Phần giới thiệu của mình với các bạn tiếp theo Dân ca Bố Y là Dân ca Brâu hôm nay.
Dân tộc Brâu (còn gọi là Dân tộc Brạo) là một dân tộc thiểu số sinh sống chủ yếu tại Campuchia, Lào và một ít tại Việt Nam.
Theo các nguồn khác nhau thì dân số người Brâu tại Campuchia khoảng 14.000 người, tại Lào khoảng 13.000 người tới 24.000+ người. Tại Việt Nam từ năm 1981 trở lại đây thì dân số người Brâu dao động trong khoảng 300 người. Cụ thể như sau:
Tiếp theo “Dân ca Ba Na“, hôm nay mình giới thiệu đến các bạn Dân ca Bố Y.
Dân tộc Bố Y (tiếng Trung: 布依族, bính âm: Bùyīzú), còn gọi là Chủng Chá, Trọng Gia, Tu Dí, Tu Dìn hay Pu Nà. Ngôn ngữ của dân tộc Bố Y thuộc ngữ chi Tày-Thái. Dân tộc Bố Y có dân số khoảng 2.971.460 người, chủ yếu sống tại Trung Quốc và chỉ khoảng 2.273 người sinh sống tại Việt Nam. Nơi cư trú của họ là các huyện biên giới ở các tỉnh Lào Cai, Hà Giang và tại Trung Quốc ở các tỉnh Quý Châu, Vân Nam, Tứ Xuyên. Mặc dù tại cả Trung Quốc lẫn Việt Nam họ vẫn được hai chính phủ này công nhận như là một nhóm sắc tộc riêng rẽ, nhưng chính họ lại tự coi mình là người Tráng. Tiếp tục đọc “Dân ca dân nhạc VN – Dân ca Bố Y”→
Việt Nam chúng ta có một diện tích trải dài trên ngàn cây số dọc theo biển Đông với 54 dân tộc anh em, mỗi dân tộc lại có những âm điệu, lời ca đặc thù riêng biệt. Hôm nay mình giới thiệu đến các bạn nền dân ca dân nhạc của 54 dân tộc anh em chúng ta. Trước tiên mình giới thiệu đến các bạn Dân ca Bahnar/Ba Na của Dân tộc Bahnar/Ba Na.
Tộc Bahnar/Ba Na (các tên gọi khác: Ba Na Trên Núi, Ba Na Dưới Núi, Ba Na Đông, Ba Na Tây, Tơ Lộ, Bơ Nâm, Glơ Lâng, Rơ Ngao, Krem, Roh, Con Kde, A la công, Krăng, Bơ Môn, Kpăng Công, Y Lăng) có dân số khoảng 227.716 người. Họ có nhiều tên gọi khác nhau như thế bởi theo nơi cư trú hay phong tục tập quán của mỗi vùng.
Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, Dân tộc Bahnar/Ba Na cư trú tại 51 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố, chủ yếu tập trung tại các tỉnh:
Gia Lai (150.416 người, chiếm 11,8% dân số toàn tỉnh và 66,1% tổng số người Ba Na tại Việt Nam) Kon Tum (53.997 người, chiếm 12,5% dân số toàn tỉnh và 23,7% tổng số người Ba Na tại Việt Nam) Phú Yên (4.145 người, chiếm 12,5% dân số toàn tỉnh và 23,7% tổng số người Ba Na tại Việt Nam) Bình Định (18.175 người, chiếm 8,0% tổng số người Ba Na tại Việt Nam) Đắk Lắk (301 người) Bình Thuận (133 người)
Tiếp theo “Bà Rằng Bà Rí”, hôm nay mình giới thiệu đến các bạn một bài dân ca kinh điển khác của Việt Nam, “Thằng Bờm”.
Khác với hầu hết mọi bài dân ca khác, Thằng Bờm là một bài đồng dao lục bát vừa giản dị vừa vui, nhưng có lẽ đây là bài dân ca sâu sắc nhất về văn hóa nông nghiệp Việt Nam. Tiếp tục đọc “Dân ca dân nhạc VN – Thằng Bờm”→
Dưới đây là link đến chương trình 30 phút của kênh VTC10, về Trần Lê Túy Phượng của Đọt Chuối Non. Chương trình này nói về một cá nhân, nhưng đặt trong bối cảnh văn hóa lớn hơn của người Việt tại Mỹ, cho nên chương trình trình bày đời sống văn hóa của người Việt ở Mỹ hơn chỉ là một cá nhân. Rất có giá trị nghiên cứu. Biên tập viên Đằng Đông của VTC10 tạo được một sản phẩm xuất sắc.
Mời các bạn click vào link dưới đây và đợi vài phút để chương trình xuất hiện:
Hôm nay mình giới thiệu đến các bạn một bài dân ca bất hủ của vùng Phú Thọ nằm trong hệ phong tục tảo hôn.
Tảo hôn là trường hợp kết hôn trong đó cô dâu và chú rể hoặc một trong hai người là trẻ em hoặc là người chưa đến tuổi kết hôn (thông thường là chưa đến tuổi dậy thì). Tập tục tảo hôn trước đây có mặt ở nhiều nơi trên thế giới, kể cả châu Âu, nay còn tồn tại ở một số vùng thuộc châu Phi, châu Á, và Nam Mỹ. Nó thường đi kèm với một hủ tục khác là hôn nhân được sắp đặt. Tiếp tục đọc “Dân ca dân nhạc VN – Bà Rằng Bà Rí”→
Tiếp theo “Hát Đúm“, hôm nay mình giới thiệu đến các bạn giai điệu “Hát Lái” trong dân ca Việt Nam chúng ta.
Nói Lái (còn gọi là Nói Trại) là một cách nói kiểu chơi chữ của dân Việt. Đối với từng vùng miền khác nhau thì do cách nói của tiếng địa phương nên tiếng nói lái sẽ có thay đổi một chút. Tiếp tục đọc “Dân ca dân nhạc VN – Hát Lái”→
Tiếp theo “Hát Dô”, hôm nay mình giới thiệu đến các bạn thể loại “Hát Đúm”.
Mỗi năm vào dịp đầu Xuân, truyền thống văn hóa Lễ Hội Hát Đúm của người dân Thủy Nguyên (Hải Phòng) được dàn dựng tại 3 xã Phục Lễ, Phả Lễ và Lập Lễ.
Bài bản của Hát Đúm rất phong phú. Đầu tiên, khi mới gặp nhau là những câu hát chào, những câu hát mừng. Tiếp sau đó có thể là hát hỏi, hát đố, hát họa, hát huê tình, hát cưới… và cuối cùng là hát ra về.Tiếp tục đọc “Dân ca dân nhạc VN – Hát Đúm”→
Tiếp theo “Hát Trống Quân“, mình giới thiệu đến các bạn bộ môn “Hát Dô” hôm nay.
Hát Dô là một thể loại nhạc nghi lễ thờ cúng Thần hoàng Tản Viên xuất xứ từ Lạp Hạ, nay là xã Liệp Tuyết.
Thể loại âm nhạc nghi lễ truyền thống này chỉ được hát trong dịp lễ cúng tế Thần hoàng Tản Viên được người dân trong làng tổ chức theo chu kỳ 36 năm một lần. Các bài hát cúng tế này có lời văn đậm chất lãng mạn và trữ tình không kém chi các thể loại Hát Quan Họ, Hát Trống quân… v.v… Tiếp tục đọc “Dân ca dân nhạc VN – Hát Dô”→
Phần giới thiệu của mình hôm nay đến các bạn là thể loại Hát Trống Quân.
Hát Trống Quân là hình thức sinh hoạt ca hát giao duyên rất phổ biến ở các tỉnh đồng bằng và trung du của Việt Nam, kể từ Thanh Hóa trở ra. Một số nơi có nghệ thuật Trống Quân phát triển như ở Hưng Yên, Hải Dương, Bắc Ninh, vùng ven Hà Nội, Vĩnh Phúc và Phú Thọ.
Hát trống quân ở mỗi địa phương có chút ít khác nhau về làn điệu, cách thức, thời điểm hát nhưng có đặc điểm chung là cách thức hát xướng giống nhau, làn điệu gần giống nhau và sử dụng một loại trống để đánh nhịp khi hát và đoạn “Lưu không” giữa những câu đối đáp. Tiếp tục đọc “Dân ca dân nhạc VN – Hát Trống Quân”→
Hôm nay mình giới thiệu với các bạn một bài dân ca quan họ bất hủ rất phổ biến xưa nay trên khắp vùng miền của đất nước diễn tả về tình yêu giữa đôi trai gái vừa lãng mạn, vừa nhẹ nhàng mê đắm, vừa nồng nàn và cũng vừa liều mạng cả gan dối cha dối mẹ để được trọn vẹn tình tứ với người yêu của các cụ ta xưa. Đó là bài “Qua Cầu Gió Bay”.Tiếp tục đọc “Dân ca dân nhạc VN – Qua Cầu Gió Bay”→
Hôm nay mình giới thiệu đến các bạn bộ môn “Hát Bội/Tuồng Miền Bắc”, tiếp theo “Hát Ru Con Miền Bắc“.
Hát Bội/Hát Bộ/Tuồng đều có mặt trên 3 miền Nam, Trung, Bắc của Việt Nam chúng ta. Theo truyền thuyết dân gian từ xa xưa thì Hát Bội (Tuồng) ra đời ở Bình Định trên cơ sở ông Đào Duy Từ, người Thanh Hóa, sau khi bị vua Lê không cho đi thi và cấm diễn nghệ thuật sân khấu, đã trốn vào Nam sống ở huyện Hoài Nhơn và dạy cho người dân ở đây diễn nghệ thuật múa hát theo kiểu Hát Bội. Dĩ nhiên để trở thành môn nghệ thuật hoàn chỉnh thì phải trải qua nhiều thế kỷ hoàn thiện của rất nhiều thế hệ nghệ sĩ từ thời Đào Duy Từ đến thời kỳ Đào Tấn. Tiếp tục đọc “Dân ca dân nhạc VN – Hát Bội/Tuồng Miền Bắc”→
Phần giới thiệu của mình trong Dân ca Dân nhạc Việt Nam hôm nay với các bạn là thể loại “Hát Ru Con Miền Bắc” tiếp theo Hát Chầu Văn.
“Hát ru là bài học giáo dục âm nhạc đầu tiên người mẹ truyền cho đứa con. Cùng lúc với dòng sữa nóng nuôi thân thể của con thì một làn điệu thi ca dân gian, một nét nhạc dân tộc được rót vào trong tiềm thức của bé.” (GS Trần Văn Khê)
Tiếp theo “Hát Ống/Hát Ví – Bắc Giang”, hôm nay mình giới thiệu đến các bạn thể loại “Hát Chầu Văn” của miền Bắc, Việt Nam.
Hát Chầu Văn là lễ nhạc hát chầu Thánh nên có vai trò quan trọng trong lễ hầu đồng. Lời ca, tiếng nhạc của cung văn nhằm mời gọi các vị Thánh về. Hát văn làm cho buổi lễ sống động. Những người hát văn vừa chơi nhạc cụ vừa thay nhau hát trong một vấn hầu thường kéo dài từ 4-8 tiếng. Tiếp tục đọc “Dân ca dân nhạc VN – Hát Chầu Văn”→
Tiếp theo “Hát Xẩm”, mình giới thiệu đến các bạn “Hát Ống/Hát Ví – Bắc Giang” hôm nay.
Hát Ống/Hát Ví là một thể loại âm nhạc dân gian mộc mạc nhưng trữ tình luôn làm xao xuyến lòng người của cộng đồng nông dân thôn Hậu, xã Liên Chung (Tân Yên-Bắc Giang).
“Thôn Hậu hội tụ đủ các yếu tố của một làng quê thuần Việt, mang đậm nét truyền thống nông thôn Bắc Bộ với đình Ao Vường cổ kính, cổng làng, giếng nước còn phủ bóng thời gian, con ngõ nhỏ dài hun hút, những rặng tre bám dọc đường làng… Tiếp tục đọc “Dân ca dân nhạc VN – Hát Ống/Hát Ví Bắc Giang”→