Nhận diện các thủ đoạn rửa tiền thông qua tiền mã hóa – crypto currency

a. Thông qua các sàn giao dịch tiền mã hóa tập trung (Centralised exchanges). 
b. Thông qua hệ thống tài chính phi tập trung (Decentralised Finance – DeFi)
c. Thông qua Máy trộn tiền mã hóa (Mixers hoặc Tumblers) và Cầu nối chuỗi (cross-chain bridge)
d. Thông qua thị trường mua bán trao tay OTC (Over the counter market)
e. Thông qua tiền mã hóa ẩn danh (Privacy coins)
f. Thông qua các sàn đánh bạc trực tuyến
g. Sử dụng tiền mã hóa mua bất động sản, tác phẩm nghệ thuật và hàng hóa bán lẻ

Tạp chí pháp lý 19:10 07/04/2025

(Pháp lý). Bài viết nghiên cứu về thực trạng lợi dụng các đồng tiền mã hóa để phục vụ các hoạt động phạm tội nói chung và tội phạm rửa tiền nói riêng tại Việt Nam và trên thế giới. Trên cơ sở đó, tác giả đề xuất các giải pháp mà các lực lượng chức năng nghiên cứu áp dụng để chủ động phòng, chống tội phạm rửa tiền thông qua các giao dịch tiền mã hóa.

image001-1729504752.png
 

1. Tiền mã hóa – công cụ mới được “ưa chuộng” của tội phạm và rửa tiền 

Trong những năm gần đây, các đồng tiền mã hóa (CryptoCurrency) đã và đang phát triển mạnh mẽ, với hàng loạt các đồng tiền mới được ra đời, dựa trên các công nghệ tiên tiến, và độ phổ biến không ngừng được mở rộng với số lượng người sử dụng và tổng giá trị giao dịch ngày một tăng. 

Về mặt kỹ thuật có thể hiểu tiền mã hóa là những đồng tiền điện tử được tạo ra bằng các thuật toán mã hóa sử dụng công nghệ chuỗi khối (Blockchain) để xác thực giao dịch. Đây là các đồng tiền phi tập trung, được giao dịch thông qua công nghệ xác thực ngang hàng (peer-to-peer) và không chịu sự quản lý, can thiệp của bất cứ cơ quan, tổ chức thứ ba nào (ví dụ như ngân hàng, cơ quan nhà nước…). Một số đồng tiền mã hóa điển hình, phổ biến hiện nay như Bitcoin (BTC), Ethereum (ETH), Litecoin (LTC)… 

Tuy nhiên, ngay từ khi đồng tiền mã hóa đầu tiên là Bitcoin ra đời vào năm 2008, các cơ quan thực thi pháp luật tại các quốc gia và các tổ chức quốc tế đã đưa ra các cảnh báo về khả năng các đồng tiền này bị lợi dụng để thực hiện các loại tội phạm về tài chính, trong đó đặc biệt là hành vi rửa tiền. Nguyên nhân chủ yếu là bởi các đồng tiền này nằm ngoài sự kiểm soát của chính phủ cũng như yếu tố ẩn danh vượt trội mà chúng đem lại cho người sử dụng. 

Cụ thể, các giao dịch bằng tiền mã hóa không cần sự xác thực và phê duyệt của một bên thứ ba như ngân hàng, cơ quan có thẩm quyền nhà nước hay các tổ chức phi chính phủ. Khi sở hữu và thực hiện các giao dịch, người dùng không phải cung cấp các thông tin xác thực cá nhân, không cần cung cấp vị trí người dùng, và có thể sử dụng nhiều tài khoản tiền mã hóa khác nhau để thực hiện các giao dịch cùng một lúc. Từ đó, gây khó khăn cho cơ quan chức năng trong việc phát hiện và truy vết các hoạt động phạm tội cũng như xác định đối tượng phạm tội [1]. 

Bên cạnh đó, các công nghệ được sử dụng để phát triển các đồng tiền mã hóa luôn thay đổi nhanh hơn so với tốc độ xây dựng các quy định pháp luật. Điều này có nghĩa, việc soạn thảo, ban hành các quy pháp pháp luật điều chỉnh các đồng tiền mã hóa không chỉ đòi hỏi nhiều thời gian, công sức, mà còn phải đối mặt với nguy cơ trở nên lỗi thời ngay sau khi có hiệu lực [2].   

Theo báo cáo của công ty phân tích blockchain Chainalysis, tổng số tiền được rửa qua các đồng tiền điện tử trong hai năm 2022 và 2023 lần lượt là 31,5 tỷ và 22,2 tỷ USD, và kể từ năm 2019 đến nay, gần 100 tỷ USD bất hợp pháp đã được “rửa” thông qua tiền điện tử trên toàn cầu [3]. 

Trong số các đồng tiền mã hóa phổ biến, Bitcoin là đồng tiền bị các đối tượng lợi dụng nhiều nhất. Một số nghiên cứu đã chỉ ra rằng hơn một phần tư (26%) người sử dụng và gần một nửa (46%) các giao dịch tiền mã hóa Bitcoin có liên quan đến các hoạt động vi phạm pháp luật. Điển hình như, tại thời điểm tháng 4/2017, có khoảng 27 triệu người dùng sử dụng Bitcoin để phục vụ các hành vi vi phạm pháp luật, và trong một năm, ước tính các tài khoản đó đã thực hiện các giao dịch với tổng giá trị lên đến 76 triệu đô-la. Con số này tương đương với quy mô của thị trường ma túy của nước Mỹ và Châu Âu cộng lại [4].

Tại Việt Nam, theo ước tính của Hiệp hội Blockchain thì nước ta đứng thứ 15 thế giới về khối lượng giao dịch thực tế và là một trong những nước đứng đầu thế giới về mức độ chấp nhận tiền mã hóa. Theo số liệu từ Chainalysis, trong giai đoạn từ tháng 7/2022 đến tháng 7/2023, tổng giá trị tiền mã hoá mà Việt Nam nhận về đạt mức 120 tỷ USD, và gấp 5 lần dòng vốn nước ngoài đầu tư vào Việt Nam (FDI)[5]. Tuy nhiên, trong số đó, có một lượng tiền nhất định liên quan đến các hoạt động bất hợp pháp. Ví dụ, 956 triệu USD trong tổng số 90,8 tỷ USD tiền điện tử Việt Nam nhận về trong giai đoạn 2021-2022 có liên quan đến hoạt động rửa tiền [6]. Do vậy, phòng chống rửa tiền lợi dụng tiền mã hóa đã và đang trở thành mối bận tâm lớn, là một vấn đề được ưu tiên của tất cả các quốc gia trên thế giới hiện nay, trong đó có Việt Nam.

image002-1729504752.jpg
Ảnh minh họa

2. Nhận diện thủ đoạn rửa tiền thông qua tiền mã hóa

Với những đặc tính riêng có của các đồng tiền mã hóa (bao gồm các đặc tính về công nghệ, tính ẩn danh, tính phi tập trung), sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ mà đặc biệt là các công nghệ liên quan đến thuật toán mã hóa, cùng với sự nở rộ của các “dịch vụ tội phạm mạng” (cybercrime-as-a-service) trên các trang mạng ẩn Darkweb và Deepweb, các đối tượng phạm tội đã và đang triệt để sử dụng đa dạng nhiều phương pháp khác nhau để “rửa” những số tiền bất hợp pháp được thu lợi từ các hành vi phạm tội và vi phạm pháp luật khác. Những phương thức, thủ đoạn phổ biến bao gồm:

a. Thông qua các sàn giao dịch tiền mã hóa tập trung (Centralised exchanges). 

Các sàn giao dịch tập trung (điển hình như: Coinbase, Binance, Bithumb, FTX…) là kênh chủ yếu bị các đối tượng phạm tội lợi dụng để rửa tiền. Theo số liệu thống kê, có tới hơn 60% lượng tiền mã hóa liên quan đến các hoạt động bất hợp pháp được rửa thông qua các sàn này giai đoạn 2019-2023 [7], và đây là nơi các đối tượng rút từ tiền điện tử thành tiền pháp định. 

Trên thực tế, phần lớn các sàn giao dịch lớn trên thế giới (ví dụ như: Coinbase, Kraken, itBit, Gemini, Bitstamp, OKEx, bitFlyer, OKCoin…) đều khẳng định tuân thủ các quy định của pháp luật trong việc phòng, chống rửa tiền, trong đó có các cơ chế về việc định danh khách hàng (KYC – Know Your Customer) và cơ chế phát hiện các giao dịch nghi vấn và cung cấp thông tin cho cơ quan chức năng khi cần thiết. Một số sàn giao dịch (ví dụ như: Binance, BitMax, KuCoin, BiFinex và StormGain) cho phép các giao dịch giữa tiền mã hóa với tiền mã hóa được duy trì ẩn danh, nhưng nếu chuyển tiền mã hóa thành tiền pháp định, tức tiến hành hoạt động rút tiền, thì các quy định của pháp luật về phòng chống rửa tiền, trong đó có việc xác thực danh tính người dùng, sẽ được thực hiện. 

Tuy nhiên, vẫn có một số sàn giao dịch cho phép chủ tài khoản ví điện tử ẩn danh ở một mức độ nhất định hoặc thậm chí hoàn toàn khi rút tiền. Ví dụ: sàn Poloniex cho phép chủ tài khoản ví điện tử thực hiện lệnh rút tiền tối đa 10.000 USD trong một ngày mà không cần thực hiện bước xác định danh tính. Thậm chí, sàn KYCNOT.ME hoàn toàn không thực hiện các yêu cầu của pháp luật về phòng, chống rửa tiền khi không thực hiện bất cứ hoạt động nào xác thực danh tính chủ tài khoản ví điện tử khi các tài khoản này thực hiện lệnh rút tiền pháp định. [8]. Thực tế này phản ánh một thực trạng rằng, mặc dù các sàn vẫn tuân thủ hoặc tuân thủ một phần các quy định hiện hành, nhưng hệ thống pháp luật quốc tế và của từng quốc gia vẫn còn thiếu và tồn tại nhiều lỗ hổng, từ đó tạo điều kiện thuận lợi để các hoạt động rửa tiền lợi dụng các sàn giao dịch tập trung vẫn có thể diễn ra trên quy mô lớn. 

Một điểm đáng chú ý là việc rửa tiền trên các sàn này có độ tập trung rất cao, được thực hiện bởi một số ít tài khoản nhất định. Điển hình như: trong năm 2023, các cơ quan, tổ chức xác định được có 109 tài khoản trên các sàn nhận về hơn 10 triệu USD tiền mã hóa trên một tài khoản, và các tài khoản này nhận về tổng cộng 3,4 tỷ USD tiền mã hóa liên quan đến các hoạt động bất hợp pháp; có 1425 tài khoản nhận về trên 1 triệu USD tiền mã hóa trên một tài khoản, và tổng cộng nhận về 6,7 tỷ USD tiền mã hóa liên quan đến các hoạt động bất hợp pháp, chiếm tới 46% tổng số tiền mã hóa được rửa trong năm đó. Tuy nhiên, độ tập trung của hoạt động rửa tiền thông qua các tài khoản đang có xu hướng giảm dần khi mà số lượng các tài khoản được lợi dụng đang ngày một tăng, nhằm tránh việc bị các cơ quan chức năng truy vết và thu giữ các khoản tiền bất hợp pháp từ các tài khoản này. 

b. Thông qua hệ thống tài chính phi tập trung (Decentralised Finance – DeFi)

Xu hướng đầu tư tài chính phi tập trung (Defi)  để rửa tiền được bắt đầu từ năm 2020 và phát triển mạnh mẽ trong bốn năm trở lại đây. Tổng số tiền mã hóa được rửa qua các giao thức DeFi tăng mạnh trong giai đoạn năm năm trở lại đây, từ dưới 1% tổng số lượng tiền được rửa trong năm 2019 lên khoảng hơn 16% trong năm 2022 và giảm về khoảng 12% trong năm 2023[3]. Tuy nhiên, những con số này mới chỉ bao gồm số tiền được tạo ra từ tội phạm liên quan trực tiếp đến tiền mã hóa, như tấn công mã độc tống tiền (ransomware), bán sản phẩm trên các trang mạng ẩn (darknet), lừa đảo trực tuyến, truyền bá các tài liệu liên quan đến lạm dụng trẻ em… Con số thực tế, nếu tính cả tiền từ các hoạt động phi pháp ngoài đời như buôn ma túy đã được chuyển thành tiền điện tử, có thể cao hơn nhiều [7].

Một điểm cần lưu ý đó là, mặc dù tỷ lệ tiền được rửa qua các hệ thống tài chính phi tập trung tăng mạnh trong giai đoạn 2019-2023, sự tăng trưởng đó một phần xuất phát từ nguyên nhân khách quan là sự phát triển mạnh mẽ của các hệ thống này trong những năm gần đây. Thực tế, các hệ thống tài chính phi tập trung có tính minh bạch cao, việc rửa tiền qua các hệ thống này có thể dễ dàng bị truy vết dòng tiền, do đó, không phải là sự lựa chọn được ưa chuộng của các đối tượng phạm tội[3]. 

Nghiên cứu cho thấy các hoạt động rửa tiền thông qua tài chính phi tập trung chủ yếu được thực hiện bởi các đối tượng tấn công mạng (hacker), chiếm 57,0% lượng tiền được rửa thông qua hình thức này. Nguyên nhân là bởi, các hoạt động tài chính phi tập trung rất dễ bị tấn công bởi các hacker, và khi cuộc tấn công thành công, loại tiền mã hóa mà các đối tượng chiếm đoạt được thường là các đồng tiền chưa được niêm yết (được gọi là Token), và do đó, chỉ có thể giao dịch trên các sàn giao dịch phi tập trung (Decentrialised exchanges – viết tắt là DEXes) để chuyển thành các đồng tiền điện tử có giá trị (đặc biệt là đồng Etherium) trước khi có thể giao dịch và rửa tiền trên các sàn tập trung [7].

c. Thông qua Máy trộn tiền mã hóa (Mixers hoặc Tumblers) và Cầu nối chuỗi (cross-chain bridge)

Phần lớn các hoạt động rửa tiền thông qua tiền mã hóa diễn ra ở mức độ đơn giản, theo đó, các đối tượng chuyển các đồng tiền mã hóa đến các sàn giao dịch tập trung để rửa tiền. Tuy nhiên, một bộ phận nhất định các đối tượng sử dụng các thủ đoạn tinh vi, phức tạp hơn để rửa tiền, bao gồm việc rửa tiền thông qua các Dịch vụ trộn tiền mã hóa (Mixers) và Cầu nối chuỗi (Cross-chain bridges). 

“Trộn tiền mã hóa” là một trong số những dịch vụ điển hình và phổ biến hiện nay được các đối tượng phạm tội sử dụng để rửa tiền từ tiền mã hóa sang tiền pháp định, trong đó, tập trung chủ yếu vào việc giao dịch các đồng tiền mã hóa lớn như Bitcoin, Litecoin và Etherium. Các máy trộn tiền mã hóa (Mixers hoặc Tumblers) này được cung cấp trên cả các trang web công khai (ví dụ như: Smartmixer, Bitcoin Mixer, JoinMarket, Wasabi Wallet…) và các trang web ẩn thông qua trình duyệt Tor (ví dụ như: Alphabay, Sinbad, ChipMixer ). Về bản chất, các máy trộn tiền này là hợp pháp, dùng để phục vụ các mục đích đảm bảo quyền riêng tư về lịch sử giao dịch, và phần lớn lượng tiền được gửi đến các máy trộn tiền là từ các nguồn hợp pháp. Tuy nhiên, các công cụ hợp pháp này ngày càng được các đối tượng rửa tiền lợi dụng, và lượng tiền bất hợp pháp chiếm tỷ lệ ngày càng tăng trong tổng số tiền được gửi đến máy trộn. Trong giai đoạn 2019-2023, có hơn 3,06 tỷ USD đã được chuyển qua các dịch vụ trộn tiền mã hóa, trong đó, chỉ tính riêng trong năm 2022, con số này là 1,01 tỷ USD [7]. 

Về phương thức hoạt động, các máy trộn này nhận tiền từ các đối tượng muốn rửa tiền, trộn các đồng tiền mã hóa có nguồn gốc bất hợp pháp với các đồng tiền mã hóa có nguồn gốc hợp pháp, sau đó các khoản tiền nhỏ được gửi đi đến nhiều ví điện tử khác nhau vào các khoản thời gian khác nhau. Các khoản tiền này đi qua nhiều ví điện tử trung gian khác và dần dần quay trở lại một ví điện tử do các đối tượng rửa tiền quản lý. Các máy trộn tiền thường tính phí dịch vụ từ 1-3% tổng giá trị giao dịch [2]. Những đồng tiền sau khi đi qua máy trộn tiền đã thay đổi về mặt bản chất và rất khó xác định được nguồn gốc của chúng. Những đồng tiền đã được “rửa” có thể được chuyển thành tiền thật (tiền pháp định) thông qua các cổng trung gian như Paypal hoặc Western Union [8]. Theo một Giám đốc nghiên cứu tại công ty phân tích blockchain Chainalysis, mỗi ngày các máy trộn tiền mã hóa này có thể “trộn” khoảng 30 triệu USD . 

Điển hình trong thời gian gần đây, dịch vụ trộn tiền ảo ChipMixer đã bị Cơ quan Hợp tác thực thi pháp luật – Liên minh châu Âu (Europol) và Cục Điều tra liên bang Mỹ (FBI) đánh sập vào tháng 3/2023. Europol mô tả ChipMixer là một trong những máy trộn Tiền mã hóa lớn nhất hiện nay và bị cho là đã giúp tội phạm mạng rửa số tiền số trị giá hơn 3 tỷ USD [9]. Đáng chú ý, theo thông tin từ FBI, dịch vụ trộn tiền ảo này do Nguyễn Minh Quốc, 49 tuổi, quốc tịch Việt Nam, tạo dựng và trực tiếp điều hành . 

Mặc dù đã có một số website trộn Tiền mã hóa phục vụ các hoạt động rửa tiền đã bị lực lượng chức năng các quốc gia trên thế giới triệt phá, song ngay lập tức các dịch vụ trộn tiền khác xuất hiện, thay thế (ví dụ như: sàn Sinbad xuất hiện thay thế cho sàn Tornado Cash và hiện bị thay thế bởi sàn YoMix). Cùng với đó, hệ thống pháp luật quốc tế cũng như của các quốc gia vẫn chưa có những thay đổi kịp thời để kiểm soát, điều chỉnh và quản lý lĩnh vực này [8]. Đây là nguyên nhân khiến cho việc rửa tiền thông quan lợi dụng các dịch vụ trộn tiền mã hóa chứng kiến sự tăng trưởng mạnh trong những năm gần đây [3]. 

Bên cạnh các máy trộn tiền, Cầu nối chuỗi (Cross-chain bridges) là các dịch vụ cho phép người dùng chuyển đổi từ loại tiền mã hóa này sang loại tiền mã hóa khác. Các đối tượng thường thực hiện việc chuyển đổi các loại tiền mã hóa nhiều lần, nhằm che giấu nhân thân và đường đi của dòng tiền. Năm 2023 chứng kiến sự tăng trưởng mạnh mẽ trong lượng tiền mã hóa được rửa qua các cầu nối chuỗi, lên tới 743,8 triệu USD, tăng gấp hơn hai lần so với năm 2022 ở mức 312,2 triệu USD, và chủ yếu được thực hiện do các đối tượng hacker tấn công lấy cắp tiền điện tử từ các tài khoản hợp pháp. 

d. Thông qua thị trường mua bán trao tay OTC (Over the counter market)

Thị trường mua bán trao tay (OTC) là nơi các giao dịch mua hoặc bán tiền mã hóa được thực hiện trực tiếp giữa người mua và người bán với số lượng lớn, không cần thông qua các sàn giao dịch và không ảnh hưởng đến giá trị trên thị trường của đồng tiền được giao dịch. Trong các giao dịch OTC, người mua và người bán có thể thực hiện các giao dịch rất lớn, tự thỏa thuận với nhau về giá, không có sổ lệnh trên các sàn ghi lại lịch sử giao dịch, cũng như không cần tuân thủ các bước giao dịch theo quy định về phòng, chống rửa tiền. Đây là thị trường được rất nhiều người quan tâm, trong đó có nhiều đối tượng tham gia với mục đích rửa tiền. 

Một số ước tính cho thấy lượng tiền mã hóa được giao dịch trên thị trường mua bán trao tay (OTC) lớn gấp hai đến ba lần so với lượng tiền được mua bán, chuyển đổi thông qua các sàn giao dịch [10]. Việc giao dịch giữa người mua và người bán trên các thị trường mua bán trao tay này có thể thực hiện thông qua hai cách: giao dịch thông qua một bên trung gian, mối giới (ví dụ như: nền tảng Kraken, Bitstocks, Genesis Trading…) hoặc giao dịch trực tiếp giữa người mua và người bán, trong đó, hình thức giao dịch qua một nền tảng trung gian là phổ biến nhất, do quy mô, tốc độ và khả năng thanh khoản cao của các dịch vụ trung gian này. Theo đó, hoạt động mua bán tiền mã hóa (tức chuyển đổi từ tiền mã hóa sang tiền pháp định) thường được thực hiện thông qua các cuộc gặp mặt trực tiếp giữa các bên dưới sự sắp xếp của bên trung gian, môi giới và nền tảng này thường tính phí từ 3-8% tổng giá trị giao dịch. Các đối tượng có ý định rửa tiền thông qua các đồng tiền mã hóa hoàn toàn có thể lợi dụng thị trường mua bán trao tay (OTC) để rửa một lượng tiền lớn và trong khoảng thời gian ngắn [8]. 

e. Thông qua tiền mã hóa ẩn danh (Privacy coins)

Tiền mã hóa ẩn danh (gọi tắt là tiền ẩn danh) là những đồng tiền mã hóa được tạo ra nhằm mục đích ẩn danh hoàn toàn cho người dùng và nguồn gốc của các giao dịch của họ. Những đồng tiền ẩn danh này sử dụng các sổ cái (ledger) ẩn, các thuật toán mã hóa phức tạp và trộn tiền, khiến cho việc truy vết các giao dịch trở nên khó khăn hơn nhiều so với các loại tiền mã hóa công khai khác như Bitcoin, từ đó cho phép người dùng che giấu nguồn gốc, lượng tiền và tài khoản nhận trong các giao dịch được thực hiện. Từ năm 2014 trở đi, hàng loạt các đồng tiền ẩn danh được ra đời, điển hình như: Monero (XMR), Dash (DASH), Zcash (ZEC), Verge (XVG), Beam (BEAM), Navcoin (NAV)… Các cơ quan thực thi pháp luật và cơ quan quản lý đã bày tỏ lo ngại về các đối tượng phạm tội tích cực lợi dụng các đồng tiền ẩn danh để rửa tiền, trốn thuế và thực hiện các hoạt động bất hợp pháp khác. Ví dụ như: theo một nghiên cứu được thực hiện năm 2018 cho thấy, có khoảng 25% các giao dịch liên quan đến đồng tiền Monero (XMR) là có liên quan đến các hành vi vi phạm pháp luật [11]. 

f. Thông qua các sàn đánh bạc trực tuyến

Các báo cáo năm 2024 của Cơ quan phòng chống ma túy và tội phạm của Liên hợp quốc về (UNODC) và của công ty Chainalysis đều chỉ ra một xu hướng mới nổi lên trong hoạt động rửa tiền của các tội phạm, đặc biệt là các tội phạm có tổ chức, trên thế giới và trong khu vực Đông Nam Á là sử dụng tiền điện tử để đánh bạc trực tuyến [3, 12]. Theo đó, các đối tượng đang lợi dụng các đồng tiền Tether và USDT trên mạng TRON để rửa các khoản tiền thu được từ các hoạt động phạm tội như lừa đảo trực tuyến – một vấn đề nóng ở khu vực Đông Nam Á hiện nay, và phát tán mã độc mã hóa dữ liệu tống tiền (Ransomware). Sau khi các khoản tiền điện tử được sử dụng để đánh bạc hoặc được chuyển từ tài khoản đánh bạc ở quốc gia này sang tài khoản đánh bạc ở quốc gia khác, chúng sẽ được rút ra thành tiền pháp định và rất khó xác định nguồn gốc liên quan đến tội phạm của các khoản tiền này. 

g. Sử dụng tiền mã hóa mua bất động sản, tác phẩm nghệ thuật và hàng hóa bán lẻ

Trong những năm gần đây, việc mua bán bất động sản, các tác phẩm nghệ thuật, và các loại hàng hóa có giá trị bằng các đồng tiền mã hóa, đặc biệt là đồng Bitcoin, đang trở nên phổ biến và dần trở thành trào lưu mới. Thực tế cho thấy, hoạt động mua bán bất động sản bằng tiền mã hóa đã và đang diễn ra ở nhiều quốc gia trên thế giới như Mỹ , Bồ Đào Nha, Mexico, Colobia … bất chấp việc thiếu hành lang pháp lý đối với tiền mã hóa, cũng như những nguy cơ liên quan đến trốn thuế và rửa tiền. Điển hình như tại Dubai, một dự án căn hộ trị giá 325 triệu USD đã được mở bán năm 2017 và chấp nhận thanh toán trực tiếp bằng Bitcoin . Cùng với đó, hàng loạt website trên không gian mạng được ra đời, cho phép người dùng thực hiện các giao dịch mua bán các loại hàng hóa có giá trị cao thông qua việc sử dụng các đồng tiền mã hóa. Điển hình như: website Vaultoro.com cho phép mua bán vàng, bạc bằng Bitcoin, Dash và hàng loạt các đồng tiền mã hóa phổ biến khác với mức phí giao dịch thấp; website Bitcars.eu trở thành nền tảng để thực hiện các thương vụ mua bán siêu xe ô tô bằng Bitcoin… 

Việc mua bán kim cương , các tác phẩm nghệ thuật, NFTs… bằng tiền mã hóa thông qua các website hay qua các nhà đấu giá cũng dần trở nên phổ biến ở một số quốc gia trên thế giới. Như vậy, việc các đồng tiền mã hóa dần được chấp nhận phổ biến trong các giao dịch mua bán bất động sản và hàng hóa có giá trị cao, trong khi các quy định của pháp luật đối với hoạt động này còn thiếu và chưa bắt kịp thực tại, các đối tượng phạm tội và vi phạm pháp luật hoàn toàn có thể lợi dụng để phục vụ cho các mục đích rửa tiền. 

4. Phương hướng phòng, chống rửa tiền mã hóa trong thời gian tới. 

Hiện nay, Việt Nam đứng thứ hai trong danh sách quốc gia có tỷ lệ người dân sở hữu tiền mã hóa cao nhất thế giới, với 21,2% dân số  và dự kiến số lượng người dùng tiền mã hóa vào năm 2027 sẽ tăng thêm 12,37 triệu người . Với sự gia tăng nhanh chóng này, trong bối cảnh các khung quy định pháp lý đối với tiền tiền mã hóa còn thiếu và tồn tại nhiều hạn chế, hoạt động rửa tiền mã hóa tại Việt Nam được dự đoán sẽ có xu hướng tăng cao trong thời gian tới. Đặc biệt là gần đây Việt Nam đã bị Lực lượng đặc nhiệm hành động tài chính liên Chính phủ (FATF) đưa vào danh sách xám các nước cần tăng cường phòng chống rửa tiền, trong đó có tiền mã hóa. 

Để chủ động phòng, chống các hành vi rửa tiền lợi dụng tiền mã hóa trong thời gian tới, các lực lượng chức năng cần thực hiện đồng bộ một số giải pháp cụ thể:

Thứ nhất, nghiên cứu, ban hành các văn bản quy phạm pháp luật hoặc các hướng dẫn, quy trình về phòng, chống rửa tiền lợi dụng tiền mã hóa. 

Tính đến thời điểm hiện tại, hệ thống pháp luật trên thế giới điều chỉnh phòng, chống rửa tiền lợi dụng tiền điện tử mới đang trong giai đoạn bước đầu được xây dựng. Trong đó, Liên minh châu Âu (EU) đã tiên phong đi đầu khi ban hành đạo luật Thị trường Tài sản mã hóa (MiCA) và sẽ có hiệu lực từ năm 2024. Các quốc gia khác như Mỹ, Hàn Quốc, Hongkong (Trung Quốc), Các Tiểu vương quốc Ả rập Thống nhất cũng đang triển khai xây dựng và ban hành nhiều quy định để tăng cường tính minh bạch, đảm bảo tuân thủ pháp lý và an toàn cho người dùng, đồng thời thực hiện nghĩa vụ chống rửa tiền, chống tài trợ khủng bố đối với các sàn giao dịch và các dịch vụ liên quan đến tiền mã hóa trên không gian mạng. Lực lượng đặc nhiệm hành động tài chính liên Chính phủ (FATF) cũng đã ban hành bảy văn bản, tài liệu hướng dẫn về “tài sản ảo” để các quốc gia, tổ chức trên thế giới có thể nghiên cứu, tham khảo và áp dụng vào thực tế nước mình  . 

Tại Việt Nam, Luật Phòng, chống rửa tiền 2022 đã có hiệu lực từ 1/3/2023 nhưng các tổ chức tín dụng, các cơ quan nhà nước vẫn còn lúng túng trong việc xử lý các hành vi có liên quan đến tiền mã hóa. Do đó, trong thời gian tới, các lực lượng chức năng trong nước cần tiếp tục nghiên cứu hệ thống pháp luật và các tài liệu hướng dẫn của các tổ chức quốc tế, các quốc gia đi đầu trên thế giới để kịp thời xây dựng, ban hành các văn bản pháp luật, hướng dẫn trong nước, đáp ứng kịp thời các yêu cầu thực tế đặt ra trong công tác phòng, chống rửa tiền lợi dụng tiền mã hóa. Cụ thể: Bổ sung quy phạm pháp luật trong Luật Thương mại, Luật Thuế thu nhập cá nhân, Luật Thuế giá trị gia tăng, Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp theo hướng cấm hoặc hạn chế sử dụng tiền mã hóa trong các giao dịch hàng hóa, dịch vụ; Bổ sung quy phạm pháp luật trong Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư hoặc các văn bản hướng dẫn khi trong các quy phạm pháp luật của hai luật này theo hướng cấm hoặc hạn chế đầu tư, góp vốn, kinh doanh… tiền mã hóa. Bổ sung quy phạm pháp luật trong Bộ luật Hình sự, Luật Phòng, chống rửa tiền, Luật Giao dịch điện tử, Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam… về tiến hành điều tra khi có dấu hiệu chuyển tiền lớn nghi có dấu hiệu liên quan đến chuyển tiền pháp định thành tiền mã hóa hoặc ngược lại.

Thứ hai, chủ động xây dựng chương trình phòng, chống tội phạm rửa tiền lợi dụng tiền mã hóa 

Hiện tại, Việt Nam đã ký cam kết cấp Chính phủ với Lực lượng đặc nhiệm hành động tài chính liên Chính phủ (FATF) về việc thực hiện Kế hoạch hành động gồm 17 hành động do FATF đưa ra cho Việt Nam trong khoảng thời gian nhất định (hoàn thành trước tháng 5/2025). Đây là khung chương trình hành động cơ bản, định hướng các biện pháp, chương trình mà các cơ quan thực thi pháp luật, tổ chức tín dụng và doanh nghiệp cần thực hiện trong thời gian tới để tăng cường hiệu quả công tác phòng, chống rửa tiền, trong đó có rửa tiền lợi dụng tiền điện tử. 

Đối với các cơ quan quản lý nhà nước và cơ quan thực thi pháp luật, cần tăng cường phối hợp với các cơ quan, tổ chức hoạt động trong lĩnh vực công nghệ thông tin, tiền mã hóa, phòng chống lừa đảo trên không gian mạng… xây dựng các sáng kiến, giải pháp về công nghệ để giám sát chặt chẽ các giao dịch, chủ động phát hiện các giao dịch có dấu hiệu nghi vấn, thu thập thông tin và truy vết khi có dấu hiệu liên quan đến tội phạm và rửa tiền lợi dụng tiền điện tử. Một ví dụ điển hình là việc Hiệp hội Blockchain Việt Nam công bố dự án chống lừa đảo với tên gọi là ChainTracer vào đầu năm 2023, với nhiệm vụ cung cấp giải pháp theo dõi dữ liệu blockchain onchain và offchain, phát hiện những dấu hiệu gian lận trong tài sản kỹ thuật số. Mục đích chính của dự án là góp phần thúc đẩy tính minh bạch và công khai của các dự án tại Việt Nam và quốc tế, góp phần phòng, chống các tội phạm quan đến hoạt động blockchain, trong đó có rửa tiền.

Thứ ba, tăng cường phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước với lực lượng Công an nhân dân, đặc biệt là lực lượng An ninh mạng và phòng, chống tội phạm sử dụng công nghệ cao để tiến hành rà soát trên mạng Internet, kịp thời phát hiện và nắm tình hình, kiểm soát hoạt động của các dịch vụ, hội nhóm trên không gian mạng liên quan đến hoạt động rửa tiền bằng tiền mã hóa thông qua các dịch vụ máy trộn tiền, tiền ẩn danh, thị trường tài chính phi tập trung… và kịp thời tiến hành đấu tranh với các hành vi đã cấu thành tội phạm. 

Thứ tư, tăng cường hợp tác quốc tế với các cơ quan, tổ chức quốc tế trong việc trao đổi thông tin, kinh nghiệm trong phòng, chống tội phạm rửa tiền lợi dụng tiền mã hóa; tổ chức các chương trình đào tạo, bồi dưỡng năng lực cho các cán bộ thực thi pháp luật trong nước trên các phương diện kinh tế, công nghệ và pháp luật để có thể áp dụng các quy trình, giải pháp phòng, chống tội phạm rửa tiền lợi dụng tiền mã hóa hiệu quả. 

Ths. Lộc Minh Đạt,
( Học viện Cảnh sát nhân dân ).


Tài liệu tham khảo:

1.    Dyntu, V. and O. Dykyi, Cryptocurrency in the system of money laundering. Baltic Journal of Economic Studies, 2019. 4(75).
2.    Teichmann, F.M.J. and M.-C. Falker, Cryptocurrencies and financial crime: solutions from Liechtenstein. Journal of Money Laundering Control, 2021. 21(4): p. 775-788.
3.    Chainalysis, The 2024 Crypto Crime Report. 2024.
4.    Foley, S., J.R. Karlsen, and T.J. Putniņš, Sex, Drugs, and Bitcoin: How Much Illegal Activity Is Financed through Cryptocurrencies? The Review of Financial Studies, 2019. 32(5): p. 1798-1853.
5.    Đức Thiện, Tiền mã hóa vào Việt Nam đến 120 tỉ USD?, in Tuổi trẻ online. 2024: https://tuoitre.vn/tien-ma-hoa-vao-viet-nam-den-120-ti-usd-20240605170408513.htm.
6.    Minh Phương, Củng cố hành lang pháp lý chống rửa tiền trong giao dịch tiền mã hóa, in Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam. 2023: https://dangcongsan.vn/kinh-te/cung-co-hanh-lang-phap-ly-chong-rua-tien-trong-giao-dich-tien-ma-hoa-647293.html.
7.    Chainalysis, The 2023 Crypto Crime Report. 2023.
8.    Dupuis, D. and K. Gleason, Money laundering with cryptocurrency: open doors and the regulatory dialectic. Journal of Financial Crime, 2020. 28(1): p. 60-74.
9.    Khương Nha, Một người Việt bị FBI truy nã vì rửa 3 tỷ USD tiền số, in VnEpress. 2023: https://vnexpress.net/mot-nguoi-viet-bi-fbi-truy-na-vi-rua-3-ty-usd-tien-so-4582009.html.
10.    Han, R. and X. Wang. Research on the relationship between Cryptocurrency and OTC market based on VAR model. in 2022 4th International Conference on Economic Management and Cultural Industry (ICEMCI 2022). 2022. Atlantis Press.
11.    Möser, M., et al. An empirical analysis of traceability in the monero blockchain. in Proceedings on Privacy Enhancing Technologies. 2018.
12.    UNODC, Casinos, Money Laundering, Underground Banking, and Transnational Organized Crime in East and Southeast Asia: A Hidden, Accelerating Threat. 2024. 

Một số vấn đề về định tội danh đối với hành vi chiếm đoạt tiền ảo trong thực tiễn xét xử và đề xuất, kiến nghị hoàn thiện pháp luật

Tạp Chí Toà Án 09/05/2025 10:58 

Bài viết phân tích cơ sở pháp lý của “đồng tiền ảo”, quy định của pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành có liên quan và quan điểm thực tiễn giải quyết các vụ án của cơ quan tiến hành tố tụng, từ đó đề xuất hướng giải quyết vụ án về tội danh, trách nhiệm dân sự, tư cách tham gia tố tụng và xử lý “dữ liệu điển tử” bị chiếm đoạt liên quan đến hành vi chiếm đoạt tiền ảo.

1. Giá trị pháp lý của “tiền ảo” ở Việt Nam

Hiện nay, ở nước ta người đầu tư tiền ảo ngày càng nhiều và giao dịch tiền ảo công khai. Theo số liệu thống kê từ Cục An ninh mạng và Phòng, chống tội phạm sử dụng công nghệ cao (Bộ Công an), ước có khoảng 01 triệu người sở hữu và tham gia với số tiền giao dịch hằng ngày lên tới vài trăm tỷ đồng. [1]Những người đầu tư tiền ảo coi “đồng tiền ảo” là một loại tài sản, bởi thực tế, họ phải bỏ tiền Việt Nam Đồng (VNĐ) ra để mua đồng tiền ảo. Khi thị trường trên sàn giao dịch tiền ảo tăng, họ có thể bán và được sàn giao dịch tiền ảo quy đổi sang tiền VNĐ và chuyển về tài khoản ngân hàng Việt Nam. Hoặc các nhà đầu tư tiền ảo tự thỏa thuận, giao dịch mua bán với nhau.

Hiện nay, về mặt pháp lý ở nước ta chưa có một khái niệm nào về “tiền ảo” trong khi hàng loạt các loại tiền ảo đã du nhập vào Việt Nam và phát triển như một xu thế tất yếu trong thời đại số. Ở Việt Nam, đến nay có hơn 20 loại tiền ảo phổ biến như: Bitcoin (BTC), Ethereum (ETH), Binance Coin (BNB), RIPPLE (XRP), Tether (USDT), Cardano (ADA), Polkadot (DOT), Dogecoin (DOGE), Uniswap (UNI), Litecoin (LTC)…[2] Cùng với đó là mô hình kinh doanh tiền ảo cũng xuất hiện. Mặc dù Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã khẳng định rõ việc sử dụng Bitcoin và các loại tiền ảo tương tự khác làm phương tiện thanh toán không được pháp luật thừa nhận và bảo vệ, tuy nhiên, trên thế giới, có quốc gia thừa nhận và cho phép kinh doanh, giao dịch tiền ảo như Argentina, Colombia và Brazil; có quốc gia hoàn toàn cấm tiền ảo như Trung Quốc; có quốc gia không cấm nhưng cũng không thừa nhận như Việt Nam[3].

Theo quy định tại khoản 1 Điều 105 BLDS 2015 thì “tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản”. Trong đó, “vật” được hiểu là một bộ phận của thế giới vật chất được tồn tại dưới dạng rắn, lỏng, khí; có tính năng, đặc tính riêng biệt và con người có thể quản lý, khai thác, sử dụng như vàng, bạc, xe cộ, đất đai, nhà cửa…; “tiền” là phương tiện thanh toán do Nhà nước phát hành, được Nhà nước bảo hộ để định giá, trao đổi, thanh toán cho các loại tài sản khác. Tiền bao gồm nội tệ và ngoại tệ; “giấy tờ có giá” là bằng chứng xác nhận nghĩa vụ trả nợ giữa tổ chức được phép phát hành giấy tờ có giá với người sở hữu giấy tờ có giá trong một thời hạn nhất định, điều kiện trả lãi và các điều kiện khác như trái phiếu Chính phủ, trái phiếu công ty, kỳ phiếu, cổ phiếu, tín phiếu, hối phiếu đòi nợ, hối phiếu nhận nợ, séc… và “quyền tài sản” là quyền trị giá được bằng tiền, bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và các quyền tài sản khác như quyền bề mặt, quyền hưởng dụng…

Theo Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, “tiền ảo” là một dạng “tài sản ảo” có những đặc tính gồm[4]:

– Tính phi vật chất: Do tài sản ảo chỉ tồn tại dưới dạng dữ liệu kỹ thuật số nên không có hình dạng vật lý như tài sản thông thường, giá trị của tài sản ảo được công nhận thông qua các nền tảng số hoặc cộng đồng sử dụng chúng.

– Tính phi tập trung: Phần lớn tài sản ảo, đặc biệt là tiền điện tử, không chịu sự quản lý của một tổ chức hay chính phủ nào. Thay vào đó, chúng hoạt động dựa trên các mạng lưới phân tán như Blockchain, giúp tăng tính minh bạch và bảo mật.

– Tính ẩn danh: Các giao dịch tài sản ảo thường không yêu cầu cung cấp danh tính người tham gia, giúp bảo vệ quyền riêng tư. Tuy nhiên, đặc điểm này cũng có thể bị lạm dụng cho các hoạt động bất hợp pháp như rửa tiền hoặc tài trợ khủng bố.

– Giá trị tương lai biến động theo nhu cầu thị trường: Giá trị tương lai của tài sản ảo không ổn định, có thể thay đổi liên tục do phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau, nổi bật nhất là yếu tố về tâm lý, nhu cầu thị trường, sự tiến bộ của công nghệ, sự khan hiếm, tiện ích được nhận thức và hệ sinh thái nơi chúng tồn tại.

– Tính toàn cầu: Tài sản ảo không bị giới hạn bởi biên giới quốc gia, có thể giao dịch ở bất kỳ đâu trên thế giới, chỉ cần có kết nối Internet. Điều này giúp tài sản ảo dễ dàng tiếp cận với nhiều người dùng và thị trường.

– Tiềm ẩn nhiều rủi ro pháp lý: Các tài sản ảo tiềm ẩn nhiều rủi ro về pháp lý do không giống như tài sản truyền thống, tài sản ảo thường không có bất kỳ giá trị nội tại nào. Giá của chúng chủ yếu dựa vào niềm tin của nhà đầu tư cũng như cung và cầu thị trường vốn rất nhạy cảm với tin tức và tin đồn thị trường.

Như vậy, “tiền ảo” có thể được hiểu là một “sản phẩm” có giá trị tồn tại dưới hình thức kỹ thuật số được phát hành bởi một cá nhân hoặc tổ chức, không phải là đồng tiền pháp định do Chính phủ của một quốc gia nào đó phát hành, có giá trị sử dụng trong cộng đồng mạng hoặc có thể được sử dụng để thực hiện việc trao đổi, thanh toán với các loại hàng hóa, dịch vụ khác[5].

Mặc dù không có quy định nào thừa nhận tiền ảo là tài sản, nhưng pháp luật hiện hành cũng không có quy định cấm đầu tư kinh doanh ngành nghề liên quan đến tiền ảo. Theo quy định tại Điều 6 và Điều 7 Luật Đầu tư năm 2020 về danh sách các ngành nghề cấm đầu tư kinh doanh và ngành, nghề kinh doanh có điều kiện đều không liệt kê hoạt động kinh doanh liên quan đến tiền ảo. Theo quy định tại Điều 33 Hiến pháp thì “mọi người có quyền tự do kinh doanh trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm”. Như vậy, pháp luật Việt Nam không cấm kinh doanh “đầu tư” tiền ảo nhưng cũng không thừa nhận tiền ảo là một tài sản, do đó, mọi tranh chấp phát sinh liên quan đến tiền ảo pháp luật không giải quyết. Ví dụ: Trong vụ án ly hôn, nếu vợ chồng yêu cầu “chia tài sản” là tiền ảo thì Tòa án không có căn cứ để xem xét giải quyết; nhưng nếu vợ chồng tự thỏa thuận chia tiền ảo khi ly hôn thì pháp luật không cấm.

Như vậy, một vấn đề tồn tại ở nước ta hiện nay là các giao dịch “tiền ảo” không được pháp luật bảo vệ nhưng lại được mặc nhiên hoạt động mà chưa có một hành lang pháp lý nào điều chỉnh. Điều này dẫn đến những bất cập, vước mặc khi có tranh chấp hay hành vi chiếm đoạt “tiền ảo” xảy ra.

2. Hành vi chiếm đoạt “tiền ảo” có được pháp luật bảo vệ không?

Các hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác được BLHS 2015 quy định trong Chương XVI các tội xâm phạm sở hữu, ví dụ: tội cướp tài sản (Điều 168), tội cưỡng đoạt tài sản (Điều 170), tội trộm cắp tài sản (Điều 173), tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 174)… Cũng có tội phạm thực hiện hành vi nhằm chiếm đoạt tài sản nhưng lại không được quy định tại chương các tội xâm phạm sở hữu, ví dụ “tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản (Điều 290) thuộc Chương XXI các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng trong lĩnh vực công nghệ thông tin, viễn thông. Như vậy, bất kỳ hành vi nào chiếm đoạt tài sản của người khác đều là hành vi vi phạm pháp luật và nếu mức độ nguy hiểm cho xã hội đến mức phải xử lý hình sự thì sẽ được xét xử bằng 01 vụ án hình sự.

Mặc dù các giao dịch liên quan đến tiền ảo chưa được pháp luật Việt Nam bảo vệ, nhưng nếu đối tượng thực hiện hành vi chiếm đoạt tiền ảo thông qua các phương thức, thủ đoạn mà hành vi này lại xâm phạm các khách thể khác được pháp luật hình sự bảo vệ thì hành vi của đó vẫn bị xử lý hình sự theo tội phạm tương ứng và tiền ảo bị chiếm đoạt có để được xử lý trong vụ án hình sự mà bị cáo bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

3. Xác định tội danh đối với hành vi chiếm đoạt “tiền ảo” thông qua xâm nhập trái phép mạng máy tính, mạng viễn thông, phiên tiện điển tử

3.1. Nội dung vụ án

Khoảng 03 giờ ngày 24/11/2021 tại phòng trọ của Tr phòng 401 CT1A Chung cư Tân Tây Đô thuộc xã T L, huyện Đan Ph, thành phố H, Tr đã sử dụng ứng dụng Trust, là ứng dụng để lưu trữ tiền điện tử hay còn gọi là ví nóng trên điện thoại của Tr kết nối mạng internet, nhập 12 chữ bảo mật tài khoản ví điện tử địa chỉ “TK5zSmq14QBWuwrAwF7Exn9kudJZztLyZ” do Nguyễn Thị Ng quản lý, xâm nhập trái phép vào ví điện tử này và chuyển toàn bộ dữ liệu điện tử trong ví là 106.337 USDT[6] ra khỏi ví điện tử do chị Ng quản lý. Nguyễn Tiến Tr đã nhờ Đỗ T A bán 100.007 USDT cho nhiều nhà đầu tư và thu lợi 2.370.000.000 đồng. Ngoài ra Tr chuyển 3.380 USDT vào ví điện tử của T A để trả nợ cho T A; chuyển 2.950 USST vào ví điện tử của Tr để đầu tư nhưng thua lỗ hết. Toàn bộ số tiền thu lợi từ việc bán dữ liệu điện tử trong ví điện tử của chị Ng bị cáo Tr sử dụng trả nợ, mua ô tô và tiêu dùng cá nhân hết. Bản án hình sự sơ thẩm số số 136/2023/HSST  ngày 22/12/2023 của  Tòa  án nhân dân huyện Đan Ph, thành phố H đã áp dụng điểm c khoản 3 Điều 289 BLHS xét xử bị cáo Nguyễn Tiến Tr về tội “Xâm nhập trái phép vào mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc phương tiện điện tửcủa người khác”.

Ngày 18/01/2024, Viện trưởng  Viện  kiểm  sát  nhân  dân  thành  phố H có kháng nghị phúc thẩm số 03/QĐ-VKS ngày 18/01/2024 về tội danh và hình phạt đối với bị cáo Nguyễn Tiến Tr tại bản án Hình sự sơ thẩm số 136/2023/HSST ngày 22/12/2023 của Tòa án nhân dân huyện Đan Ph. Đề nghị Tòa án nhân dân thành phố Hxét xử phúc thẩm v ụán theo hướng hủy toàn bộ bản án Hình sựsơ thẩm số136/2023/HSST ngày 22/12/2023 của Tòa án nhân dân huyện Đan Ph với nhận định hành vi của bị cáo phạm tội “Sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điển tử thực hiện hành vi chiếm đoat tài sản” theo Điều 290 BLHS. HĐXX phúc thẩm không chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân thành phố H với nhận định: USDT là một đồng tiền điện tử, hay còn gọi là “tiền ảo” đang tồn tại ởViệt Nam. Tuy nhiên, theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành chưa công nhận đồng  tiền điện  tử này là  tài  sản.  USDT không  phải  là  tiền  tệ và  không  phải  là phương tiện thanh toán hợp pháp theo quy định của pháp luật Việt Nam. Việc phát hành, cung ứng và sử dụng loại tiền điện tử này làm tiền tệ hoặc phương tiện thanh toán là những hành vi không phù hợp quy định pháp luật Việt Nam. Chính vì USDT chưa được công nhận là tài sản nên không đủ căn cứ để tiến hành định giá số lượng USST trong ví điện tử của chị Ng nhằm xác định giá trị tài sản chiếm đoạt đểxác định khung hình phạt trong trường hợp cho rằng hành vi của bịcáo là chiếm đoạt tài sản.

Tác giả đồng tình với nhận định của HĐXX cấp phúc thẩm. Bởi vì, trong vụ án trên, chúng ta thấy rằng hành vi của bị cáo Nguyễn Tiến Tr đã xâm phạm trái phép phương tiện điện tử của người khác, có mục đích chiếm đoạt nhưng cụ thể trong trường hợp này là nhằm lấy cắp dữ liệu điện tử (USDT) để thực hiện nhiều mục đích khác nhau. Trên thực tế bị cáo đã lấy cắp các dữ liệu điện tử này và bán một phần để thu lợi bằng tiền Việt Nam đồng, sử dụng một phần để đầu tư, một phần để trả nợ. Hành vi này phù hợp với mô tả trong cấu thành tội phạm tội “Xâm phạm trái phép vào mạng  máy  tính,  mạng  viễn  thông  hoặc phương tiện điện  tử của người  khác” tại Điều 289 BLHS. Do chưa đủ cơ sở để xác định số USDT trong ví điện tử là tài sản, và không định giá được để xác định giá trị tài sản bị chiếm đoạt nên chưa đủ căn cứ để truy  tố,  xét  xử bị cáo  về tội “Sử dụng  mạng  máy  tính,  mạng  viễn  thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 4 Điều 290 BLHS.

Hơn nữa, căn cứ vào hành vi xâm nhập trái phép vào mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc phương tiện điện tử của người kháctheo Điều 289 BLHS 2015 thì bị cáo bị áp dụng định khung tăng nặng là “thu lợi bất chính 500.000.000 đồng trở lên” quy định tại điểm c khoản 3 Điều 289 BLHS. Số tiền thu lợi chính là giá trị tiền VNĐ mà bị cáo Tr đã thu được khi bán đồng tiền áo USDT.

3.2. Phân tích cấu thành tội phạm

“Điều 289. Tội xâm nhập trái phép vào mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc phương tiện điện tử của người khác

1. Người nào cố ý vượt qua cảnh báo, mã truy cập, tường lửa, sử dụng quyền quản trị của người khác hoặc bằng phương thức khác xâm nhập trái phép vào mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc phương tiện điện tử của người khác chiếm quyền điều khiển; can thiệp vào chức năng hoạt động của phương tiện điện tử; lấy cắp, thay đổi, hủy hoại, làm giả dữ liệu hoặc sử dụng trái phép các dịch vụ, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 300.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 300.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng hoặc bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm:

a) Có tổ chức;

b) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;

c) Thu lợi bất chính từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;

d) Gây thiệt hại từ 300.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng;

đ) Đối với trạm trung chuyển internet quốc gia, hệ thống cơ sở dữ liệu tên miền và hệ thống máy chủ tên miền quốc gia;

e) Tái phạm nguy hiểm.

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 12 năm:

a) Đối với hệ thống dữ liệu thuộc bí mật nhà nước; hệ thống thông tin phục vụ quốc phòng, an ninh;

b) Đối với cơ sở hạ tầng thông tin quốc gia; hệ thống thông tin điều hành lưới điện quốc gia; hệ thống thông tin tài chính, ngân hàng; hệ thống thông tin điều khiển giao thông;

c) Thu lợi bất chính 500.000.000 đồng trở lên;

d) Gây thiệt hại 1.000.000.000 đồng trở lên.

4. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm”.

– Chủ thể của tội phạm

Chủ thể của tội phạm là bất kỳ người nào có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, tức là họ có khả năng nhận thức được tính chất nguy hiểm cho xã hội của hình vi của mình và có khả năng điều khiển được hành vi ấy. Đồng thời, người đó phải đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, nghĩa là vào thời điểm thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, họ phải thỏa mãn điều kiện về độ tuổi được quy định tại Điều 12 BLHS 2015.

– Khách thể của tội phạm

Tội xâm nhập trái phép vào mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc phương tiện điện tử của người khác được quy định tại Điều 289 thuộc Mục 2: Tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin, mạng viễn thông, Chương XXI: Các tội xâm phạm trật tự công cộng. Do đó, khách thể mà tội phạm xâm phạm trong tình huống trên là quản lý nhà nước về an toàn công cộng trong lĩnh vực công nghệ thông tin, mạng viễn thông.

– Mặt khách quan của tội phạm

Mặt khách quan của tội phạm gồm hành vi khách quan, hậu quả và mối quan hệ nhân quả. Tội phạm được coi là hoàn thành kể từ thời điểm thực hiện hành vi truy cập trái phép bằng một trong các hành vi nêu tại Điều 289 BLHS. Đây là tội có cấu thành hình thức, do đó, hậu quả của tội phạm không phải là dấu hiệu bắt buộc. Việc tội phạm thu lợi bất chính hoặc gây thiệt hại cho cá nhân, tổ chức do hành vi phạm tội gây ra là yếu tố để xác định định khung tăng nặng. Hành vi khách quan của tội phạm trong tình huống nêu trên là hành vi cố ý xâm nhập trái phép vào tài khoản “tiền ảo” của chủ tài khoản sau đó sử dụng quyền quản trị tài khoản tiền ảo để chuyển đồng tiền ảo ra khỏi . Khi bị cáo xâm nhập vào tài khoản tiền ảo của chủ tài khoản và chiếm quyền điều khiển tài khoản chuyển tiền ảo sang tài khoảng của mình là hành vi phạm tội đã hoàn thành. Không bắt buộc bị cáo đã bán được tiền ảo chiếm đoạt hay chưa.

– Mặt chủ quan của tội phạm

Tội phạm phạm tội với lỗi cố ý, họ nhận thức rõ hành vi xâm nhập trái phép vào tài khoản tiền ảo của người khác là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra. Hậu quả của tội phạm mà người phạm tội đã thấy trước hoàn toàn phù hợp với mục đích hành động, với sự mong muốn của người đó.

3.3. Xác định số tiền thu lợi bất chính để xác định khung hình phạt tăng nặng

Số tiền thu lợi bất chính của bị cáo để xem xét định khung tăng được xác định là khi bị cáo đã bán đồng tiền ảo để thu về tiền VNĐ. đồng tiền ảo USDT).

Trong trường hợp bị cáo chỉ mới chiếm đoạt đồng tiền ảo từ tài khoản sang tài khoản tiền ảo của bị cáo mà chưa bán được số tiền ảo đã chiếm đoạt thì bị cáo chỉ bị xét xử theo khoản 1 Điều 289 BLHS 2015 mà không có căn cứ để áp dụng tình tiết định khung “thu lợi bất chính”

3.4. Về xử lý dữ liệu điển tử bị lấy cắp

Trường hợp bị cáo đã bán được đồng tiền ảo để thu về tiền VNĐ thì đây được xác định là số tiền bị cáo hưởng lợi do phạm tội mà có nên buộc bị cáo phải trả lại số tiền VNĐ này cho chủ tài khoản. . Đối với số tiền ảo còn lại bị cáo chưa bán thì được coi là “dữ liệu điển tử” bị lấy cắp của vụ án và buộc bị cáo trả lại cho chủ tài khoản. . Tuy nhiên, trường hợp bị cáo chiếm đoạt tiền ảo sau đó tiếp tục đầu tư và thua lỗ hết không còn để buộc trả lại đông tiền ảo, cũng như không có căn cứ định giá đồng tiền ảo để buộc bị cáo phải bồi thường.

3.5. Tư cách tham gia tố tụng của chị Ng

Mặc dù tội “Xâm nhập trái phép vào mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc phương tiện điện tử của người khác” được quy định tại Điều 289 BLHS khách thể bị xâm hại là về trật tự công cộng trong lĩnh vực công nghệ thông tin, mạng viễn không, không phải xâm phạm sở hữu. Tuy nhiên, trong các vụ án có hành vi “chiếm đoạt tiền ảo” như thế này, thì chủ tài khoản đã bị xâm hại đến quyền quản trị tài khoản, thực tế họ cũng bị thiệt hại về vật chất do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra  do đó, cần xác định họ là “bị hại” trong vụ án để đảm bảo đầy đủ quyền cho chị Ng.

4. Một số đề xuất, kiến nghị liên quan đến “tiền ảo”

Thứ nhất, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cần nghiên cứu đưa ra một khái niệm thống nhất về “tiền ảo”, “tiền điển tử”. Việc chưa có được một khái niệm chính thức về tiền ảo trong các văn bản pháp luật Việt Nam đã tạo ra rào cản và khó khăn khi xác định các vấn đề pháp lý liên quan đến tiền ảo cũng như giải quyết các tranh chấp hoặc các hoạt động liên quan đến tiền ảo trong thực tiễn[7].

Thứ hai, đề nghị sửa đổi, bổ sung Điều 105 BLDS 2015 quy “tiền ảo” là một lại tài sản, được phép lưu thông có điều kiện. Việc thừa nhận tiền ảo là một loại tài sản theo quy định của Bộ luật Dân sự là điều cần thiết bởi điều này vừa phù hợp với xu thế chung của quốc tế vừa tạo được cơ sở pháp lý vững chắc cho việc xây dựng và ban hành các quy định liên quan đến tiền ảo tại Việt Nam[8]. Đồng thời, giao cho Ngân hành Nhà nước Việt Nam quản lý các công ty cung cấp các dịch vụ liên quan đến tiền ảo hoặc xếp nó thuộc loại ngành nghề kinh doanh có điều kiện để ràng buộc trách nhiệm của các công ty này đối với khách hàng[9].

Thứ ba, Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp, Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước Việt  Nam cần có nghiên cứu, ban hành Thông tư liên tịch để kịp thời hướng dẫn xử lý khi giải quyết các vụ án hình sự liên quan đến tiền ảo theo hướng lấy giá trị tiền VNĐ làm căn cứ xác định thiệt hại khi bị cáo chiếm đoạt tiền ảo sau đó mang đi đầu tư và thua lỗ không có khả năng thu hồi đồng tiền ảo để trả lại cho bị hại.

ThS. CAO VIỆT HOÀNG (Thẩm phán Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh)

[1] Trịnh Kim Chi (NHNN), Tiền ảo, tài sản ảo vẫn nằm ngoài sự điều chỉnh của pháp luậthttps://tapchinganhang.gov.vn/tien-ao-tai-san-ao-van-nam-ngoai-su-dieu-chinh-cua-phap-luat-6917.html, truy cập ngày 08/5/2025.

[2] Phạm Thị Trang (NHNN), Tài sản ảo: Nhìn từ góc độ pháp lý tại các quốc gia trên thế giới và Việt Nam. https://sbv.gov.vn/webcenter/portal/vi/menu/fm/ddnhnn/nctd/nctd_chitiet?leftWidth=20%25&showFooter=false&showHeader=false&dDocName=SBV624352&rightWidth=0%25&centerWidth=80%25&_afrLoop, truy cập ngày 08/5/2025.

[3] Minh Đức, Tiền ảo và pháp luật điều chỉnh vấn đề này tại Việt Nam. Tòa án nhân dân tối cao https://www.toaan.gov.vn/webcenter/portal/anle/chitietnghiencuu?dDocName=TAND283831, truy cập ngày 08/5/2025.

[4] Phạm Thị Trang (NHNN), Tlđd (2).

[5] Đoàn Thị Ngọc Hải, Hoàn thiện khung pháp lý về tiền ảo trong thời đại công nghệ 4.0 https://moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/nghien-cuu-trao-doi.aspx?ItemID=2507, truy cập ngày 31/8/2022.

[6] https://en.wikipedia.org/wiki/Tether_(cryptocurrency).

[7] Trần Văn Biên – Nguyễn Minh Oanh, Tiền ảo và một số vấn đề pháp lý đặt ra hiện nay, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 4, năm 2020, tr.32.

[8] Trần Linh Huân – Trần Quốc Minh,  Tiền ảo trong thời đại công nghệ 4.0 và những vấn đề pháp lý đặt rahttps://sbv.gov.vn/webcenter/portal/vi/menu/fm/ddnhnn/nctd/nctd_chitiet?leftWidth=20%25&showFooter=false&showHeader=false&dDocName=SBV554224&rightWidth=0%25&centerWidth=80%25&_afrLoop=22203735734048755#%40%3F_afrLoop%3D22203735734048755%26centerWidth%3D80%2525%26dDocName%3DSBV554224%26leftWidth%3D20%2525%26rightWidth%3D0%2525%26showFooter%3Dfalse%26showHeader%3Dfalse%26_adf.ctrl-state%3D12yuequeqh_9, truy cập ngày 08/5/2025.

[9] Đặng Văn Vương – Xuân Thoại, Tiền ảo và những vấn đề pháp lý, Tạp chí điện tử Luật sư Việt Nam,  https://lsvn.vn/tien-ao-va-nhung-van-de-phap-ly1632244829.html, truy cập ngày 31/8/2022.

Ảnh minh hoạ – Nguồn: Internet.

Bình luận về bài viết này