Night Watch – Veterans Back on Duty: Vietnam

Asia Insight

50 years after the Vietnam War ended, some veterans are still on duty – not as fighters, but as volunteer guardians of their hometowns. We go on night patrol in Canh Thuy Ward.

Watch full video on https://www3.nhk.or.jp/nhkworld/en/shows/2022443/

50th Anniversary Ceremony of the end of the Vietnam War
Economic development progressing in Bac Giang Province
Veteran watching over children on their way home
Veteran paying respects at a comrade’s grave

Letters from the great Frontline – Những Lá Thư Từ Tiền Tuyến Lớn

[See English translation below ]

Dưới đây mình chép lại một lá thư của liệt sĩ Đồng Thế Thức, gửi từ chiến trường (miền Nam) cho cha mẹ và gia đình ở miền Bắc trong thời gian kháng chiến chống Mỹ những năm 1970s.

Liệt sĩ Đồng Thế Thức là bác ruột của mình, bác là anh trai của mẹ. Bác Thức sinh năm 1942, lớn hơn mẹ 14 tuổi. Bác học xong cấp 3 là nhập ngũ. Theo mẹ kể lại, bác Thức hy sinh vào khoảng năm 1974 tại Tây Ninh. Bức thư này không ghi rõ ngày tháng, nhưng theo mẹ kể có lẽ bác viết tầm năm 1973. Trong thư bác nói về niềm tin ngày thống nhất đang rất gần rồi, “con sẽ trở về trên chuyến tàu Sài Gòn – Hà Nội”. Thêm nữa thời chiến, liên lạc rất khó khăn, cho nên có khi gửi thư cả vài năm mới đến được tay người nhà nên không biết chính xác thư viết khi nào. Đây là một bức thư hiếm hoi bác gửi về được tới gia đình trong những năm chiến đấu ở chiến trường miền Nam.

Lá thư này có đề địa chỉ là hòm thư. 86558YK – B11. Thời đó khi nói đến đi Bê (B) tức là đi vào chiến trường miền Nam. Từ năm 1960, các khu vực tác chiến quân sự có  tên gọi quy ước A là miền Bắc, B là miền Nam, C là Lào và Đ là Cam pu chia (sau đổi thành K). Tất cả cán bộ từ Bắc đi B đều phải đi theo những con đường tuyệt bí mật, không ai biết đường đi của ai. Hơn nữa, bác Thức đóng quân tại Tây Ninh, là nơi căn cứ của Trung Ương Cục Kháng Chiến Miền Nam, phải cực kỳ bí mật không thể biên thư tuỳ tiện để lộ tung tích. Những ai đi B là dù không nói, là biết không hẹn ngày trở về.

Trong thư có một số chữ bị mờ nhìn không còn rõ. Mình cố gắng chép lại để nguyên văn từng dấu chấm, phẩy, dấu cảm thán. Có một số câu đọc nghe có vẻ không hoàn chỉnh. Điều này có lẽ là do, như trong như bác nói, lá thư phải viết trong hoàn cảnh nhanh và rất vội để gửi cho người quen mang ra ngoài Bắc. Vì cơ hội này không hề dễ dàng gặp được trong chiến trường. Cho nên phải viết thật nhanh và vội, vì vậy có lẽ cũng rất nhiều hồi hộp và cảm xúc. 

Tiếp tục đọc “Letters from the great Frontline – Những Lá Thư Từ Tiền Tuyến Lớn”

The US Office of Strategic Services (OSS) in Vietnam

1945: A War of Missed Opportunities 

The National WWII Museum July 15, 2020

In 1945, members of the American “Deer Team,” part of the OSS, worked with Vietnamese guerrilla fighters to throw Japanese troops out of Indochina. As the war ended, the people of Vietnam looked to the United States to support their dreams of independence.

For most of World War II, the United States considered Vietnam to be a relatively unimportant French colony to someday be reclaimed from the Japanese; but America showed little interest in enlisting Vietnamese aid in that effort. All this changed rapidly in March 1945. Though the Japanese had invaded Vietnam in 1940, they allowed French colonial authorities to retain power so long as they controlled the Vietnamese and maintained the colony as a supply base for the Emperor’s army fighting in China. However, this also allowed the French to maintain covert Allied intelligence networks that supplied information to Allied personnel aiding the Chinese in their war against Japan. By early 1945, however, the war in the Pacific had shifted in favor of the Allies and the Japanese became increasingly suspicious of French activities in Vietnam. As a result, on March 10, 1945, Japanese forces launched Operation Meigo, a swift military takeover that effectively ended French colonial rule of Vietnam.

Members of the Deer Team providing instruction to the Vietnamese on use of the M-1 carbine, August 16, 1945. Photo by the National Archives and Records Administration. 

With the loss of French control over the colony during Meigo, Allied intelligence networks operating in Vietnam collapsed. One such group, known as the “GBT,” had been providing information on weather conditions, the movement of Japanese troop trains and naval vessels, and on escape routes for downed Allied airmen to the 14th US Air Force stationed in China. Up to this point the GBT refused to employ Vietnamese as agents because the French claimed they were untrustworthy and were only interested in acquiring weapons to fight the French, not the Japanese. With their normally busy wires now silent, native agents became necessary.

Both the GBT and the US Office of Strategic Services (the OSS) reached out to a Vietnamese man who had drawn positive attention from the 14th Air Force the previous year when he escorted a downed American pilot out of Vietnam and into China. OSS agent Charles Fenn tracked down the man in question—Ho Chi Minh—describing him as articulate and charismatic, and both open and friendly to Americans. Fenn was convinced Ho would be an excellent intelligence agent and the group he represented, the Viet Minh, would also be valuable assets in the war against Japan. Soon thereafter, Ho Chi Minh became OSS agent “Lucius.”

Members of the Deer Team and Viet Minh at training camp. Allison Thomas stands in the center and is flanked on his left by Vo Nguyen Giap and on his right by Ho Chi Minh. Photo by the National Archives and Records Administration. 

Tiếp tục đọc “The US Office of Strategic Services (OSS) in Vietnam”

Nhà có 10 người nhiễm da cam và 25 năm chữa bệnh từ thiện

NN – Thứ Tư 26/05/2021 , 11:00

‘Tôi đã từng nghèo nên biết thương người nghèo. Tôi đang đau yếu, con cháu đang mắc di chứng chất độc da cam ra sao thì các đồng đội cũng thế nên chữa bệnh giúp’.

Ông Minh mặc comple ngồi hàng đầu, cạnh bà vợ mặc áo dài (bên phải) cùng họ hàng, các con cháu. Ảnh: Nhân vật cung cấp.
Ông Minh mặc comple ngồi hàng đầu, cạnh bà vợ mặc áo dài (bên phải) cùng họ hàng, các con cháu. Ảnh: Nhân vật cung cấp.

Nỗi đau lặn vào bên trong

Trong căn nhà lúc nào cũng thơm nức mùi thuốc Nam, lương y Hoàng Quang Minh ở 15/4 đường Lê Hồng Phong (thành phố Lạng Sơn) đã nói với tôi như vậy. Và ông tỏ rõ vẻ ái ngại khi một người con trai của mình bất thần đi vào, nói một tràng gay gắt rồi… dọa đánh tôi vì một bức xúc nào đó: “Tính nó nóng lắm bởi bị ảnh hưởng di chứng chất độc màu da cam đấy, mong cháu thông cảm cho!”

Ông vốn gốc người Tày quê ở huyện Bình Gia, tỉnh Lạng Sơn. Bố đi bộ đội rồi hi sinh nên ông không thuộc diện phải xét tuyển nhưng năm 1966 vẫn xung phong vào đặc công, tham gia trận Mậu Thân 1968 đầy máu lửa. Ngày ấy ở vùng rừng núi Quảng Nam máy bay Mỹ rải chất độc màu da cam dày như sương mù, như mây trời khiến cho mặt nước cũng nổi váng nhưng bộ đội khi khát vẫn phải uống vì không có cách nào khác…

Tiếp tục đọc “Nhà có 10 người nhiễm da cam và 25 năm chữa bệnh từ thiện”

Những nữ thanh niên xung phong bình yên nơi cửa phật

VNE – Chủ nhật, 30/4/2017

“Chiến tranh không mang một khuôn mặt đàn bà”

Một đêm đầu tháng Ba năm 1971, người ta dúi vào tay nữ hộ lý Bùi Thị Đoán một đứa trẻ đỏ hỏn.

Đêm ấy, chị Đoán đang trực ở bệnh viện tỉnh Thái Bình. Người phụ nữ lớn tuổi trình bày rằng ai đó đã gửi đứa trẻ cho bà để đi vệ sinh, rất lâu rồi không thấy quay lại. Mọi người hoảng hốt đốt đèn bão đi các gốc cây xung quanh để tìm. Rồi họ nhận ra: người mẹ đã cố tình bỏ đứa con ở lại.

Đoán từng là thanh niên xung phong. Ở cái tuổi lỡ thì, cô mang trong mình mặc cảm của một phụ nữ không bao giờ dám sinh con. Nhiều người đến tìm hiểu, nhưng Đoán không muốn lấy chồng. Cô sợ phải sinh ra những đứa con tật nguyền – nhiều đồng đội từ chiến trường của cô đã như thế.

Tiếp tục đọc “Những nữ thanh niên xung phong bình yên nơi cửa phật”

Nữ du kích Bảy Mô

TĐH: Tình cờ hôm nay mình mới biết câu chuyện của nữ du kích Bảy Mô trên mạng. Có lẽ nhiều bạn đã biết rồi. Mình vốn đã khâm phục các nữ chiến binh. Câu chuyện đậm tình người lại làm mình thêm cảm động. Thêm vào đó nữ anh hùng này sau khi ra khỏi quân đội thì về sống cực khổ ở Tây Ninh, quê vợ của mình. Và Củ Chi là huyện rìa của Sài Gòn, cách nhà mình không xa. Mọi địa danh đều rất quen thuộc. Cuốn sách “The Tunnel of Cu Chi” nhắc đến người nữ du kích này là một cuốn sách về Chiến tranh Việt Mỹ rất nổi tiếng ở Mỹ.

Câu chuyện này còn nói lên một điểm lịch sử và chiến lược quan trọng: Những chiến binh du kích ở Miền Nam, sinh ra, lớn lên và chiến đấu như là cuộc sống tự nhiên – đời cha chiến đấu chống Pháp, đời con chiến đấu chống Mỹ. Chẳng ai bắt vào lính, chẳng ai tuyển mộ, chẳng ai bắt làm gì cả. Lớn lên là tự động chiến đấu như hít thở. Đây chính là điều các chiến lược gia Mỹ và VNCH chẳng hề biết. Đi lính như một nghĩa vụ phải làm là một chuyện. Tự nhiên mà chiến đấu, là chiến binh mà không “đi lính”, là một chuyện khác — chiến đấu tự nhiên như hít thở của cuộc sống, đó là nguồn sức mạnh vượt trên cả phi thường, đứng trên phương diện chiến lược mà nói.

Dưới đây là một clip về câu chuyện Bảy Mô, một series 3 clips nói chuyện với Bảy Mô, một clip về các nữ du kích Củ Chi (bây giờ đã là bà nội bà ngoại), và một bài báo.

Nữ Anh Hùng VN Siêu Đẳng Có Tấm Lòng Bồ Tát Tha Mạng Cho Lính Mỹ Vì Họ Khóc Khoe Ảnh Vợ Con
https://youtu.be/7E0GLXlPq3w
Tiếp tục đọc “Nữ du kích Bảy Mô”

Re-education in Unliberated Vietnam: Loneliness, Suffering and Death

Re-education in Unliberated Vietnam: Loneliness, Suffering and Death – by Ginetta Sagan and Stephen Denney [1982]

Note: The following article was published in The Indochina Newsletter, a newsletter I edited at the time, October-November 1982. Much has changed in the 16 years since this article was written. So far as is known all of the former South Vietnam government officials and officers have been released from the re-education camps and many have been allowed to emigrate to the U.S. under a special program, called Humanitarian Operation. But many of former prisoners have experienced various problems resulting from their long term incarceration under difficult conditions. I hope this article might be of historical interest in understanding what these prisoners have experienced; and also in understanding conditions of imprisonment endured by those dissidents and others still detained in Vietnam. – Steve Denney [1998]

THE INDOCHINA NEWSLETTER
October-November 1982

Re-education in Unliberated Vietnam: Loneliness, Suffering and Death

by Ginetta Sagan and Stephen Denney

(Editor’s Note: The following article is part of a preliminary draft of a report that will be issued later this year on human rights in Vietnam. The report is prepared for the Aurora Foundation, of which Ginetta Sagan is the Executive Director. Mrs. Sagan is a well-known human rights activist who interviewed over 200 former prisoners from Vietnam in preparation for this report. Details of the interviews will be brought out in fuller detail when the report is issued.)

Ten years ago, demonstrations were held around the world to protest political repression and imprisonment in South Vietnam. Seven years ago, Communist forces completed their conquest of South Vietnam. In June of 1975, the new regime ordered hundreds of thousands of Vietnamese to report to authorities for « re-education ». Many are still held in the camps today, but the world is mostly silent on their plight.

« Re-education » means different things to different people. To the Hanoi regime and its more vocal defenders abroad, re-education is seen as a very positive way to integrate the former enemy into the new society. It is, according to Communist leaders of Vietnam, an act of mercy, since those in the camps deserve the death penalty or life imprisonment.(1). The former prisoners, on the other hand, see re-education from quite a different perspective. Tiếp tục đọc “Re-education in Unliberated Vietnam: Loneliness, Suffering and Death”

Chiến tranh, điều không nói

Chào các bạn,

Mình đang xem vài tập đầu loạt phim tài liệu khá đình đám gần đây về Chiến tranh Việt Nam của Ken Burns và Lynn Novick. Tất nhiên dân tình còn bàn tán, bình luận, khen chê nhiều về loạt phim tài liệu này như bao phim tài liệu chiến tranh khác. Mình cũng không bàn nhiều về bộ phim ở đây.

Chỉ có một chi tiết, ở ngay tập đầu tiên nhà văn Bảo Ninh – một người lính của quân đội miền Bắc – một trong số người được phỏng vấn nói suy nghĩ của ông đại loại: chỉ có những ông không đánh nhau bao giờ mới thích đi bình luận và tự hào về chiến tranh và chuyện bắn giết. Những người thực sự tham chiến thì chẳng ai muốn nhắc đến mà tung hô tự hào.

Đúng vậy, thực sự chiến tranh, bạo lực là một sự thất bại, là thể hiện những nỗi sợ hãi của con người. Chiến tranh chẳng có ai là kẻ thắng người thua. Tất cả các bên tham chiến đều là kẻ bại trận. Có gì đáng tự hào đáng tung hô về số người lính mà bên này hay bến kia đã hay đã bị tiêu diệt? Tiếp tục đọc “Chiến tranh, điều không nói”