Chiến tranh Iran – Iraq và hành động của Mỹ (3 phần) (*)

(*) Tiêu đề do admin đặt.

Iraq gây chiến Iran năm 1980: Ồ ạt không kích, điều hàng chục nghìn quân tấn công trên bộ

NĐT – Thứ 7, 18/11/2023 | 00:07

Tháng 9/1980, quân đội Iraq bất ngờ mở chiến dịch tấn công nước láng giềng Iran, khởi đầu cho cuộc chiến tranh Iraq – Iran kéo dài 8 năm, khiến hơn 500.000 người chết, trong đó phần lớn tổn thất thuộc về Iran.

Chiến tranh Iraq – Iran là một trong những cuộc chiến khốc liệt nhất kể từ sau Thế chiến 2.

Iran ngày nay là một trong những thế lực quân sự hàng đầu ở Trung Đông mà Mỹ và các đồng minh luôn dè chừng. Tuy nhiên, Iran trong lịch sử từng bị quốc gia láng giềng Iraq tấn công bất ngờ vì cho là đang không mạnh. Iran phản ứng ra sao? Mỹ nhìn nhận và hành động như thế nào? Mời độc giả cùng nhìn lại những diễn biến quan trọng trong cuộc chiến qua loạt bài này.

Theo History, căng thẳng Iran và Iraq bắt đầu ngay từ khi nhà nước Iraq hình thành vào năm 1921 và kéo dài cho đến năm 2003.

Những năm 1970, Iran và Iraq mâu thuẫn liên quan đến  đến việc kiểm soát Shatt al-Arab, tuyến đường thủy là kết quả của sự hợp lưu giữa sông Tigris và sông Euphrates. Điểm cuối phía nam của con sông này tạo thành biên giới giữa hai quốc gia. 

Năm 1975, Iraq chấp nhận nhượng bộ để Iran kiểm soát phần lớn tuyến đường thủy. Đổi lại, Iran rút lại sự hỗ trợ cho phe ly khai người Kurd ở miền bắc Iraq.

Mối quan hệ Iran – Iraq càng căng thẳng hơn kể từ cuộc Cách mạng Hồi giáo Iran năm 1978 – 1979. Iran trở thành quốc gia có số đông người Hồi giáo dòng Shia do Giáo chủ Ruhollah Khomeini đứng đầu. Ở Iraq, Tổng thống Saddam Hussein lên nắm quyền và là người Hồi giáo dòng Sunni. Là người nổi tiếng cứng rắn, ông Hussein muốn tận dụng cơ hội Iran chưa hoàn toàn ổn định để kiểm soát cả hai bờ sông Shatt al-Arab và các vùng giàu dầu mỏ của Iran. Sâu xa hơn, ông Hussein muốn kiềm chế sự trỗi dậy của phe Hồi giáo dòng Shia ở Iran.

Nắm rõ việc quân đội Iran suy yếu sau cuộc Cách mạng Hồi giáo, ông Hussein quyết định tấn công phủ đầu Iran theo cách giống như Israel từng tấn công phủ đầu các quốc gia Ả Rập láng giềng.

Chiến tranh bùng nổ

Iraq muốn tận dụng việc Iran vừa trải qua cuộc Cách mạng Hồi giáo để tấn công phủ đầu.

Theo tài liệu của Đại học Quốc phòng Quốc gia Mỹ ở Washington D.C, 3 mục tiêu mà ông Hussein muốn đạt được trong chiến dịch chớp nhoáng là hủy diệt hoàn toàn không quân Iran, kiểm soát vùng Khuzestan giàu dầu mỏ của Iran, kiểm soát hoàn toàn tuyến đường thủy Shatt al-Arab. Nếu 3 mục tiêu này đồng thời đạt được trong vài tuần, Iran có thể bị choáng váng mà sụp đổ từ bên trong.

Xét về cán cân quân sự năm 1980, quân đội Iraq chiếm ưu thế đáng kể dù không quân lép vế hơn Iran. Mùa hè năm 1980, Iran đã bị Mỹ cắt hoàn toàn sự hỗ trợ, không còn nhận được các phụ tùng thay thế cho phi đội máy bay chiến đấu. Đây được coi là thời cơ không thể tốt hơn để Iraq tấn công Iran. 

Ngày 22/9/1980, quân đội Iraq mở cuộc không kích ồ ạt nhằm vào các căn cứ không quân Iran, nối tiếp sau đó là các cuộc tiến công trên bộ nhằm vào vùng Khuzestan.

Các chiến đấu cơ MiG-23, Tu-22 và Su-20 tấn công dữ dội 10 căn cứ không quân Iran, phá hủy đáng kể cơ sở hạ tầng nhưng lại thất bại khi không phá hủy được hầu hết các máy bay. Hầu hết các tiêm kích có giá trị đều được Iran cất giữ trong các nhà chứa kiên cố chống bom mìn.

Ngày hôm sau, Iraq mở cuộc tiến công trên bộ theo 3 hướng, dọc theo tiền tuyến dài 644km. 12 sư đoàn với quân số lên tới hơn 100.000 người được điều động nhưng Iraq chỉ dùng 4 sư đoàn tấn công vùng Khuzestan của Iran, 2 sư đoàn tiến công ở các khu vực khác nhằm ngăn Iran chi viện cho lực lượng ở Khuzestan. 6 sư đoàn còn lại đóng vai trò dự bị và hỗ trợ lực lượng xung kích.

Hai sư đoàn cơ giới Iraq đã bao vây thành phố cảng chiến lược Abadan và Khorramshahr của Iran. Người Iran khi đó mô tả Khorramshahr là “thành phố của máu” vì khắp nơi la liệt người chết.

Giao tranh giữa quân đội Iraq và Iran ở thành phố Khorramshahr.

Sau hai tuần giao tranh ác liệt, quân đội Iraq kiểm soát hoàn toàn thành phố Khorramshahr. Nhưng các bước tiến chậm khiến xung đột kéo dài hơn so với kế hoạch. Đến tháng 12/1980, mũi tiến công của Iraq đang tiến sâu 80 – 120km trong lãnh thổ vùng Khuzestan của Iran, kiểm soát các thành phố Khorramshahr, Abadan, Dezful và Ahvaz thì gặp sự kháng cự mạnh mẽ.

Trước xung đột, ông Hussein đã mất nhiều năm lôi kéo sự ủng hộ của người Iran ở vùng Khuzestan. Nhưng khi giao tranh nổ ra, đại đa số người dân Iran ở khu vực vẫn ủng hộ Giáo chủ Khomeini.

Trong giai đoạn này, không quân Iran đã hồi phục, liên tục tấn công các mục tiêu Iraq ở hậu phương bằng các chiến đấu cơ F-4 và F-5. Trực thăng AH-1 Cobra của Iran nã hỏa lực gây tổn thất lớn cho các sư đoàn cơ giới Iraq trong quá trình hành quân.

Không quân Iraq tìm cách chi viện cho lực lượng dưới mặt đất nhưng cũng hứng chịu tổn thất lớn khi Iran tung vào chiến trường tiêm kích đánh chặn F-14A, trang bị tên lửa đối không AIM-54A hiện đại. Hầu hết các vũ khí hiện đại mà Iran sở hữu trước năm 1979 đều được mua từ Mỹ. Iran mua các tiêm kích F-14A của Mỹ vào năm 1976, chỉ hai năm sau khi Mỹ trang bị mẫu tiêm kích này cho lực lượng hải quân.

Tái hiện chiến lược của Israel nhưng thất bại

Các chiến đấu cơ F-14 Tomcat của không quân Iran.

Theo tài liệu của Đại học Quốc phòng Quốc gia Mỹ, sở dĩ Iraq không hoàn thành mục tiêu chớp nhoáng như cách Israel thừng thực hiện trong Cuộc Chiến Sáu ngày năm 1967 là vì xác định sai trọng tâm, cũng như không có sự phối hợp chiến đấu giữa các mũi tiến công.

Giai đoạn đầu của cuộc chiến cho thấy kế hoạch và cách thực hiện kế hoạch một cách sơ sài mà trách nhiệm thuộc về ông Saddam Hussein, tài liệu của Mỹ cho biết.

Không quân lẽ ra phải là lực lượng đóng vai trò nòng cốt trong chiến dịch nhưng không nhận được sự đầu tư đúng mực. “Ông Hussein từ lâu đã kiềm chế không quân Iraq vì lo ngại một ngày nào đó các tướng lĩnh không quân có thể đảo chính”, tài liệu viết.

Ngược lại, trong ngày đầu tiên trong Chiến tranh Sáu ngày 1967, không quân Israel đã phá hủy 416 máy bay của liên quân Ai Cập, Syria và Jordan trong khi chỉ tổn thất 26 máy bay. Có thể làm tệ liệt không quân đối phương hay không quyết định rất lớn đến các chiến tiến công trên bộ.

Trong cuộc chiến tranh Iraq – Iran, Iran mới là quốc gia làm chủ bầu trời. Sức ép trên không của Iran lớn đến mức quân đội Iraq phải sơ tán 332 máy bay chiến đấu khỏi quốc gia, sang trú ẩn ở các nước trong khu vực như Jodan, Kuwait, Ả Rập Saudi, Yemen và Oman.

Các binh sĩ Iraq ăn mừng trong cuộc chiến tranh Iraq – Iran vào những năm 1980.

Cuối tháng 9/1980, Iraq thậm chí đã phải “tạm ngừng xuất khẩu dầu sau khi 140 máy bay Iran giáng đòn không kích nhằm vào các cơ sở khai thác dầu ở Iraq, gây thiệt hại lớn.

Theo tài liệu của Mỹ, Iraq đã chủ quan khi không bố trí các hệ thống phòng không ở nhà máy lọc dầu vì nghĩ rằng đợt tấn công phủ đầu có thể làm tê liệt không quân Irran.

Cuối cùng, việc ông Hussein quyết định bao vây các thành phố Khorramshahr, Abadan, Dezful và Ahvaz đã hủy hoại hình ảnh của Iraq ở vùng Khuzestan. Pháo kích san phẳng các thành phố này càng khiến người Iran thêm phẫn nộ.

Nếu muốn kiểm soát nhanh chóng vùng Khuzestan, lẽ ra ông Hussein đã phải chuẩn bị một chiến lược hiệu quả hơn, tài liệu nhận định.

Ngày 7/12/1980, Tổng thống Iraq Saddam Hussein thừa nhận rằng Iraq đã cạn kiệt nguồn lực tiến công và chuyển sang trạng thái phòng thủ nhằm bảo vệ các vùng lãnh thổ giành được ở Iran.

Kể từ năm 1981, quân đội Iran sau khi tái tổ chức lực lượng đã tung vào chiến trường một lượng lớn nhân lực. Các cuộc tiến công bất chấp tổn thất đã từng bước đẩy lùi Iraq.

Mùa hè năm 1982, Iran đã giành lại tất cả các vùng lãnh thổ mà Iraq kiểm soát. Nhưng xung đột không vì vậy mà kết thúc.

Theo tài liệu của Đại học Quốc phòng Quốc gia Mỹ, lãnh đạo Iraq đã lầm khi nghĩ rằng cuộc xung đột sẽ dừng lại ở đây. Trong khi đó, Iran không chỉ tìm cách giành lại toàn bộ lãnh thổ bị Iraq kiểm soát mà còn có kế hoạch tấn công ngược lại sang lãnh thổ Iraq.

___

Trong suốt cuộc chiến tranh với Iraq, Iran luôn chịu thiệt thòi vì bị cô lập, không nhận được sự hỗ trợ từ bên ngoài. Nhưng không vì vậy mà Iran xuống thang căng thẳng, thậm chí còn dấn thêm một nước cờ bất ngờ. Mời độc giả đón đọc diễn biến trong bài kỳ 2, xuất bản sáng sớm ngày 19/11.

Đăng Nguyễn – Tổng hợp

__________________________

CHIẾN TRANH IRAQ – IRAN: Giành lại được lãnh thổ, Iran bất ngờ lấn tới khiến Iraq choáng váng

NĐT – Chủ nhật, 19/11/2023 | 00:09

Quân đội Iran sau khi tái tổ chức không những có thể nhanh chống đẩy lùi hoàn toàn các lực lượng Iraq khỏi lãnh thổ, mà còn phát động chiến dịch tấn công ngược sang lãnh thổ Iraq.

Binh sĩ trên chiến trường trong cuộc chiến tranh Iraq – Iran.

Ở giai đoạn đầu tiên của cuộc xung đột, quân đội Iraq tiến sâu 80 -120km vào lãnh thổ Iran ở tiền tuyến dài 800km, kiểm soát 4 thành phố lớn cho đến khi các nỗ lực tiến công rơi vào bế tắc

Từ tháng 8/1981 cho đến tháng 3/1982, Iran phản công mạnh mẽ đẩy lùi hoàn toàn các lực lượng Iraq khỏi lãnh thổ. Người Iran đã làm điều đó như thế nào?

Trong cuốn sách phân tích cuộc chiến tranh Iraq – Iran, cựu thống chế Ai Cập Abdul-Halim Abu Ghazalah (1930-2008), nêu nhận định rằng Tổng thống Iraq Saddam Hussein và các tướng lĩnh trong bộ Tổng tham mưu luôn chờ đợi Iran đề xuất thỏa thuận ngừng bắn có lợi. Iraq đã chờ đợi như vậy từ cuối năm 1980 cho đến tháng 8/1981.

Nhưng trong giai đoạn này, dư âm của cuộc Cách mạng Hồi giáo vẫn còn rất mạnh mẽ. Người Iran đã đoàn kết quanh Giáo chủ Ruhollah Khomeini để chống ngoại xâm.

Iran đã tận dụng khoảng thời gian này để tái tổ chức quân đội, tăng cường khả năng chiến đấu, nâng cao sĩ khí, tích hợp các Lực lượng Vệ binh Quốc gia (IRGC) vào quân đội chính quy. Iran cũng tìm mọi cách để nhập khẩu vũ khí, phụ tùng thay thế, đạn dược và các trang thiết bị quân sự khác. Cuối cùng Iran lên kế hoạch tấn công dọc tiền tuyến. 

Iran chiếm thế chủ động

Kể từ tháng 8/1981, Iran hoàn toàn nắm thế chủ động trong xung đột, tổ chức các đợt tiến công nhỏ với mục đích thăm dò. Tháng 11/1981, Iran tổ chức tiến công quy mô lớn với một sư đoàn bộ binh, một sư đoàn cơ giới và 10.000 quân tinh nhuệ của IRGC. Trong cuộc tiến công này, Iran tái kiểm soát thành phố Bostan, và các ngôi làng lân cận ở phía đông bắc vùng Khuzestan, cách biên giới Iraq khoảng 16km.

Ở tiền tuyến phía nam, Iran cũng tổ chức mũi tiến công với quy mô tương tự, tái kiểm soát thành phố Abadan, khiến quân Iraq phải rút về Khoramshahr, thành phố lớn đầu tiên Iraq kiểm soát từ tay Iran vào tháng 11/1980.

Các cuộc tiến công có kết quả này tạo ra cú hích tinh thần lớn. Trong các cuộc giao tranh, lực lượng bộ binh Iran ít kinh nghiệm hơn đóng vai trò chiến đấu ở tuyến đầu. Lực lượng IRGC tinh nhuệ chỉ chiến đấu ở tuyến sau hoặc khi cần tung ra đòn đánh quyết định.

Các phần gạch chéo màu xanh lá cây biểu thị các vùng lãnh thổ Iraq do Iran kiểm soát.

Khoảng 60.000 quân tinh nhuệ của IRGC sau đó cũng được Iran bổ sung vào hàng ngũ lực lượng chính quy. Lực lượng này đặc biệt am hiểu các phương pháp tác chiến vào ban đêm.

Ở thời điểm đó, Iran đã biết cách sử dụng pháo binh để áp chế các cứ điểm phòng thủ của Iraq, sau đó mới tung lực lượng xung kích vào chiến đấu.

Trong khi Iran không ngừng rút ra kinh nghiệm trong chiến đấu, Bộ Tổng tham mưu Iraq vẫn giữ nguyên các đơn vị tiền tuyến ban đầu của họ và ít quan tâm đến sự mệt mỏi của binh sĩ. Iraq không hề có động thái củng cố tuyến phòng thủ ở các khu vực lãnh thổ kiểm soát từ Iran.

Iran cũng có lợi thế hơn khi tập trung hỏa lực pháo binh nhằm hỗ trợ lực lượng xung kích. Ngược lại, Iraq phải phân tán hỏa lực trên khắp 800km tiền tuyến.

Nếu lực lượng phòng thủ Iraq được pháo binh yểm trợ tốt hơn, họ lẽ ra đã có thể ngăn Iran tái kiểm soát thành phố Abadan, ông Abu Ghazalah viết.

Trong giai đoạn từ tháng 3 – tháng 5/1982, ông Abu Ghazalah cho biết, Iran tổ chức 3 cuộc tiến công lớn mang tên Fatima al-Zahra, Fath và Beit al-Muqadas.

Sau 8 ngày giao tranh kể từ ngày 22/3/1980, 3 sư đoàn bộ binh Iraq bị các lực lượng Iran đánh tan tác, ước tính tổn thất lên tới 20.000 người.

“Đây là các cuộc đụng độ lớn nhất kể từ khi xung đột giữa hai nước nổ ra”, một quan chức tình báo Mỹ nói khi đó, theo Washington Post. “Lực lượng Iraq ở Iran đứng trên bờ vực sụp đổ’.

Năm 1982 đánh dấu bước nhảy vọt trong chiến thuật tác chiến với phần lớn là bộ binh. “Chiến thuật biển người” cùng với ý chí chiến đấu của Iran đã áp đảo các lực lượng phòng thủ Iraq.

Tháng 5/1982, Iraq rút quân khỏi thành phố Khorramshahr khi Iran đã giành lại tất cả các vùng lân cận. 10 ngày sau, ông Saddam Hussein đề xuất ngừng bắn, đồng thời rút quân khỏi lãnh thổ Iran. Nhưng Iraq không ngờ một Iran còn chưa ổn định hoàn toàn sau cuộc Cách mạng Hồi giáo, lại có thể không chấp nhận ngừng bắn mà còn phát động chiến dịch quân sự mới.

Iran mở chiến dịch tấn công ngược sang lãnh thổ Iraq

Kể từ năm 1983 – 1987, Iran tổ chức một loạt các chiến dịch tấn công Iraq. Trong chiến dịch Fajr al-Nasr (Bình minh Chiến thắng), Iran muốn kiểm soát tuyến đường cao tốc kết nối thủ đô Baghdad của Iraq với miền bắc. Ở miền nam, lực lượng Iran đặt mục tiêu cô lập hoàn toàn Basra, một trong những thành phố lớn nhất của Iraq.

Trong phần lớn giai đoạn của cuộc chiến, Iraq phải chống đỡ các cuộc tấn công của Iran.

Lực lượng chủ lực Iraq đối phó các đơn vị tiến công của Iran là tập đoàn quân số 4, với quy mô gồm 2 sư đoàn bộ binh, 1 sư đoàn cơ giới và 2 sư đoàn bọc thép. Sau những khó khăn bước đầu, lực lượng Iran áp sát thành phố al-Amarah, cách biên giới Iran khoảng 50km. Trong cuộc đụng độ căng thẳng, hai bên chủ yếu giao tranh bằng cách đấu pháo. Không quân Iran yểm trợ một cách hạn chế vì mạng lưới phòng không dày đặc trong lãnh thổ Iraq.

Ngoài ra, Iran cũng gây sức ép bằng cách nã pháo nhằm vào các thành phố Basra, Khanjein và Mandlee của Iraq. Những bãi mìn, đặc biệt là mìn chống tăng Iraq rải xung quanh thành phố Basra khiến lực lượng Iran chịu tổn thất lớn.

Các chiến thuật giúp Iran giành lại lãnh thổ năm 1982 đến nay tỏ ra không hiệu quả khi tấn công các thành phố lớn của Iraq. Trong giai đoạn này, Iraq vung tiền nhập khẩu số lượng vũ khí gấp 3 lần Iran. Iraq cũng tung vào chiến trường các xe tăng T-72 hiện đại vào thời điểm đó.

Vũ khí đáng kể mà Iran nhập khẩu từ nước ngoài khi đó có thể kể đến chiến đấu cơ F-1 Mirage của Pháp, trang bị tên lửa đối đất Exocet. Nhưng Iraq mua trực thăng tấn công Super Frelon của Pháp, bổ sung thêm năng lực yểm trợ tầm gần.

Trong giai đoạn chống đỡ cuộc tiến công của Iran, Iraq nhận được sự hậu thuẫn từ các quốc gia vùng Vịnh. Các quốc gia dầu mỏ cung cấp tín dụng để Iraq vung tiền mua thêm 300 máy bay các loại, chủ yếu là các oanh tạc cơ và tiêm kích của Liên Xô.

Ngược lại, trong số 400 máy bay Iran sở hữu từ thời trước Cách mạng Hồi giáo năm 1979, chỉ còn 70 chiếc có thể hoạt động tính tới năm 1983.

Năm 1984, Iran phát động cuộc tiến công mới ở Iraq với 250.000 quân (khoảng 25 -33 sư đoàn). Kết thúc giao tranh kéo dài hơn một tháng, Iran tổn thất 20.000 quân nhưng được coi là chiến thắng vì kiểm soát hai hòn đảo Majnoon và Baida của Iraq.

Tuy nhiên, mũi tiến công của Iran ở phía bắc Iraq thất bại, một phần do sự hỗ trợ yếu ớt từ lực lượng ly khai người Kurd. Chiến lược bao vây thủ đô Baghdad vì vậy cũng không thực hiện được.

Theo quan điểm của các nhà quan sát quốc tế, cho đến cuối năm 1986, Iran vẫn chiếm ưu thế trước Iraq. Quân đội Iran dù gặp khó khăn vì thiếu thốn vũ khí, nhưng vẫn tạo được bước tiến, kiểm soát các khu vực chỉ cách Baghdad khoảng 113km. Iran cũng phát triển thành công máy bay không người lái (UAV) vũ trang đầu tiên mang tên Mohajer-1. Mẫu UAV này có thể mang theo 6 đầu đạn chống tăng RPG-7.

Chiến tranh Iraq – Iran là một trong những cuộc xung đột đẫm máu nhất kể từ sau Thế chiến 2.

Đầu năm 1987, Iran tiếp tục mở cuộc tiến công lớn trong lãnh thổ Iraq và mục tiêu vẫn là thành phố Barsa. Iran huy động khoảng 200.000 quân tấn công với 70% thành phần là lực lượng IRGC.

Ở trên bầu trời, các chiến đấu cơ Iraq áp đảo Iran với số lượng 10-1. Chỉ riêng 2 ngày giao tranh, các chiến đấu cơ Iraq xuất kích hơn 500 lần, phá hủy 218 phương tiện bọc thép Iran.

Mặc dù Iran vượt trội hơn trong tác chiến trên bộ, nhưng chiều sâu trong mạng lưới phòng thủ của Iraq ở Barsa ngăn Iran giành được chiến thắng. Sau 8 ngày giao tranh, Mỹ ước tính Iran tổn thất 40.000 quân (tương đương 25% lực lượng) còn Iraq tổn thất 10.000 quân. Tổn thất lớn khiến Iran mất động lực tiến công và phải rút lui dù đã tiến sát đến cửa ngõ thành phố.

Cuộc chiến Iraq – Iran cứ như vậy diễn ra theo cách Iran nắm thế chủ động nhưng không giành được chiến thắng quyết định, còn Iraq có nguồn lực hỗ trợ từ nước ngoài để tiếp tục chiến đấu.

Xung đột chỉ đi đến hồi kết khi Mỹ chính thức can dự trong một cuộc đụng độ với Iran vào năm 1988. Sau cuộc đụng độ này, Iran cảm thấy cần phải chấm dứt chiến tranh.

___

Không phải là đồng minh của Iraq ở thời điểm nước này có chiến tranh với Iraq, nhưng Mỹ thấy có lý do để quyết định can dự vào cuộc chiến. Một trận hải chiến hiếm hoi và đầy kịch tính giữa hải quân Mỹ và Iran đã diễn ra. Mời độc giả đón đọc  chi tiết trong bài kỳ 3, xuất bản sáng sớm ngày 20/11.

Đăng Nguyễn – Tổng hợp

__________________________________

Trận hải chiến lớn bậc nhất của Mỹ sau Thế chiến 2 khiến Iran ngừng chiến tranh với Iraq

NĐT – Thứ 2, 20/11/2023 | 00:07

Kể từ năm 1987, cục diện chiến tranh Iraq – Iran có sự thay đổi khi Mỹ ngày càng can dự rõ rệt hơn và quyết định của Mỹ có tác động đáng kể khiến cuộc xung đột đi đến hồi kết.

Cuộc chiến tranh Iraq – Iran khiến Mỹ dè chừng vì Iran là quốc gia không dễ bị bắt nạt.

Theo quan điểm của Mỹ, “không có người tốt và kẻ xấu” trong chiến tranh Iraq – Iran. Iraq dưới thời nhà độc tài Saddam Hussein thực tế muốn trở thành thế lực thống trị Trung Đông và cuối cùng đe dọa sự tồn vong của Israel, Viện Brookings có trụ sở ở Washington D.C cho biết.

Ngược lại, sau cuộc Cách mạng Hồi giáo năm 1979, Iran có dấu hiệu trỗi dậy mạnh mẽ dưới thời Giáo chủ Ruhollah Khomeini, trở thành cái gai trong mắt của phương Tây.

Cả Iraq và Iran đều không phải đồng minh, cũng không phải đối thủ của Mỹ khi đó. Nhưng Mỹ cần đảm bảo rằng Iraq và Iran không thể trở thành thế lực thống trị Trung Đông, chi phối nguồn cung dầu mỏ của thế giới.

Từ sau năm 1980, Iran đã hoàn toàn chiếm ưu thế trong xung đột, tấn công ngược sang lãnh thổ Iraq và có thời điểm đứng trước ngưỡng cửa chiến thắng. Do đó, Mỹ không còn cách nào khác là hỗ trợ Iraq, Viện Brookings nhận định.

Tháng 7/1987, Mỹ mở chiến dịch vận tải đường thủy lớn nhất kể từ Thế chiến 2. Nhóm các tàu sân bay, tàu chiến Mỹ tham gia hộ tống đoàn tàu chở dầu Kuwait trước những cuộc tập kích phá hoại từ Iran. Kuwait có mối quan hệ căng thẳng với Iran do là một trong những quốc gia hỗ trợ tài chính và vũ khí cho Iraq.

Ngày 24/7/1987, tàu chở dầu đầu tiên của Kuwait được tàu chiến Mỹ hộ tống đã đâm phải mìn của Iran. Mỹ sau đó phải huy động tàu dò mìn, máy bay săn ngầm để loại bỏ những quả mìn Iran rải ở vùng Vịnh nhằm ngăn tàu thuyền hoạt động.

Tàu tên lửa Sahand của Iran bị tàu chiến Mỹ đánh chìm trong trận hải chiến năm 1988.

Bất chấp sự hộ tống của Mỹ, hải quân Iran sử dụng tàu cao tốc, tàu cỡ nhỏ để quấy rối các tàu chở dầu. Iran cũng huy động tàu rải mìn vào ban đêm để tránh sự theo dõi của Mỹ.

Ngày 14/4/1988, tàu tên lửa USS Samuel B. Roberts của Mỹ trúng phải mìn Iran rải trên biển. Vụ nổ lớn tạo ra lỗ hổng rộng 4,5 mét ở thân tàu và chỉ có may mắn mới giúp cho tàu không bị chìm hoàn toàn.

Sự kiện này leo thang căng thẳng tột độ, khiến Mỹ quyết định mở Chiến dịch Bọ Ngựa (Praying Mantis) nhằm bẻ gãy hải quân Iran. Mỹ huy động một nhóm tác chiến tàu sân bay trong trận hải chiến với Iran và đây là một trong 5 trận hải chiến lớn nhất của Mỹ kể từ Thế chiến 2.

Ngày 18/4/1988, hải quân Mỹ mở cuộc tấn công với lực lượng gồm tàu sân bay USS Enterprise, 2 tuần dương hạm, 4 khu trục hạm, 3 tàu tên lửa và một tàu vận tải đổ bộ. Mục tiêu của Mỹ là các giàn khoan dầu Sassan, Rakhsh và Sirri trên vùng biển Iran. Đây là các giàn khoan được Iran sử dụng để theo dõi tuyến đường vận tải qua eo biển Hormuz.

8 giờ sáng, 3 tàu chiến Mỹ cùng các trực thăng quân sự tiếp cận giàn khoan Sassan của Iran, phát cảnh báo yêu cầu những người có mặt trên giàn khoan rời đi. Lực lượng Mỹ khai hỏa sau đó 20 phút và pháo phòng không cỡ 23mm trên giàn khoan bắn trả.

Trận hải chiến năm 1988 là lần đầu tiên tàu chiến Mỹ phóng tên lửa dẫn đường về phía tàu đối phương.

Với hỏa lực áp đảo, tàu chiến Mỹ vô hiệu hóa giàn khoan Sassan, đưa lính thủy đánh bộ lên giàn khoan để thu thập tài liệu trước khi cài thuốc nổ phá hủy.

Nhóm tàu chiến Mỹ sau đó chuyển hướng đến giàn khoan Rakhsh. Lúc này, hai chiến đấu cơ F-4 của không quân Iran bay tới tấn công các tàu chiến Mỹ nhưng buộc phải đổi hướng vì tàu khu trục USS Lynde McCormick Mỹ kích hoạt hệ thống phòng không. Trước những lo ngại do vị trí di chuyển bại lộ, các tàu chiến Mỹ thuộc nhóm đầu tiên quyết định hủy cuộc tấn công.

Nhóm tấn công thứ hai đồng thời tấn công giàn khoan Sirri. Giàn khoan bị hư hại nặng sau khi các tàu Mỹ nã hỏa lực nên lực lượng đặc nhiệm sau đó đã hủy kế hoạch đổ bộ.

Iran tiếp tục đối phó bằng cách huy động 6 xuồng cao tốc tấn công tàu hậu cần Willie Tide của Mỹ, tàu dầu York Marine của Anh và một số tàu thuyền khác ở Vịnh Ba Tư, khiến các tàu này bị hư hại.

Lúc này, cường kích A-6E của Mỹ cất cánh từ tàu sân bay US Enterprise với mục tiêu là nhóm xuồng cao tốc Iran. Cuộc tập kích của Mỹ khiến một xuồng cao tốc Iran bị đánh chìm.

Căng thẳng gia tăng khi Iran huy động tàu tên lửa tấn công nhanh Joshan tới khiêu chiến tàu khu trục USS Wainwright của Mỹ. Tàu Iran tấn công trước bằng cách phóng tên lửa chống hạm Harpoon. Tàu Mỹ triển khai mồi bẫy né tránh và sau đó đáp trả bằng tên lửa RIM-66 Standard. Tàu USS Simpson phóng 4 tên lửa còn tàu USS Wainwright phóng một tên lửa.

Tất cả 5 tên lửa đều đánh trúng mục tiêu nhưng các tàu Mỹ sau đó vẫn phải nã pháo ở cự ly gần mới có thể đánh chìm hoàn toàn tàu Iran. Đây là lần đầu tiên các tàu chiến Mỹ và tàu đối phương tấn công nhau bằng tên lửa chống hạm.

Tàu Sahand đơn độc đối phó 3 tàu chiến và máy bay chiến đấu Mỹ.

Có thêm hai chiến đấu cơ F-4 của Iran khi đó hoạt động cách tàu USS Wainwright khoảng 48km. Tàu khu trục Mỹ phóng hai tên lửa phòng không khiến một chiếc F-4 bị hư hại ở phần cánh, nhưng chiếc máy bay sau đó vẫn quay về căn cứ an toàn.

Hải quân Iran tiếp tục huy động tàu tên lửa Sahand nghênh chiến nhóm tàu Mỹ. Vị trí của tàu bị hai cường kích A-6E của Mỹ phát hiện. Tàu Sahand phòng tên lửa phòng không nhằm vào hai máy bay này nhưng trượt mục tiêu. Phía Mỹ đáp trả bằng tên lửa chống hạm Harpoon và 4 tên lửa đẫn đường bằng laser. Phần lớn tên lửa đều trúng đích, khiến tàu Sahand bốc cháy dữ dội. Ngọn lửa từ boong tàu sau đó lan xuống kho đạn, gây ra vụ nổ làm chìm tàu, khiến 45 thành viên thủy thủ đoàn thiệt mạng.

Đến chiều ngày 18/4, Iran huy động thêm khinh hạm tên lửa Sabalan nghênh chiến nhưng bị máy bay Mỹ tấn công gây hư hại. Con tàu sau đó vẫn có thể rút về cảng an toàn.

Iran tiếp tục phóng một số tên lửa chống hạm HY-4 từ đất liền do Trung Quốc sản xuất, nhằm vào nhóm tàu chiến Mỹ trên eo biển Hormuz và tàu USS Gary ở bắc vịnh Ba Tư. Tuy nhiên, tất cả đều trượt mục tiêu do tàu chiến Mỹ tung mồi bẫy né tránh.

Sau một loạt các cuộc đụng độ dẫn đến thắng thua rõ ràng, hải quân Mỹ chủ động rút lực lượng khỏi vùng biển Iran để hạ nhiệt căng thẳng. Iran chấp nhận ngừng giao tranh nhưng hai bên vẫn duy trì trạng thái cảnh giác.

Kết thúc trận hải chiến, Mỹ phá hủy 2 giàn khoan của Iran, đánh chìm 3 tàu cao tốc, một khinh hạm tên lửa và một tàu tấn công nhanh. Phía Mỹ ghi nhận một trực thăng AH-1 Cobra bị rơi trên biển khiến hai phi công thiệt mạng.

Các nhà quan sát quân sự khi đó nhận định, nhóm tàu sân bay Mỹ đã đánh chìm và làm hư hại nặng một nửa lực lượng tác chiến mặt nước của hải quân Iran. Thiệt hại trong trận hải chiến lớn hơn tổng thiệt hại đối với hải quân Iran sau 8 năm chiến tranh với Iraq.

Giàn khoan dầu Sassan của Iran bị lực lượng Mỹ tấn công.

Thất bại này được coi là một trong những nguyên nhân chính khiến giới lãnh đạo Iran nghiêng về giải pháp chấm dứt chiến tranh, do Mỹ giờ đây đã ngả hẳn về phía Iraq.

Quân đội Iran và Iraq sau đó vẫn có một số cuộc đụng độ quy mô nhỏ nhưng đều kết thúc bất phân thắng bại. Những binh sĩ Iran cuối cùng rút khỏi vùng Kurdistan ở miền bắc Iraq, là cơ sở để hai bên chính thức thông báo ngừng bắn, nối lại hòa bình sau 8 năm giao tranh.

Người Iraq ở Baghdad mở tiệc ăn mừng khi biết tin chiến tranh kết thúc. Còn với Iran, quốc gia hứng chịu tổn thất lớn hơn, người dân ở Tehran phản ứng với một tâm trạng không hề vui.

Theo Viện Brookings, bài học rút ra từ cuộc chiến tranh Iraq – Iran năm 1980 là khởi xướng xung đột với Iran rất đơn giản, nhưng để chấm dứt lại là điều rất khó khăn. Nhà nước Hồi giáo Iran không dễ bị đe dọa và năng lực trả đũa sâu rộng. Đây cũng là một trong những lý do Mỹ đến nay tỏ ra ngần ngại trong việc phát động chiến dịch tấn công Iran.

Đăng Nguyễn – Tổng hợp

Bình luận về bài viết này