- TĐH – Phát triển Đồng Bằng Sông Cửu Long
- VNE – Tương lai của miền Tây
- TNMT – Định hướng phát triển vùng đồng bằng sông Cửu Long
***
Phát triển Đồng Bằng Sông Cửu Long
Trần Đình Hoành, CVD, 5-12-2019
Chào các bạn,
Mình viết bài này về phát triển Đồng Bằng Sông Cửu Long vì (1) mình yêu người dân miền Tây rất hiền lành chân thật, (2) mình phục dân miền Tây với tinh thần chiến đấu và sáng tạo đã được minh chứng hơn 300 năm, (3) ĐBCCL là một trong những vùng bị ảnh hưởng nhất thế giới bởi biến đổi khí hậu, (4) phát triển ĐBSCL cũng là một phần lớn của phát triển đất nước, và (5) quan trọng nhất là chính sách của VN cho đến lúc này là không công bình với người dân ở ĐBSCL.
Cho phép mình nói về điểm quan trọng nhất, điểm số 5 bên trên: Chính sách của VN cho đến lúc này là không công bình với người dân ở ĐBSCL.
Vậy nghĩa là sao?
Nghĩa là, mọi tư duy và chính sách lúc này đều nói về một điều duy nhất: ĐBSCL là vùng nông nghiệp và vựa lúa của VN.
Các bạn đã biết rồi, nông nghiệp nói chung là nghèo đói so với những lãnh vực khác. Ví dụ, một kỹ sư tin học có thể có lợi tức mỗi năm bằng vài chục hay hàng trăm nông dân. Nếu chúng ta không thấy sự thật này, chúng ta chẳng biết công bình hay bất công là gì.
Khi chúng ta cứ nghĩ về ĐBSCL như là một vùng nông nghiệp, chúng ta đang phán án ĐBSCL vào bản án nghèo đói muôn năm.
Điều thứ nhất chúng ta cần suy tư về ĐBSCL là: Tại sao ĐBSCL không thể là trung tâm của những kỹ nghệ hàng đầu thế giới, như
– tin học và viễn thông: đây là những kỹ nghệ chẳng ăn nhập gì đến địa lý. Bạn ngồi đâu trên thế giới, từ New York đến rừng rậm Amazon, bạn cũng đều có thể làm việc như kỹ sư tin học và viễn thông.
– năng lượng sạch: ĐBSCL, với bờ biển mênh mông, có đủ điều kiện để phát triển năng lượng mặt trời và năng lượng gió, có lẽ là số 1 ở VN, nếu không là số một ở Đông Nam Á.
– du lịch: Đúng là ĐBSCL đang phát triển nhiều về du lịch, nhất là du lịch sinh thái và văn hóa. Nhưng chẳng lý do gì mà ĐBSCL không thể có thêm du lịch hitech với những kỹ thuật hitech số một thế giới.
Lịch sử hơn 300 năm hình thành cho thấy người ĐBSCL có lẽ là người sáng tạo nhất nước, với bao nhiêu phát minh cả 300 năm cho đến ngày nay (2019) và vẫn tiếp tục phát minh từng ngày để tìm cách sinh sống tốt nhất với con nước thay đổi, đất đai thay đổi, và bây giờ khí hậu biến đổi. Óc sáng tạo của người ĐBSCL là vốn liếng rất lớn để thích nghi với những kỹ nghệ tân tiến nhất thế giới ngày nay – tin học, viễn thông, năng lượng sạch.
Về nông nghiệp, ĐBSCL sẽ luôn luôn là vựa thực phẩm lớn nhất VN. Nhưng chúng ta không thể chỉ nói về nông nghiệp mà cố tình gạt bỏ mọi yếu tố khác và do đó thành cực kì bất công bình đối với người dân ĐBSCL. Khi ĐBSCL tiến bộ về kỹ thuật mới về tin học, viễn thông và năng lượng, thì tự nhiên kỹ thuật về nông nghiệp sẽ tiến bộ theo. Một nhà kính 1000 m2 có thể tạo năng suất bằng một hecta đất, cho nên ta không cần phải lo lắng về năng suất nông nghiệp.
Điểm chính là tiến bộ và công bình. Tiến bộ có nghĩa là dùng những sức mạnh của ĐBSCL để tiến – tính sáng tạo của người dân, vốn liếng về người và thiên nhiên để đẩy mạnh tin học, viễn thông và năng lượng sạch, bên cạnh nông nghiệp và du lịch. Công bình có nghĩa là giúp ĐBSCL phát triển về mọi mặt, không phán án ĐBSCL vào nông nghiệp vĩnh viễn.
Chúng ta cần yêu nước yêu dân đủ để suy tư công bình và sáng tạo. Các bạn, ĐBSCL cần được có chính sách tập trung vào sáng tạo, những kỹ nghệ tiên tiến nhất thế giới, và cơ sở hạ tầng về giao thông, thương mại và giáo dục để hỗ trợ sáng tạo và những kỹ nghệ tiên tiến nhất thế giới.
Và quan trọng nhất, please, hãy ngừng xem ĐBSCL chỉ là một vùng nông thôn chỉ biết trồng cây và nuôi cá.
Hãy công bình với người ĐBSCL.
Mến,
Trần Đình Hoành, Ls, Ts Luật
Washington DC
***
Tương lai của miền Tây
Đọc thêm: Phát triển ĐBSCL – TĐH >>

Trương Chí Hùng
Nhà văn, VNExpress
Bằng là bạn học cấp hai của tôi. Hết lớp 9, Bằng thôi học dù thành tích đứng thứ nhì toàn trường.
Chú Sáu, ba của Bằng, lúc đó nói, nhà ruộng đất nhiều, cần gì học, ở nhà làm ruộng cũng sống khỏe re. Ở tuổi 16, Bằng không nghĩ được gì nhiều, người lớn nói sao nghe vậy. Vài năm sau, Bằng trở thành lao động trụ cột trong nhà. Một mình cậu quán xuyến hai mẫu ruộng, mỗi năm canh tác ba vụ, của ăn không thiếu. Rồi Bằng lấy vợ, sanh con, xây dựng một gia đình như bao gia đình khác ở quê tôi.
Dân miền Tây có câu “lấy táo đong lúa chớ không ai lấy táo đong chữ”, nghĩa là mọi thứ phải ưu tiên cho cái ăn cái mặc, chuyện học hành có cũng được, không có cũng chẳng sao. “Đói mới chết, dốt không chết”- người quê tôi thường nói vậy. Quan điểm đó kéo dài đời này sang đời khác, nên người dân ở đây không chịu cho con học đến nơi đến chốn. Nhiều gia đình chỉ cho con học đến biết đọc biết viết, rồi nghỉ. Xứ này vốn dĩ đất ruộng mênh mông, trên cơm dưới cá, chuyện đói kém hiếm khi xảy ra. Đó cũng là nguyên nhân khiến người ta không chú trọng nhiều đến chuyện học hành, nhất là bà con ở quê.
Hôm trước, tôi đi công tác dưới miệt Gành Hào. Đang chạy xe, bỗng có người đàn ông trung niên đứng bên đường ra dấu. Tưởng anh xin quá giang, vì miệt này chuyện đi nhờ xe của người lạ cũng rất phổ biến. Nhưng anh muốn nhờ tôi đọc giùm hướng dẫn sử dụng bao thức ăn cho tôm anh mới mua. Anh nói, chủ cơ sở bán thức ăn có nói qua cách sử dụng nhưng anh không nhớ rõ, lại không biết chữ nên không đọc hướng dẫn được, sợ cho ăn sai sẽ thiệt hại vuông tôm. Tôi biết, những người như anh không hiếm ở xứ này. Nhiều nông dân miền Tây một chữ bẻ đôi không biết, không đọc nổi những dòng chữ trên bao phân, bao thức ăn thì thật xa xỉ khi nói về chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi hay xây dựng một nền nông nghiệp thông minh để phát triển vùng.
Những năm qua, miền Tây đứng trước nhiều thách thức. Nạn ô nhiễm môi trường, lạm dụng thuốc bảo vệ thực vật, cách đánh bắt kiểu tận diệt làm cho nguồn thủy sản gần như cạn kiệt. Hiện tượng “được mùa mất giá” lúa gạo và nông sản cũng khiến cho người nông dân điêu đứng. Khi ruộng vườn, sông nước miền Tây không còn đủ sức để “cưu mang” người dân, thì làn sóng di cư ồ ạt diễn ra.
Báo cáo của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam lần đầu tiên đưa ra con số 1,3 triệu người miền Tây – lớn hơn dân cư của một tỉnh đồng bằng – đã ly hương lên Đông Nam Bộ trong thập kỷ qua. Bài toán giáo dục ở miền Tây lại bị đặt vào thách thức nan giải.
Em Neang Sà B. là người dân tộc Khmer, sinh năm 2003, đang học lớp 12 ở Châu Đốc thì nghỉ ngang để đi Bình Dương làm công nhân. Mấy tháng sau em lấy chồng rồi sanh con đầu lòng. Ở tuổi 19, khi bạn bè cùng trang lứa đang viết nên tương lai tươi đẹp trên giảng đường đại học thì Sà B. chăm con trong phòng trọ mấy mét vuông gần khu công nghiệp, cách quê nhà mấy trăm cây số. Mọi chi phí trong gia đình nhỏ của Sà B. phụ thuộc vào đồng lương chồng em, cũng đang làm công nhân trên ấy.
Ở miền Tây, học sinh đến độ tuổi lao động bỏ học để đi Bình Dương, đi Sài Gòn làm công nhân như Sà B. nhiều không đếm xuể. Đáng báo động hơn là học sinh tiểu học và trung học cơ sở cũng bỏ học. Cô giáo Võ Diệu Thanh đang dạy ở Tiểu học Thị trấn Chợ Vàm (Phú Tân, An Giang) cho tôi biết, mỗi năm sau đợt Tết Nguyên Đán là trường cô lại “hao hụt” hàng chục học sinh. Mấy em này có phụ huynh đi mần mướn ở Bình Dương, nghỉ Tết về rồi “bắt” con lên trên ấy luôn. Tôi gặp thầy Quách Ngọc Thuần đang dạy cấp hai ở huyện Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng, thầy bảo tình hình học sinh bỏ học theo cha mẹ lên Bình Dương quả thật rất nhức nhói. Năm nào trường của thầy Thuần cũng dùng mọi biện pháp để vận động học sinh đừng bỏ học, nhưng không hiệu quả.
Khi lên Bình Dương, Sài Gòn, những đứa trẻ này hầu như không được đi học tiếp. Các em không chuyển trường đúng quy định nên không được giải quyết cho nhập học trên đó. Các tỉnh khác như Kiên Giang, Đồng Tháp, Bạc Liêu, Cà Mau, Vĩnh Long, Bến Tre, tình hình cũng tương tự. Nói cách khác, làn sóng bỏ học để đi Bình Dương, Sài Gòn mấy năm nay đã bao phủ khắp miền Tây. Với những đứa trẻ thất học này, cánh cửa tương lai chắc chắn sẽ hẹp lại. Rồi miền Tây sẽ ra sao?
Khi dịch bệnh Covid-19 bùng phát, nhiều nơi ở miền Tây không tiêu thụ nông sản được khiến đời sống người dân lâm vào khó khăn. Công ty, xí nghiệp ở các tỉnh miền Đông cũng lần lượt đóng cửa, đẩy lượng lớn công nhân rơi vào cảnh thất nghiệp, đói kém. Lúc bấy giờ, nhiều người mới nhận ra, chỉ có học hành đến nơi đến chốn mới là kế sách “sâu rễ bền gốc” giúp cuộc sống ổn định lâu dài. Nghỉ học để đi Bình Dương, Sài Gòn làm thuê chỉ nên là việc bất đắc dĩ, không thể biến thành một làn sóng, một trào lưu rầm rộ.
Người miền Tây đã quá mệt mỏi với những đợt ly hương rồi hồi hương. Ước mơ của bà con là các tỉnh miền Tây xây thêm nhiều khu công nghiệp, khu chế xuất, để họ có thể vừa đi làm vừa được sống gần gũi với gia đình, chòm xóm, để con cái không phải chịu cảnh dang dở chuyện học hành. Đó cũng là giải pháp căn bản để hạn chế nạn di cư tự phát đang kéo theo nhiều hệ lụy cho vùng.
Ở những khu công nghiệp lớn như Bình Dương, Sài Gòn, Đồng Nai, theo tôi cũng cần đánh giá lại các chính sách giáo dục và an sinh cho người nhập cư. Mấy tháng nay, khi dịch bệnh cơ bản được kiểm soát, nhiều công ty bắt đầu mở cửa hoạt động lại. Họ dùng mọi biện pháp để thu hút và tuyển dụng công nhân. Song, trong các chế độ đãi ngộ mà công ty trưng ra để chào mời, tôi không thấy đề cập gì đến chuyện chăm lo giáo dục cho con cái của những công nhân sẽ được tuyển dụng.
Nếu cứ tiếp diễn tình trạng cha mẹ đi làm công nhân, cho con cái nghỉ học rồi lên ở trong các căn phòng trọ chật chội gần khu công nghiệp, suốt ngày với chiếc điện thoại hay máy chơi game, chúng ta xem như đã tước mất tuổi thơ và tương lai của những đứa trẻ này.
Và tương lai của miền Tây phụ thuộc vào những thế hệ đang dần bị tước mất tuổi thơ và quyền được học hành đó.
Trương Chí Hùng
***
Định hướng phát triển vùng đồng bằng sông Cửu Long
TNMT – Thứ tư, 25/01/2023 15:01
TMO – Đến năm 2045, Vùng đồng bằng sông Cửu Long là vùng phát triển toàn diện, sinh thái, văn minh và bền vững, mang đậm bản sắc văn hóa sông nước; có trình độ phát triển khá so với cả nước.
Nghị quyết số 13-NQ/TW ngày 2/4/2022 của Bộ Chính trị về phương hướng phát triển kinh tế-xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; trong đó có mục tiêu là nội dung hoàn toàn mới.
Theo đánh giá, hầu hết các nhiệm vụ, giải pháp, chỉ tiêu đề ra của Nghị quyết số 21-NQ/TW trước đây đã được các bộ, ngành và Đảng bộ, chính quyền, nhân dân 13 tỉnh, thành vùng Đồng bằng sông Cửu Long (Long An, Tiền Giang, Đồng Tháp, Vĩnh Long, Trà Vinh, Hậu Giang, Sóc Trăng, Bến Tre, An Giang, Kiên Giang, Bạc Liêu, Cà Mau và Cần Thơ) triển khai hiệu quả.

Đầu tư, nâng cấp cơ sở hạ tầng giao thông là một trong những nhiệm vụ phát triển vùng đồng bằng sông Cửu Long.
Qua gần 20 thực hiện, kinh tế vùng tăng trưởng khá, chất lượng tăng trưởng được nâng lên với tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ tăng nhanh, khẳng định là vị trí trung tâm sản xuất, xuất khẩu lúa, gạo, trái cây hàng đầu cả nước.
Một số trung tâm công nghiệp chế biến phục vụ sản xuất nông nghiệp, thủy sản với công nghệ các được hình thành, từng bước khẳng định là trung tâm năng lượng của cả nước. Kinh tế biển được phát triển mạnh, trong đó ngành thủy sản đã được phát triển thành ngành kinh tế mũi nhọn của quốc gia.
Nếu như Nghị quyết số 21 không đề cập thì Nghị quyết số 13 lần này đã xác định rất rõ mục tiêu phấn đấu đến năm 2030: Vùng đồng bằng sông Cửu Long là vùng sinh thái, văn minh và bền vững, mang đậm bản sắc văn hóa sông nước; là trung tâm kinh tế nông nghiệp bền vững, năng động và hiệu quả cao của quốc gia, khu vực và thế giới trên cơ sở phát triển hệ thống các trung tâm đầu mối về nông nghiệp, các hành lang kinh tế và các đô thị động lực tập trung các dịch vụ và công nghiệp đa dạng với hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, thích ứng với biến đổi khí hậu; phát triển kinh tế biển; kinh tế du lịch…
Đến năm 2045, Vùng đồng bằng sông Cửu Long là vùng phát triển toàn diện, sinh thái, văn minh và bền vững, mang đậm bản sắc văn hóa sông nước; có trình độ phát triển khá so với cả nước…
Vùng Đồng bằng sông Cửu Long có 13 đơn vị hành chính (Thành phố Cần Thơ, Long An, Đồng Tháp, An Giang, Tiền Giang, Bến Tre, Vĩnh Long, Trà Vinh, Hậu Giang, Kiên Giang, Sóc Trăng, Bạc Liêu và Cà Mau). Diện tích tự nhiên toàn vùng khoảng trên 39.000 km2, dân số khoảng trên 21 triệu người. Mũi nhọn phát triển kinh tế của vùng chủ yếu là nuôi trồng thuỷ hải sản, sản xuất nông nghiệp, dịch vụ, du lịch.
Phương Điền
