06:13 |16/08/2018
–
Lẽ ra công tác quản trị nguồn thủy điện Việt Nam phải được đề cập từ khi thực hiện dự án đầu tiên với tầm vĩ mô của nó. Theo nhiều chuyên gia, chúng ta thiếu cách nhìn tổng quan, hệ thống, kể cả nguồn nước từ các nước láng giềng và khu vực. Trên thực tế, chúng ta chỉ mới xây dựng quy hoạch, dự án từng công trình, rộng hơn một ít là lưu vực một dòng sông. Còn tính tổng thể, hệ thống sông ngòi chưa được đề cập, thiếu những tính toán tối ưu cơ cấu nguồn điện cho từng giai đoạn. Các Nghị quyết, Quyết định của các cơ quan hữu trách cũng chỉ yêu cầu về quản lý thủy điện…
Từ kinh nghiệm Indonesia, Việt Nam nên khôi phục chương trình phát triển thủy điện
PGS, TS. BÙI HUY PHÙNG [*]
Mở đầu
Việt Nam có trên 100 lưu vực sông với gần 3.500 sông, suối có chiều dài trên 10 km. Tổng lượng nước mặt trung bình hàng năm khoảng 830-860 tỷ m3, nhưng trên 60% sản sinh từ nước ngoài. Tổng lượng nước đã được khai thác sử dụng hàng năm khoảng 81 tỷ m3, gần 10% tổng lượng nước trung bình hiện có. Về nước ngầm có tổng trữ lượng khoảng 63 tỷ m3/năm.
Nước là tài nguyên thiết yếu của con người, nhưng nguồn ở nước ta đang chịu nhiều sức ép từ nhu cầu sử dụng tăng, sử dụng hiệu quả thấp, biến đổi khí hậu, hạn hán, xâm nhập mặn, ô nhiễm, sạt lở, hiện đã thấy rõ tính không bền vững của nguồn tài nguyên này. Việc thực hiện quản trị tài nguyên nước ở nước ta thời gian qua có nhiều bất cập, cần thiết nghiên cứu bổ sung đánh giá và cập nhật, sử dụng hiệu quả hơn.
Quản lý và quản trị nguồn nước
Quản lý và quản trị là hai khái niệm rộng, có nhiều cách hiểu khác nhau, hay được dùng đồng thời, thay thế cho nhau và có thể dẫn tới nhầm lẫn, thực ra hai khái niện có sự khác biệt. Theo Wikipedia tiếng Việt có thể hiểu như sau:
Quản lý (Management) là quá trình thực hiện kế hoạch, tổ chức thực hiện, giám sát hoạt động thông qua các cá nhân, các nhóm và các nguồn lực khác nhau, để đạt được mục tiêu nào đó, ở tầm trung và thấp, với chức năng tác nghiệp, thi hành.
Tiếp tục đọc “Giải pháp nào quản trị hiệu quả nguồn thủy điện Việt Nam?”



