Dân ca dân nhạc VN – Dân ca Bình Định

Đọc các bài cùng chuỗi, xin click vào đây.

Chào các bạn,

Để tiếp theo chuổi bài “Dân ca Miền Trung”, hôm nay mình giới thiệu đến các bạn “Dân ca Bình Định”.

Bình Định xưa nay vẫn luôn được coi là trung tâm của nghệ thuật Hát Bội (Tuồng). Nói tới Tuồng là người ta sẽ nhớ đến Bình Định, và nếu như muốn được xem những vở tuồng nguyên thủy của Đào Tấn, Nguyễn Văn Diêu… thì phải đến Qui Nhơn.

Bình Định còn là nơi sinh ra nhóm anh hùng áo vải Tây Sơn Tam Kiệt với bộ môn võ thuật cổ truyền Tây Sơn cùng với một hệ thống âm nhạc võ thuật độc đáo mang tên “Nhạc Võ Tây Sơn”. Tiếp tục đọc “Dân ca dân nhạc VN – Dân ca Bình Định”

Dân ca dân nhạc VN – Dân ca Quảng Ngãi

Đọc các bài cùng chuỗi, xin click vào đây.

Chào các bạn.

Tiếp theo “Dân ca Quảng Nam”, hôm nay mình giới thiệu đến các bạn bộ môn dân ca truyền thống “Hát Sắc Bùa” của Quảng Ngãi.

Hát Sắc Bùa là một sinh hoạt nghệ thuật dân gian truyền thống mang tính nghi lễ phong tục lâu đời của người Việt và người Mường, phổ biến ở nhiều nơi từ Bắc chí Nam. Nhưng đặc thù nhất phải nói đến các Đoàn Sắc Bùa Đức Phổ và Mộ Đức của tỉnh Quảng Ngãi.

Sinh hoạt Hát Sắc Bùa thường do các Đoàn Sắc Bùa thực hiện diễn ra sôi nổi tại các tư gia vào dịp đầu xuân với ý nghĩa chúc gia đình chủ nhà một năm mới người yên vật thịnh, mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt, hạnh phúc giàu sang, trăm nghề tấn phát, tống trừ mọi điều xui xẻo… Tiếp tục đọc “Dân ca dân nhạc VN – Dân ca Quảng Ngãi”

Dân ca dân nhạc VN – Dân ca Quảng Nam

Đọc các bài cùng chuỗi, xin click vào đây.

Chào các bạn,

Tiếp theo bài “Vè Ba Miền”, hôm nay mình giới thiệu đến các bạn “Dân ca Quảng Nam”.

Địa phận Quảng Nam nằm ở miền Trung của Việt Nam, cách Hà Nội 860 km về phía Bắc, cách Sài Gòn 865 km về phía Nam. Phía Bắc giáp tỉnh Thừa Thiên Huế và thành phố Đà Nẵng; phía Nam giáp tỉnh Quảng Ngãi và tỉnh Kon Tum, phía tây giáp tỉnh Sekong (Lào), phía Đông giáp biển Đông.

Tên gọi Quảng Nam có nghĩa là “mở rộng về phương Nam”. Quảng Nam nằm ở chính trung điểm Việt Nam theo trục Bắc – Nam, là nơi giao hòa của những sắc thái văn hóa giữa hai miền và giao lưu văn hóa với bên ngoài, điều này góp phần làm cho Quảng Nam giàu truyền thống, độc đáo về bản sắc văn hóa.

Trong truyền thống dân ca của Quảng Nam, có 3 thể loại thường được người dân ưa chuộng thể hiện nhất là: Hát Bài Chòi, Hò Khoan, và Hát Bả Trạo/Hát Bá Trạo. Tiếp tục đọc “Dân ca dân nhạc VN – Dân ca Quảng Nam”

Dân ca dân nhạc VN – Hát Hầu Văn Huế

Đọc các bài cùng chuỗi, xin click vào đây.

Chào các bạn,

Hôm nay chúng ta sẽ nói đến thể loại “Hát Hầu Văn Huế”, một thể loại nhạc không thể thiếu trong văn hóa “Đạo Mẩu” và “Đức Thánh Trần” của dân tộc Việt Nam chúng ta.

Hát văn, còn gọi là hầu văn/chầu văn hay hát bóng, là một loại hình nghệ thuật ca hát cổ truyền của Việt Nam. Đây là hình thức lễ nhạc gắn liền với nghi thức hầu đồng của tín ngưỡng Tứ phủ (Đạo Mẫu) và tín ngưỡng thờ Đức Thánh Trần (Đức Thánh Vương Trần Hưng Đạo), một tín ngưỡng dân gian Việt Nam. Bằng cách sử dụng âm nhạc mang tính tâm linh với các lời văn trau chuốt nghiêm trang, hầu văn/chầu văn được coi là hình thức ca hát mang ý nghĩa chầu thánh. Hát văn có xuất xứ ở vùng đồng bằng Bắc Bộ.

Thời kỳ thịnh vượng nhất của hát văn là cuối thế kỉ 19, đầu thế kỉ 20. Vào thời gian này, thường có các cuộc thi hát để chọn người hát cung văn. Từ năm 1954, hát văn dần dần mai một vì hầu đồng bị cấm do bị coi là mê tín dị đoan. Đến đầu những năm 1990, hát văn lại có cơ hội phát triển. Các trung tâm của hát văn là Hà Nam, Nam Định và một số vùng thuộc đồng bằng Bắc Bộ. Tiếp tục đọc “Dân ca dân nhạc VN – Hát Hầu Văn Huế”

Dân ca dân nhạc VN – Nhạc Chương và Lễ Tế Nam Giao

Đọc các bài cùng chuỗi, xin click vào đây.

Chào các bạn,

Tiếp theo “Hát Bội/Tuồng Huế”, mình giới thiệu đến các bạn “Nhạc chương – Lễ tế Nam Giao”.

Lễ tế Nam Giao là một quốc lễ được tổ chức hàng năm, nhưng đến năm 1891 thì tổ chức ba năm một lần, vào các năm Tý, Mão, Ngọ và Dậu, đầu mùa Xuân, trong tháng hai âm lịch, một trong những ngày có chữ “Tân”, như Tân Dậu, Tân Hợi… Lễ tế Nam Giao, do chính nhà vua làm chủ tế, có đầy đủ nghi thức triều đình với dàn Đại Nhạc và hệ thống Nhạc chương, là một hệ thống có 9 bài (nhã) ca, do ca sinh và nhạc sinh diễn tấu trong 9 lễ thức dưới thời đại Vương triều nhà Nguyễn.

Đàn Nam Giao là nơi làm lễ tế Nam Giao, thuộc địa phận phường Trường An, thành phố Huế. Đây là đàn Nam Giao duy nhất còn hiện hữu (dù trong tình trạng không còn nguyên vẹn) ở Việt Nam, cũng là đàn tế duy nhất còn tồn tại trong số nhiều đàn tế cổ ở Huế. Tiếp tục đọc “Dân ca dân nhạc VN – Nhạc Chương và Lễ Tế Nam Giao”

Dân ca dân nhạc VN – Hát Bội/Tuồng Huế

Đọc các bài cùng chuỗi, xin click vào đây.

Chào các bạn,

Tiếp theo “Nhã Nhạc Cung Đình Huế”, hôm nay mình giới thiệu đến các bạn “Hát Bội/Tuồng Huế”, một bộ môn nghệ thuật sân khấu truyền thống độc đáo khởi nguồn từ thời đại Đàng Ngoài đến thời đại Đàng Trong trong lịch sử Việt Nam chúng ta, do ông Đào Duy Từ phục hưng từ năm 1627 cùng với Chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên, và đã một thời cung cấp cho Vương triều nhà Nguyễn một nền văn hóa truyền thống mang tầm ảnh hưởng đến vùng đất Chín Rồng như chúng ta được biết. Tiếp tục đọc “Dân ca dân nhạc VN – Hát Bội/Tuồng Huế”

Dân ca dân nhạc VN – Nhã Nhạc Cung Đình Huế

Đọc các bài cùng chuỗi, xin click vào đây.

Chào các bạn,

Tiếp theo “Ca Huế”, hôm nay mình giới thiệu đến các bạn “Nhã Nhạc Cung Đình Huế”, một bộ môn âm nhạc cung đình chính thống đặc thù trong các thời kỳ Lý, Trần, Lê, Nguyễn, của dân tộc Việt Nam chúng ta.

Nhã nhạc cung đình Huế là thể loại nhạc của cung đình thời phong kiến, được biểu diễn vào các dịp lễ hội (vua đăng quang, băng hà, các lễ hội tôn nghiêm khác) trong năm của các triều đại nhà Nguyễn của Việt Nam. Nhã nhạc cung đình Huế đã được UNESCO công nhận là Kiệt tác truyền khẩu và phi vật thể nhân loại vào năm 2003. Theo đánh giá của UNESCO, “trong các thể loại nhạc cổ truyền ở Việt Nam, chỉ có Nhã nhạc đạt tới tầm vóc quốc gia”. “Nhã nhạc đã được phát triển từ thế kỷ 13 ở Việt Nam đến thời nhà Nguyễn thì Nhã nhạc cung đình Huế đạt độ chín muồi và hoàn chỉnh nhất”. Cùng với không gian văn hóa Cồng Chiêng Tây Nguyên, đây là di sản phi vật thể của Việt Nam đã được UNESCO chính thức công nhận. Nhã nhạc Cung Đình Huế là một sự kế thừa,kể từ khi những dàn nhạc – trong đó có mặt nhiều nhạc khí cung đình – xuất hiện dưới dạng tác phẩm chạm nổi trên các bệ đá kê cột chùa thời Lý, thế kỉ XI-XII, đến lúc ông vua cuối cùng triều Nguyễn thoái vị vào giữa thế kỷ XX. Tiếp tục đọc “Dân ca dân nhạc VN – Nhã Nhạc Cung Đình Huế”

Dân ca dân nhạc VN – Ca Huế

Đọc các bài cùng chuỗi, xin click vào đây.

Chào các bạn,

Tiếp theo “Hát Ru Con Huế”, mình giới thiệu đến các bạn bộ môn “Ca Huế” truyền thống của vùng đất thần kinh.

Ca Huế hình thành từ dòng ca nhạc dân gian và dòng ca nhạc cung đình, nhã nhạc trang trọng uy nghi nên có thần thái của ca nhạc thính phòng, thể hiện theo hai dòng lớn điệu Bắc (Khách) và điệu Nam, với trên 60 tác phẩm thanh nhạc và khí nhạc.

Kỹ thuật đàn và hát ca Huế đặc biệt tinh tế nhưng ca Huế lại mang đậm sắc thái địa phương, phát sinh từ tiếng nói, giọng nói của người Huế nên gần gũi với Hò Huế, Lý Huế; là chiếc cầu nối giữa nhạc cung đình và âm nhạc dân gian.

Hệ thống bài bản phong phú của ca Huế theo hai điệu thức lớn là điệu Bắc (Khách), điệu Nam và một hệ thống “hơi” diễn tả nhiều sắc thái tình cảm đặc trưng. Tiếp tục đọc “Dân ca dân nhạc VN – Ca Huế”

Dân ca dân nhạc VN – Hát Ru Con Huế

Đọc các bài cùng chuỗi, xin click vào đây.

Các bạn mình,

Thật lòng mà nói, không có hạnh phúc nào cho bằng hạnh phúc của mình và các bạn được sinh ra trên cỏi đời này và được mẹ, ông, bà, chị, ru ta từ thuở mới mở mắt chào đời cho đến khi chúng ta khôn lớn.

Tùy theo mỗi vùng miền, những lời ru đặc thù ngọt ngào, trìu mến, chan chứa thấm đẫm tình yêu vô bờ ấy đã ăn sâu vào tâm khảm mỗi người con Việt chúng ta một cách rất tự nhiên.

Hà ơi ơi ơi…
Bạn hàng trước ngõ.. cây hương bên tàu.. nhỏ nhụy thơm xa..
(Chớ) anh có đi mô lâu.. cũng nhớ ghé vô thăm.. chén ngọc ve ngà..
Dù gần cũng nghĩa.. dù xa cũng tình…
Tiếp tục đọc “Dân ca dân nhạc VN – Hát Ru Con Huế”

Dân ca dân nhạc VN – Hò Xứ Huế

Đọc các bài cùng chuỗi, xin click vào đây.

Chào các bạn,

Tiếp theo Lý Xứ Huế, hôm nay mình giới thiệu đến các bạn Hò Xứ Huế.  Trước hết mình có hai bài dẫn giải về các điệu hò của xứ Huế, (1) trích đoạn trong bài “Những Thể Điệu Dân Ca Xứ Huế” của Giáo sư Kiêm Thêm, (2) bài “Chữ Hiếu Qua Các Điệu Hò Miền Trung” của ông Nguyễn Đức Tăng để các bạn rộng đường tham khảo về một thể loại dân ca truyền thống VN, của kinh đô triều Nguyễn một thời, rất được người dân miền Trung ưa chuộng.

Sau đó là 5 video clips do các nghệ nhân xứ Huế biểu diễn một số các thể điệu Hò của xứ Huế. Duy chỉ clip thứ 6 là điệu Hò Tiếp Linh do một vị sư (và người phụ họa) hò trong lúc làm lễ tang cho một gia đình Phật tử.

Mời các bạn.

Túy Phượng

lyxuhue2

 

Hò Xứ Huế

(GS Kiêm Thêm)

Vùng đất Huế, Quảng Trị, Thừa Thiên cũ là vùng đồng bằng chật hẹp, có nhiều sông ngòi, đầm phá; nơi đây chính là chốn sản sinh hàng chục điệu hò hát, gợi lên những hương vị đặc sắc trong miền. Hò hát thể hiện trong bất cứ trường hợp nào. trên cạn thì có hò xay lúa, hò giã gạo, hò khoan, hò hụi, hò nện, hò giã vôi… trên sông, trên đầm phá thì có hò đẩy nôốc, hò mái đẩy, hò mái nhì, hò đua ghe… Nội dung những câu hò thể hiện tình cảm, động viên cổ vũ khích lệ, lại thường pha hài hước, trách móc, châm chọc. Tiếp tục đọc “Dân ca dân nhạc VN – Hò Xứ Huế”

Dân ca dân nhạc VN – Lý Xứ Huế

Đọc các bài cùng chuỗi, xin click vào đây.

Chào các bạn,

Sau chuỗi bài Dân ca Dân nhạc miền Nam, hôm nay mình tiếp tục giới thiệu đến các bạn Dân ca Dân nhạc miền Trung. Đầu tiên mình giới thiệu đến các bạn điệu Lý Xứ Huế.

Miền Trung Việt Nam nằm ở phần giữa lãnh thổ và là một trong ba vùng chính gồm Miền Bắc, Miền Trung và Miền Nam của Việt Nam. Lịch sử Miền Trung được gọi bằng các tên khác nhau như Trung Kỳ (thời thuộc Pháp), An Nam (theo cách người Pháp gọi), và Trung Phần (thời Việt Nam Cộng Hoà). Danh xưng Trung Phần phát xuất từ việc vào năm 1949, Quốc trưởng Quốc gia Việt Nam Bảo Đại cho thành lập cơ quan hành chính cấp Phần, với chức năng tương đương cấp Bộ năm 1945. Về sau, chính phủ Việt Nam Cộng Hòa cũng thường dùng danh xưng này cho đến tận khi sụp đổ vào năm 1975. Sau 1975 thì Trung Phần được gọi là Trung Bộ, Bắc Phần được gọi là Bắc bộ, Nam Phần được gọi là Nam Bộ. Tiếp tục đọc “Dân ca dân nhạc VN – Lý Xứ Huế”

Dân ca dân nhạc VN – Nói Thơ Vân Tiên

Đọc các bài cùng chuỗi, xin click vào đây.

Chào các bạn,

Hôm nay mình giới thiệu đến các bạn một bộ môn độc đáo khác trong Dân ca Dân nhạc Miền Nam: “Nói Thơ Vân Tiên”.

“Nói Thơ Vân Tiên” là một giai điệu thấm sâu trong lòng người dân Lục tỉnh mỗi khi trà dư tửu hậu. Giai điệu này còn được các bà mẹ dùng trong thể loại Hát Ru Con (Hát Đưa Em).

Câu truyện Lục Vân Tiên, truyện thơ nổi tiếng nhất miền Nam do cụ Nguyễn Đình Chiểu viết những năm 50 của thế kỷ 19, và được xuất bản lần đầu năm 1874, có cốt truyện tóm tắt như sau: Tiếp tục đọc “Dân ca dân nhạc VN – Nói Thơ Vân Tiên”

Dân ca dân nhạc VN – Vè Ba Miền

Đọc các bài cùng chuỗi, xin click vào đây.

Chào các bạn,

Hôm nay mình giới thiệu đến các bạn bộ môn “Vè 3 Miền” (Nam, Trung, Bắc) của Việt Nam chúng ta.

là một trong những thể loại văn học dân gian Việt Nam. Theo Đại Nam quốc âm tự vị, vè là chuyện khen chê có ca vần và việc sáng tác vè là việc đặt chuyện khen chê có ca vần. Định nghĩa này còn đơn giản, nhưng đã nêu được những đặc trưng cơ bản của vè.

Vấn đề vè có từ bao giờ chưa thể khẳng định dứt khoát. Đại thể, vè đã nảy sinh chủ yếu trong thời kỳ phong kiến, phát triển nhất trong các thế kỷ 18-20 sự xuất hiện của vè là một bước tiến mới của văn tự sự dân gian. Tiếp tục đọc “Dân ca dân nhạc VN – Vè Ba Miền”

Dân ca dân nhạc VN – Nhạc Lễ Miền Nam

Đọc các bài cùng chuỗi, xin click vào đây.

Chào các bạn,

Hôm nay mình giới thiệu đến các bạn bộ môn Nhạc lễ của miền Nam.

Nhạc lễ là một loại nhạc nghi thức quan trọng được dùng trong các dịp hôn lễ, tang lễ, và cúng tế. Theo truyền thuyết thì nguồn gốc của Nhạc lễ miền Nam khởi nguồn từ Nhạc lễ cung đình xưa.

Đình Trung Gò Công thuở nhỏ mình hay theo ông ngoại vào cúng đình. Ảnh ở đầu bài là bên trong đình.
Đình Trung Gò Công thuở nhỏ mình hay theo ông ngoại vào cúng đình. Ảnh ở đầu bài là bên trong đình.

Hiện nay trong các Đình, Miếu và Lễ tang, Nhạc lễ là một phần âm nhạc không thể thiếu trong khi cúng tế. Tất cả các bài Nhạc lễ rất khó về ký âm. Cùng với nhiều nhạc cụ đi liền bài, phù hợp với nội dung cúng tế. Tính cách sáng tạo các bài và các nhạc cụ dòng nhạc này vẫn hiện đang tiếp tục phát huy.

Những ban nhạc lễ, tùy theo lớn hay nhỏ, sẽ có một số nhạc cụ truyền thống như: Tiếp tục đọc “Dân ca dân nhạc VN – Nhạc Lễ Miền Nam”

Dân ca dân nhạc VN – Hát Bộ/Bội Miền Nam

Đọc các bài cùng chuỗi, xin click vào đây.

Chào các bạn,

Hôm nay chúng ta nói đến Hát Bộ, còn gọi là Hát Bội, có lẽ là bộ môn nghệ thuật sân khấu cổ nhất của Việt Nam mà chúng ta được biết.

Hát Bộ/Bội có lẽ phỏng theo kinh kịch của Thanh Triều tại Bắc Kinh. “Bộ” đây có nghĩa là Vũ Bộ, tức là các cách đi đứng và diễn xuất đều phải theo các bước chân như con nhà võ, và các màn biểu diễn võ thuật cũng thường có trong Kinh Kịch hay Hát Bộ.

Hát Bộ còn được gọi là Hát Bội, có lẽ đó là cách nói trại ra. Ngoài ra còn có giải thích rằng gọi là “Hát Bội” vì trong nghệ thuật hóa trang đào kép phải đeo, phải giắt (bội) những cờ phướn, lông công, lông trĩ… lên người. Theo nhà nghiên cứu Vũ Khắc Khoan, cả hai tên gọi ấy đều đúng. Tiếp tục đọc “Dân ca dân nhạc VN – Hát Bộ/Bội Miền Nam”