học cho những lần tiếp theo.

Ngay cả khi làm đúng quy trình kỹ thuật, tỷ lệ thành công trong lịch sử không cao và khác nhau rất nhiều giữa các nhóm loài động vật. Một số nghiên cứu cho thấy tỷ lệ thành công ban đầu chỉ khoảng 26%, về sau có cải thiện nhưng vẫn không đồng đều do nhiều khó khăn thách thức: sinh cảnh tự nhiên không đảm bảo, áp lực cao từ các loài săn mồi, động vật từ nuôi nhốt thiếu các tập tính thích nghi tự nhiên, cấu trúc quần xã sinh vật bị phá vỡ, động vật bị thoái hóa hoặc lai tạp di truyền.

Cuối cùng là bài toán chi phí. Phần dễ thấy như nuôi và nhân giống thường rẻ hơn nhiều so với những công việc ít được chú ý khác: đánh giá và sàng lọc bệnh tật, thả động vật ra khu bán hoang dã để huấn luyện tập tính, gắn thiết bị định vị để theo dõi từ xa, bảo vệ sinh cảnh thả động vật và giám sát dài hạn. Với các loài lớn như thú ăn thịt, chi phí có thể lên tới hàng nghìn USD mỗi cá thể. Nhiều khi phải tính đến các phương án khả thi hơn, như đầu tư cho các hoạt động tuần tra bảo vệ rừng để giảm săn bắt trái phép, phục hồi sinh cảnh sống cho động vật…

Việt Nam hiện có khoảng 9.000 cơ sở nuôi thương mại động vật hoang dã được cấp phép; song song vẫn còn không ít cơ sở nhỏ lẻ, tự phát (con số từ một số ước tính cho thấy tổng số trang trại nuôi nhốt động vật hoang dã ở Việt Nam có thể đến hơn 20.000). Khi chuẩn mực quản lý chưa đồng đều, nguy cơ “rửa” động vật từ tự nhiên vào đàn nuôi là có thật nếu thiếu kiểm tra, truy xuất nguồn gốc nghiêm túc.

Bởi vậy, từ vụ gà lôi trắng, bài học lớn không phải là “cấm hay không cấm” mà là phân ranh rạch ròi giữa nuôi thương mại và nhân nuôi vì bảo tồn, đồng thời chuẩn hóa cách thực hiện. Một mặt, cần truyền thông rõ ràng, dễ hiểu về thay đổi chính sách để người dân không vô tình vướng pháp luật khi nuôi những loài bị cấm hoặc đã được phép nhưng có điều kiện. Mặt khác, nếu cơ sở nuôi gắn chữ “bảo tồn”, phải tuân thủ các tiêu chuẩn, chẳng hạn như hướng dẫn của IUCN nêu trên.

Không thể xem nhân nuôi là “lối thoát” cho mọi bài toán bảo tồn. Ở một quốc gia mà rừng tự nhiên nhiều nơi vẫn chưa thật sự an toàn cho động vật hoang dã, ưu tiên chiến lược nên là bảo tồn tại chỗ: giảm săn bắt trái phép, phục hồi sinh cảnh, hỗ trợ sinh kế thay thế cho người dân đang phụ thuộc vào rừng, mở rộng và nâng cao hiệu quả các không gian bảo tồn, kể cả những mô hình khu vực bảo tồn hiệu quả khác (OECM).

Nhân nuôi, nếu có, chỉ nên là công cụ bổ trợ trong các kế hoạch phục hồi loài và hệ sinh thái được thiết kế bài bản, không phải chiếc áo khoác “bảo tồn” cho mọi hoạt động chăn nuôi động vật hoang dã.

Khoa học bảo tồn thiên nhiên nhìn từ vụ án “gà lôi trắng”

dantri.com

Gần đây, vụ việc anh Thái Khắc Thành ở Nghệ An bị phạt 6 năm tù vì nuôi và bán 13 con gà lôi trắng đã thu hút sự chú ý lớn từ dư luận.

Theo thông tin trên báo Dân trí, ngày 13/8, Chánh án TAND tỉnh Hưng Yên đã kiến nghị Viện trưởng VKSND tỉnh kháng nghị bản án vụ “Gà lôi trắng” và cho bị cáo Thái Khắc Thành tại ngoại, cấm đi khỏi nơi cư trú.

TAND tỉnh cho rằng, cấp sơ thẩm chưa áp dụng Thông tư 27/2025/TT-BNNMT có hiệu lực từ 1/7, trong đó gà lôi trắng thuộc nhóm IIB, thay vì nhóm IB như căn cứ xét xử trước đó. Việc áp dụng quy định cũ bị cho là không phù hợp với sự thay đổi của pháp luật.

Ở đây tôi xin không bình luận về quá trình tố tụng. Từ góc độ một người hoạt động trong lĩnh vực bảo tồn thiên nhiên, đa dạng sinh học, tôi thấy qua vụ án này sự cần thiết tăng cường phổ biến các kiến thức về bảo tồn động vật hoang dã, dựa trên cơ sở khoa học toàn cầu.

Khoa học bảo tồn thiên nhiên nhìn từ vụ án “gà lôi trắng” - 1
Anh Thái Khắc Thành và tang vật vụ án là số gà lôi trắng (Ảnh: Công an Thái Bình).

Để hiểu rõ hơn vấn đề này, chúng ta cần làm sáng tỏ về Danh lục Đỏ của IUCN – hệ thống đánh giá và công bố tình trạng bảo tồn của các loài sinh vật trên toàn thế giới, do Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế (International Union for Conservation of Nature) quản lý; Công ước CITES – Hiệp định quốc tế về buôn bán các loài động, thực vật hoang dã nguy cấp, được ký kết vào năm 1973 tại Washington, Mỹ; và lý do tại sao việc nhân nuôi tự phát lại không góp phần cứu các loài hoang dã khỏi bị tuyệt chủng, thậm chí có thể gây hại.

Danh lục Đỏ của IUCN là một công cụ đánh giá toàn cầu về tình trạng đa dạng sinh học, được thành lập từ năm 1964 với sự tham gia của hàng nghìn chuyên gia từ các chính phủ, tổ chức khoa học và cộng đồng. Danh lục này phân loại các loài dựa trên mức độ rủi ro tuyệt chủng, từ “ít lo ngại” (cấp LC – Least Concern) đến “cực kỳ nguy cấp” (cấp CR – Critically Endangered) cho đến tuyệt chủng (cấp EX – Extinct), dựa trên dữ liệu khoa học về quy mô quần thể, phạm vi phân bố, môi trường sống, và các mối đe dọa như săn bắt, mất rừng hay biến đổi khí hậu.

Ví dụ, một loài được xếp “nguy cấp” nếu quần thể giảm hơn 50% trong 10 năm. Hiện nay, danh sách này đã đánh giá hơn 169.000 loài, với hơn 47.000 loài đang bị đe dọa bị tuyệt chủng, trong đó có 26% các loài thú, 12% các loài chim, 41% loài lưỡng cư và 38% các loài thực vật.

Việt Nam, một điểm nóng đa dạng sinh học toàn cầu, sử dụng danh sách này để xây dựng chính sách bảo vệ, giúp ưu tiên nguồn lực; và xây dựng Danh lục đỏ riêng cho quốc gia, căn cứ trên dữ liệu khoa học về các loài phân bố ở nước ta, hiện trạng và mối đe dọa lên các loài đó. Không có Danh lục Đỏ, chúng ta sẽ thiếu cơ sở khoa học để hành động kịp thời, dẫn đến mất cân bằng sinh thái ảnh hưởng đến nguồn nước, không khí và thực phẩm mà con người phụ thuộc.

Công ước về Buôn bán quốc tế các loài hoang dã nguy cấp (CITES), được ký kết năm 1973 tại Washington và có hiệu lực từ 1975, là hiệp ước quốc tế với 185 quốc gia tham gia, bao gồm Việt Nam từ năm 1994. Mục tiêu chính của CITES là kiểm soát buôn bán động vật và thực vật hoang dã để tránh đẩy chúng đến bờ vực tuyệt chủng, vì thị trường buôn bán toàn cầu trị giá hàng chục tỷ USD hàng năm, liên quan đến hàng triệu cá thể các loài.

Công ước phân loại loài vào ba phụ lục: Phụ lục I cấm buôn bán thương mại hoàn toàn (như hổ hay voi), chỉ cho phép vì mục đích khoa học với giấy phép nghiêm ngặt từ cả nước xuất và nhập; Phụ lục II yêu cầu giấy phép xuất khẩu chứng minh nguồn gốc hợp pháp và không gây hại đến quần thể ngoài tự nhiên; Phụ lục III áp dụng cho loài cần bảo vệ ở một quốc gia cụ thể. CITES không thay thế luật quốc gia mà cung cấp khung hợp tác, yêu cầu các nước thành viên ban hành luật nội địa để thực thi, như ở Việt Nam qua Nghị định 84/2021/NĐ-CP và Bộ luật Hình sự 2017 (Điều 244).

Đối với gà lôi trắng (Lophura nycthemera), theo Danh lục đỏ IUCN, loài này được xếp ở mức “ít lo ngại” nhờ quần thể ổn định ở một số khu vực Đông Nam Á và Trung Quốc, với khoảng 15 phân loài sống ở các khu vực rừng núi. Tuy nhiên, ở Việt Nam, do săn bắt làm chim cảnh hoặc thức ăn đặc sản, cùng với mất môi trường sống vì mất rừng, quần thể loài này ở nước ta bị đe dọa nghiêm trọng hơn.

Ban đầu, theo Nghị định 84/2021/NĐ-CP, gà lôi trắng thuộc Nhóm IB (nguy cấp cao, tương đương Phụ lục I của CITES tại Việt Nam), cấm nuôi và buôn bán mà không có giấy phép đặc biệt.

Từ ngày 1/7/2025, theo Thông tư số 27/2025/TT-BNNMT của Bộ Nông nghiệp và Môi trường, loài này đã được chuyển sang Nhóm IIB – nhóm động vật rừng hạn chế khai thác và sử dụng vì mục đích thương mại. Pháp luật cho phép có thể nuôi một số loài, nhưng người nuôi phải đáp ứng đầy đủ điều kiện, thủ tục, tiêu chuẩn bảo tồn và không gây hại quần thể tự nhiên. Mức xử phạt đối với các hành vi vi phạm sẽ phụ thuộc vào giá trị buôn bán của loài động thực vật nguy cấp quý hiếm đó.

Việc kiểm soát nuôi nhốt và buôn bán theo CITES và luật pháp của Việt Nam không chỉ nhằm đảm bảo tuân thủ luật pháp quốc tế mà còn hạn chế tăng cung cầu thị trường, đặc biệt khi nhiều loài không thể đáp ứng nhu cầu thị trường mà không dẫn đến suy giảm quần thể hoang dã.

Theo CITES, nuôi nhốt phải được kiểm soát qua giấy phép để tránh “rửa nguồn gốc” – nghĩa là động vật bắt từ rừng được giả mạo là “nuôi sinh sản” để đưa vào buôn bán hợp pháp.

Ở Việt Nam, như trên đã nêu, theo quy định mới nhất thì pháp luật chỉ cho nuôi nhốt tại cơ sở được cấp phép, kèm theo biện pháp theo dõi nguồn giống, đảm bảo đa dạng nguồn gen và kế hoạch tái thả nếu cần. Nếu không kiểm soát, việc nuôi tự phát sẽ làm tăng cung, kích thích cầu từ thị trường đen, dẫn đến săn bắt nhiều hơn để lấy giống ban đầu hoặc bổ sung cho trang trại. Lấy ví dụ, nếu mọi người tự do nuôi gà lôi trắng mua từ nguồn không rõ ràng hoặc qua mạng xã hội, thị trường sẽ bùng nổ, nhưng nguồn giống chủ yếu từ hoang dã, đẩy loài đó đến nguy cơ tuyệt chủng cục bộ. Các nghiên cứu của giới bảo tồn cho thấy, buôn bán không kiểm soát làm giảm quần thể hoang dã trung bình 62% ở các loài, vì nguồn cung nhân tạo không bao giờ đủ thay thế mà còn khuyến khích tiêu dùng.

Bên cạnh đó, một yếu tố quan trọng thúc đẩy vấn nạn này là thị hiếu thích “đồ rừng” và các đặc sản từ tự nhiên của một bộ phận người Việt Nam. Thói quen ẩm thực của một bộ phận người dân coi thịt thú rừng, chim quý hay sản phẩm từ động vật hoang dã như “bổ dưỡng”, “sang trọng” hoặc có giá trị chữa bách bệnh dẫn đến nhu cầu cao về các loài hoang dã như gà lôi trắng làm chim cảnh hoặc món ăn đặc sản.

Nhiều người vẫn ưa chuộng “đồ rừng” vì tin rằng chúng tự nhiên hơn so với nuôi trong trang trại. Thị hiếu này không chỉ tồn tại ở tầng lớp giàu có mà lan rộng thông qua mạng xã hội với vô vàn trang, nhóm rao bán các loài hoang dã, bán chim quý và đáng buồn là có rất nhiều tương tác. Kết quả là buôn bán bất hợp pháp vẫn nhộn nhịp, với giá nhiều loài hoang dã hàng triệu đồng thậm chí hàng chục triệu đồng/con, thúc đẩy săn bắt bất hợp pháp và phá bỏ nhiều nỗ lực bảo tồn thiên nhiên mà các cơ quan nhà nước và các tổ chức xã hội đã đầu tư công sức, tiền bạc.

Việc nhân nuôi tự phát, mua bán từ nguồn không rõ ràng hoặc qua mạng xã hội mà không đăng ký, không thể phục vụ được mục tiêu bảo tồn các loài hoang dã mà còn có thể gây hại nghiêm trọng. Nhân nuôi không kiểm soát dẫn đến mất đa dạng nguồn gen, dẫn đến suy thoái các thế hệ sau của loài, dễ mắc và truyền bệnh và rất khó thích nghi nếu thả chúng về tự nhiên do đã quen với điều kiện nuôi nhốt nhân tạo.

Nguy hiểm hơn, việc nuôi nhốt động vật hoang dã tự phát có thể góp phần che giấu buôn bán bất hợp pháp, tăng nhu cầu thị trường và thúc đẩy săn bắt từ nguồn hoang dã để lấy giống. Nhân nuôi thương mại thường ưu tiên lợi nhuận hơn mục tiêu bảo tồn, dẫn đến ô nhiễm gen nếu lai tạp hoặc lây lan bệnh từ gia súc, gia cầm sang các loài hoang dã. Việc đầu tư cho nhân nuôi bảo tồn các loài hoang dã trên thực tế cực kỳ tốn kém, phải được thực hiện tại các cơ sở được cấp phép, có biện pháp theo dõi nguồn gen, phối giống chọn lọc và kế hoạch bảo tồn tại chỗ, tuân thủ các tiêu chuẩn nghiêm ngặt trong một quy trình và thời gian dài.

Câu chuyện về gà lôi trắng không phải là trường hợp cá biệt mà phản ánh vấn đề lớn hơn với nhiều loài được ưu tiên bảo tồn ở Việt Nam. Ví dụ, hổ thuộc Phụ lục I của CITES và Nhóm IB Việt Nam, bị đe dọa bởi buôn bán da, xương làm thuốc, với quần thể hoang dã được coi là đã không còn tồn tại; voi châu Á cũng Nhóm IB, giảm mạnh do mất rừng và nạn săn ngà voi; tê giác một sừng đã tuyệt chủng ở Việt Nam từ 2010 vì săn trộm sừng dùng làm “thần dược”.

Để tránh những vụ việc đáng tiếc, người dân cần tìm hiểu kỹ quy định pháp luật trước khi nuôi hoặc buôn bán động vật hoang dã. Hãy kiểm tra danh mục loài nguy cấp tại Danh lục đỏ IUCN (https://www.iucnredlist.org), Danh lục đỏ Việt Nam (http://vnredlist.vast.vn/) hoặc hỏi thông tin từ lực lượng kiểm lâm. Xin được nói thêm rằng các Danh lục đỏ đóng vai trò cung cấp cơ sở khoa học, còn việc áp dụng chế tài đối với các hành vi vi phạm là theo các quy định pháp luật như thông tư, nghị định, Bộ Luật hình sự.

Tùy tình trạng bảo tồn của từng loài, người dân chỉ nên mua từ nguồn hợp pháp với giấy tờ đầy đủ theo quy định của pháp luật đối với các loài được buôn bán, nhân nuôi. Nếu có nghi ngờ buôn bán bất hợp pháp, hãy báo cho cơ quan chức năng qua đường dây nóng. Bảo tồn không phải chỉ có cấm đoán mà là hành động có trách nhiệm, giúp cân bằng giữa nhu cầu con người và thiên nhiên!

Tác giả: Ông Trịnh Lê Nguyên là thạc sĩ chuyên ngành Nước – Môi trường – Hải dương học; có hơn 20 năm kinh nghiệm làm việc ở các tổ chức trong nước và quốc tế về bảo tồn thiên nhiên. Hiện ông Nguyên là Giám đốc Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PanNature) và Chủ tịch Quỹ bảo tồn động thực vật hoang dã Việt Nam.

Bình luận về bài viết này