Tiếp theo Dân ca Hà Nhì, hôm nay mình giới thiệu đến các bạn Dân ca Hoa.
Dân tộc Hoa (Trung văn giản thể: 华; Trung văn phồn thể: 華) là những người gốc Trung Hoa định cư ở Việt Nam và đa số có quốc tịch Việt Nam. Các tên gọi khác: Khách Trú, người Hán, người Tàu, Ba Tàu. Nếu xếp theo phân loại của nước Trung Hoa hiện thời thì họ là dân tộc Hán. Đây là một trong các dân tộc tại Việt Nam có dân số giảm trong 10 năm (1999-2009) theo số liệu của Tổng cục Thống kê Việt Nam. Tiếp tục đọc “Dân ca Dân nhạc VN – Dân ca Hoa”→
Tiếp theo Dân ca Gié Triêng, mình giới thiệu đến các bạn Dân ca Hà Nhì hôm nay.
Người Hà Nhì (tên tự gọi: Haqniq, tiếng Hán: 哈尼族 Hānízú, Cáp Nê tộc), tên gọi khác: U Ní, Xá U Ní là một trong 54 dân tộc sống trên đất nước Việt Nam.
Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người Hà Nhì ở Việt Nam có dân số 21.725 người, cư trú tại 32 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố. Người Hà Nhì cư trú tập trung tại các tỉnh: Lai Châu (13.752 người, chiếm 63,3% tổng số người Hà Nhì tại Việt Nam), Lào Cai (4.026 người), Điện Biên (3.786 người), gồm 3 nhóm địa phương: Cồ Chồ, Là Mi và Hà Nhì Đen. Tiếp tục đọc “Dân ca dân nhạc VN – Dân ca Hà Nhì”→
TTH – Vào chiều thứ 4 hàng tuần, các em học sinh khối 4 và 5 Trường tiểu học Cứ Chánh, xã Thủy Bằng, thị xã Hương Thủy lại í ới nhau đi học múa cung đình. Lớp học do nhà trường phối hợp với Chi đoàn Nhà hát Nghệ thuật truyền thống cung đình Huế giảng dạy hai năm nay.
Các em học sinh Trường tiểu học Cư Chánh học múa cung đình
Chúng tôi có mặt tại Trường tiểu học Cư Chánh đúng vào lúc các em đang chuẩn bị vào buổi học. Niềm vui khi tham gia lớp học hiện rõ trên từng gương mặt, một số em tranh thủ ôn lại một số động tác trước khi vào buổi học mới. Ngô Hồng Minh, học sinh lớp 5/1, bày tỏ: “Con tham gia học múa cung đình từ năm học lớp 4, rất thích môn học này nên con chưa nghỉ buổi nào. Trước đây con không biết, nhưng giờ con biết Nhã nhạc cung đình Huế là di sản văn hóa phi vật thể và truyền khẩu của nhân loại, rất cần được bảo tồn và phát huy”. Tiếp tục đọc “Múa cung đình vào lớp học”→
Đối với một tác phẩm kinh điển lớn của văn học dân tộc như Truyện Kiều, các phương thức diễn dịch nghệ thuật tất yếu sẽ phải nảy sinh (Âm nhạc, Hội họa, Điêu khắc, Sân khấu, Điện ảnh, v.v). Đó cũng là điều đã xảy ra đối với nhiều tác phẩm văn học lớn của thế giới (Các vở kịch của Shakespeare, các tiểu thuyết của Stendhal, Dostoievski, Liev Tolstoi, v.v.). Riêng việc “diễn dịch” bằng điện ảnh là gây nhiều tranh cãi và thu hút sự quan tâm lớn nhất, bởi quy mô thực hiện và sức ảnh hưởng sâu rộng trực tiếp đến xã hội, như nhà điện ảnh học nổi tiếng người Pháp G. Sadoul đã khẳng định: Tiếp tục đọc “Truyện Kiều: Từ văn học tới Điện ảnh – Một phương thức diễn dịch nghệ thuật đầy thử thách”→
DA NANG (VNS)— Hundreds of Vietnamese and Japanese residents in Da Nang and Hoi An participated in the annual Viet Nam-Japan Culture Exchange at the city’s Administrative Centre Park yesterday.
The event, which will run until Sunday, displays pavilions of cuisine, traditional calligraphy, art performances and dances from different parts of Japan.
Visitors can try on a kimono, yukata, and paper folding (kirigami, origami) as well as tasting Japanese cuisines.
The event will also feature performance by Otawara artists along with demonstrations of Aikido, Sumo and Japanese sword play. — VNS
Tiếp theo Dân ca Cống, hôm nay mình giới thiệu đến các bạn Dân ca K’Ho (Cơ Ho) của Dân tộc K’Ho (Cơ Ho).
Dân tộc K’Ho, còn có các tên khác như: Cơ Ho, Cờ Ho, Kơ Ho, Srê, Nộp, Cơ Dòn, Chil, Lạt (Lạch), T’ring.
Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người K’Ho ở Việt Nam có dân số 166.112 người, cư trú tại 46 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố. Người K’Ho cư trú tập trung tại các tỉnh: Lâm Đồng (145.665 người, chiếm 12,3% dân số toàn tỉnh và 87,7% tổng số người K’Ho tại Việt Nam), Bình Thuận (11.233 người), Khánh Hòa (4.778 người), Ninh Thuận (2.860 người), Đồng Nai (792 người), Sài Gòn (247 người). Tiếp tục đọc “Dân ca dân nhạc VN – Dân ca K’Ho (Cơ Ho)”→
Phần giới thiệu của mình hôm nay với các bạn là Dân ca Chứt trong đề mục dân ca 54 dân tộc anh em.
Người Chứt, còn gọi là người Rục, người Sách, người A rem, người Mày, người Mã liềng, người Tu vang, người Pa leng, người Xe lang, người Tơ hung, người Cha cú, người Tắc cực, người U mo, người Xá lá vàng, là một dân tộc ít người sinh sống tại Lào và Việt Nam. Tiếp tục đọc “Dân ca dân nhạc VN – Dân ca Chứt”→
Hôm nay mình giới thiệu đến các bạn Dân ca Chrau-Jro (Chơ Ro) tiếp theo Dân ca Churu.
Dân tộc Chơ Ro có tên tự gọi là Chrau – Jro, Chrau có nghĩa là Người hay Nhóm người. Jro có nghĩa là một danh từ riêng chỉ cộng đồng của họ. Họ còn có các tên khác như: Châu ro, Chro, Chrau, Jơ ro, Dơ ro.
Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người Chrau-Jro ở Việt Nam có dân số 26.855 người, cư trú tại 36 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố. Người Chơ Ro cư trú tập trung tại các tỉnh: Đồng Nai (15.174 người, chiếm 56,5% tổng số người Chơ Ro tại Việt Nam), Bà Rịa-Vũng Tàu (7.632 người), Bình Thuận (3.375 người), Sài Gòn (163 người), Bình Dương (134 người), Bình Phước (130 người). Tiếp tục đọc “Dân ca dân nhạc VN – Dân ca Chrau-Jro (Chơ Ro)”→
Hôm nay mình giới thiệu đến các bạn Dân ca Churu (Chu Ru).
Dân tộc Churu còn có tên gọi là Chu Ru, Chơ Ru, Choru, Kru, Ru. Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Mã Lai – Đa Đảo. Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người Churu ở Việt Nam có dân số 19.314 người, cư trú tại 27 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố (tỉnh Lâm Đồng 18.631 người, tỉnh Ninh Thuận 521 người, Sài Gòn 58 người …).
Dân tộc Churu có một vốn ca dao, tục ngữ phong phú, trong đó nổi bật là những câu ca tụng chế độ mẫu hệ, đề cao vai trò của người phụ nữ trong xã hội cổ truyền. Nhiều truyện cổ phản ánh cuộc đấu tranh bất khuất của người lao động với thiên nhiên và xã hội để giành lấy cuộc sống hạnh phúc. Người Churu còn lưu truyền một số trường ca mà các già làng thường kể bên bếp lửa sàn cho con cháu nghe, suốt đêm này qua đêm khác… Tiếp tục đọc “Dân ca dân nhạc VN – Dân ca Churu (Chu Ru)”→
Tiếp theo Dân ca Bình-Trị-Thiên, mình giới thiệu đến các bạn Dân ca Champa/Chăm Pa hôm nay.
Dân tộc Champa/Chăm Pa vốn quần tụ tại khu vực duyên hải miền Trung Việt Nam từ rất lâu đời. Ngay từ những thế kỷ đầu công nguyên cho tới thế kỷ XVII, người Champa/Chăm Pa đã từng xây dựng nên vương quốc Champa/Chăm Pa với nền vǎn hoá Sa Huỳnh rực rỡ, ảnh hưởng của vǎn hoá Ấn Độ.
Dân tộc này còn có các tên gọi khác là: Chàm, Chiêm, Chiêm Thành, Hời… với các nhóm địa phương: Chăm Hroi, Chăm Poổng, Chà Và Ku, Chăm Châu Ðốc. Họ có khoảng chừng 161.729 người (theo kết quả điều tra dân số năm 2009 của Tổng cục thống kê), và tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Malayô-Polynéxia (ngữ hệ Nam Ðảo). Tiếp tục đọc “Dân ca dân nhạc VN – Dân ca Champa/Chăm Pa”→
Tiếp theo Dân ca Brâu, hôm nay mình giới thiệu với các bạn Dân Ca Bru-Vân Kiều.
Người Bru-Vân Kiều (còn gọi là người Bru, người Vân Kiều, người Măng Coong, người Trì hay người Khùa) là một dân tộc thiểu số. Ngôn ngữ của họ là tiếng Bru, một ngôn ngữ thuộc ngữ chi Cơ Tu của ngữ tộc Môn-Khmer. Tiếp tục đọc “Dân ca dân nhạc VN – Dân ca Bru-Vân Kiều”→
Phần giới thiệu của mình với các bạn tiếp theo Dân ca Bố Y là Dân ca Brâu hôm nay.
Dân tộc Brâu (còn gọi là Dân tộc Brạo) là một dân tộc thiểu số sinh sống chủ yếu tại Campuchia, Lào và một ít tại Việt Nam.
Theo các nguồn khác nhau thì dân số người Brâu tại Campuchia khoảng 14.000 người, tại Lào khoảng 13.000 người tới 24.000+ người. Tại Việt Nam từ năm 1981 trở lại đây thì dân số người Brâu dao động trong khoảng 300 người. Cụ thể như sau:
Tiếp theo “Dân ca Ba Na“, hôm nay mình giới thiệu đến các bạn Dân ca Bố Y.
Dân tộc Bố Y (tiếng Trung: 布依族, bính âm: Bùyīzú), còn gọi là Chủng Chá, Trọng Gia, Tu Dí, Tu Dìn hay Pu Nà. Ngôn ngữ của dân tộc Bố Y thuộc ngữ chi Tày-Thái. Dân tộc Bố Y có dân số khoảng 2.971.460 người, chủ yếu sống tại Trung Quốc và chỉ khoảng 2.273 người sinh sống tại Việt Nam. Nơi cư trú của họ là các huyện biên giới ở các tỉnh Lào Cai, Hà Giang và tại Trung Quốc ở các tỉnh Quý Châu, Vân Nam, Tứ Xuyên. Mặc dù tại cả Trung Quốc lẫn Việt Nam họ vẫn được hai chính phủ này công nhận như là một nhóm sắc tộc riêng rẽ, nhưng chính họ lại tự coi mình là người Tráng. Tiếp tục đọc “Dân ca dân nhạc VN – Dân ca Bố Y”→
Việt Nam chúng ta có một diện tích trải dài trên ngàn cây số dọc theo biển Đông với 54 dân tộc anh em, mỗi dân tộc lại có những âm điệu, lời ca đặc thù riêng biệt. Hôm nay mình giới thiệu đến các bạn nền dân ca dân nhạc của 54 dân tộc anh em chúng ta. Trước tiên mình giới thiệu đến các bạn Dân ca Bahnar/Ba Na của Dân tộc Bahnar/Ba Na.
Tộc Bahnar/Ba Na (các tên gọi khác: Ba Na Trên Núi, Ba Na Dưới Núi, Ba Na Đông, Ba Na Tây, Tơ Lộ, Bơ Nâm, Glơ Lâng, Rơ Ngao, Krem, Roh, Con Kde, A la công, Krăng, Bơ Môn, Kpăng Công, Y Lăng) có dân số khoảng 227.716 người. Họ có nhiều tên gọi khác nhau như thế bởi theo nơi cư trú hay phong tục tập quán của mỗi vùng.
Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, Dân tộc Bahnar/Ba Na cư trú tại 51 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố, chủ yếu tập trung tại các tỉnh:
Gia Lai (150.416 người, chiếm 11,8% dân số toàn tỉnh và 66,1% tổng số người Ba Na tại Việt Nam) Kon Tum (53.997 người, chiếm 12,5% dân số toàn tỉnh và 23,7% tổng số người Ba Na tại Việt Nam) Phú Yên (4.145 người, chiếm 12,5% dân số toàn tỉnh và 23,7% tổng số người Ba Na tại Việt Nam) Bình Định (18.175 người, chiếm 8,0% tổng số người Ba Na tại Việt Nam) Đắk Lắk (301 người) Bình Thuận (133 người)